MẠN ĐÀM VỀ TƯƠNG QUAN GIA ĐÌNH GIA TỘC
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Gia đình là một tổ hợp nhỏ; quốc gia là một tổ hợp lớn. Giữa
gia đình và quốc gia còn có
một tổ hợp, tuy bề ngoài trông có vẻ lỏng lẻo, nhưng thật ra vẫn có ảnh hưởng
lớn đến cá nhân, đó là gia tộc. Mỗi người chúng ta, ngoài cha mẹ, anh em, còn có
ông bà, cô dì, chú bác, cậu mợ, anh em, cháu chắt nội ngoại xa gần.
Xưa nay, nhìn vào
một cá nhân, ở bên
Trung Hoa cũng như ở
Việt Nam, người ta
thường nhìn lên bốn
đời. Như vậy cộng
với đời của đương
sự, tất cả có chín
đời, gọi là Cửu tộc.
Cửu tộc là như sau:
CAO
TẰNG
TỔ
KHẢO (PHỤ)
KỶ
TỬ
TÔN
TẰNG TÔN
HUYỀN TÔN |
= KỴ HAY SƠ
= CỤ
= ÔNG
= CHA
= MÌNH
= CON
= CHÁU
= CHẮT
= CHÚT |
Nhưng thực sự mà sống với
nhau «trông thấy được nhau»
thường chỉ có 5 đời. Tuy nhiên, những gia đình được Ngũ đại đồng đường cũng
hiếm.
Nhân đi tìm tài liệu
để viết bài này, tôi
có đến thăm một cụ
bạn già, năm 1974
này đã 77 tuổi, ở
đường Thủ Khoa Huân.
Vào nhà, tôi thấy
trên tường có treo 2
câu đối như sau:
Ngũ đại đồng đường,
danh gia tế mỹ,
Bát tuần tấn thọ,
đức thụ trường vinh.
(Lạc khoản đề: Tân sửu
niên, trọng đông. Tùng Phong Nguyễn Khánh Trường trang hạ.)
[1]
và
Ngũ đại đồng cư,
trưng phúc quả,
Bát tuần khánh thọ,
kỷ niên hoa.
(Lạc khoản đề:
Tân sửu niên, trọng đông. Hán
học cử nhân, Tổng đốc trí sĩ, Phạm Văn Hanh đi hạ.)
Hỏi ra mới biết đó
là những câu đối do
các thân hữu mừng
vào năm 1961, nhân
dịp bát tuần khánh
thọ của cụ cố thân
sinh. Những câu đối
ấy đã nói lên được
danh giá và phúc ấm
của gia đình đó.
Vượt quá phạm vi gia
đình để khảo về gia
tộc, có một điều sẽ
khiến chúng ta phải
bỡ ngỡ hết sức, nếu
chúng ta để một vài
phút suy tư, đó là:
cái công trình vô
biên của tạo hóa của
trời đất, đã tốn
không biết bao nhiêu
là công phu, năm
tháng để tạo dựng
nên một Ta.
Chúng ta hãy nghĩ mà
coi:
Ai trong chúng ta mà
chẳng có cha, có mẹ.
Rồi 2 cha mẹ chúng
ta cũng lại đều có
cha mẹ. Như vậy vị
chi đã là 4 rồi. Rồi
4 ông bà chúng ta
cũng có cha mẹ, vị
chi là 8. 8 cụ chúng
ta lại có cha mẹ, vị
chi là 16. Cứ thế mà tính
lên cho đến đời thứ
10, thì chúng ta đã
có 1024 tổ tiên ở
khắp mọi nơi, làm đủ
mọi nghề, và lưu lại
cho chúng ta đủ mọi
đặc tính hay hay dở.
Nếu tính lên cho đến
đời thứ 20, ta sẽ có
1.048.576 tổ tiên.
Tính lên đến đời thứ
30, tức vào khoảng
cách đây 1000 năm,
ta sẽ được con số
1.000.000.000 tổ
tiên. Tính lên cho
tới năm I Thiên Chúa
giáng sinh, ta sẽ
được con số 1025
Tổ tiên. Thật là một
con số kinh khủng.[2] Nhưng
mà đâu phải chúng ta mới phát xuất tự năm I ! mà tổ tiên xa vời của chúng ta đã
có từ khi mới có loài người! Như vậy suy ra, thì chúng ta tất cả chẳng ít thì
nhiều đều là anh em với nhau, vì trong dĩ vãng gần hay xa, cũng đã có lần tổ
tiên chúng ta đã giao duyên phối ngẫu cùng nhau, nhưng theo đà thời gian các
giòng họ, y như các giòng sông nhỏ, mỗi dòng đi về một ngả khác nhau, nên càng
ngày càng trở nên xa lạ cùng nhau.
Bây giờ chúng ta hãy
tạm lấy số 1025
là số tổ tiên ta.
Rồi ta cứ cho 30 năm
là một đời, nhân lên
ta sẽ có 30x1025.
Đó là một con số
thời gian khủng
khiếp, ngoài sức
tưởng tượng của
chúng ta! Mới hay
một con người thật là có giá trị, vì đã mất bao
nhiêu người, bao nhiêu năm để tạo nên ta, chứ không phải chỉ có cha mẹ sinh ra
ta, và chỉ mất có 9 tháng 10 ngày đã sinh ra được ta.
Ông Dã Lan Nguyễn
Đức Dụ, trong quyển Một lối chép gia
phả thật đơn giản
đã có nhận định xác
đáng về gia đình và
gia tộc như sau:
«Phạm vi của gia đình không
phải chỉ có vỏn vẹn một ít người là cha mẹ, con cái, mà thật ra nó bao gồm cả tổ
tiên, cụ kỵ, ông bà của chúng ta nữa. Bởi vậy, nếu mọi người không muốn cho con
cháu của mình thành những người lạc lõng giữa một tập thể quốc gia rộng lớn và
lúc sống cũng như khi chết không đến nỗi mờ mịt với nguồn gốc cội rễ của tổ
tiên, ông bà, thì mình phải có bổn phận phục hồi lại tất cả những gì nó liên
quan tới những người đã khuất (là tổ tiên cụ kỵ…)
«Vậy thì 2 tiếng gia
đình chỉ có thể biểu
lộ đầy đủ được ý
nghĩa của nó khi bao
gồm cả người chết
(Tổ tiên) và người
sống (con cháu). Như
thế khi nhắc đến gia
đình, hiển nhiên còn
phải nhắc đến nhiều
người khác đã chết
từ lâu, trước cả ông
bà cha mẹ của mình -
nhưng lại có rất
nhiều công lao xây
đắp nền móng cho cái
gia đình mà mình
đang hiện diện trong
đó. Hơn nữa, thuật
lại những gì đã xảy
ra ở trong gia đình,
cũng không phải là
chỉ kể câu chuyện
hiện tại xảy ra ngay
trong đời sống của
mình, mà còn phải
nhắc đến nhiều sự
việc liên quan tới
gia đình từ trước
kia ở xa mãi bên
trên cả ông bà cha
mẹ mình nữa. Những
sự việc ấy không tên
ấy là một chuỗi dài
lịch sử xẩy ra nhiều
năm về trước dệt
thành một tấm màn
dày đặc che kín một
khoảng trống thật
lớn ở bên trong gia
đình mà những kẻ làm
con cháu chưa hề
được biết tới bao
giờ…»
Nơi khác ông viết:
«Gia tộc Việt Nam
xưa nay chia làm hai
bậc: một là nhà
hay tiểu gia đình,
gồm cha mẹ vợ chồng
con cái; hai là
họ hay đại
gia đình, gồm
tất cả mọi người
cùng chung một ông
tổ sinh ra, kể cả
người chết và người
sống, tức là «gia
tộc», gồm có một chi
trưởng với nhiều chi
thứ. Những người
liên hệ trong một
gia đình thì thường
là cụ, kỵ, ông bà
rồi đến cha mẹ, còn
ở bên trên nữa thì
có ông Cao tổ cho
đến Thủy tổ. Còn ở
dưới thì có con,
dưới con có cháu
dưới cháu là chắt,
và dưới chắt là chút
(hoặc huyền tôn),
cho đến ở xa dưới
nữa thì đều gọi
chung là viễn tôn.
Từ Cao tổ trở xuống
đến huyền tôn thì
gọi là Cửu tộc.»
[3]
I. GIA TỘC VỚI DI
TRUYỀN
Khảo về gia phả các
dòng họ lớn ở Việt
Nam, ta thấy có
nhiều dòng họ liên
tiếp trong nhiều đời
đã sinh ra được
những bậc khoa bảng
triều đình.
Ngày xưa khi tôi còn
học trường Y khoa Hà
Nội, một lần đến
chơi nhà anh bạn
cùng lớp, là anh Bùi
Quốc Hương. Anh cho
tôi biết từ 10 đời
nay cụ, kỵ, ông, cha
anh đều kế thế đỗ
đại khoa. Ngày nay
anh cũng đỗ thạc sĩ
y khoa.
Khảo về bốn dòng họ
lớn ở làng Đông
Ngạc, huyện Từ Liêm,
tỉnh Hà Đông ta thấy
bốn họ Phan, Phạm,
Đỗ, Nguyễn từ đời
Trần đến nay, liên
tiếp có các bậc khoa
bảng. Ngoài ra, Hà
Đông cũng còn nhiều
làng khác phát sinh
những dòng họ văn
vật:
Làng Đại Mỗ có dòng
họ Nguyễn Quí, 3 đời
làm đến Đại vương. Ở
nhà thờ tổ của dòng
họ có một biển đề:
«Nhất môn phụ tử tổ
tôn, kế đăng khoa,
kế vi sư phó, kế
phong đại vương phúc
thần, cổ kim sở hãn
văn dã.» (Một nhà mà cha con, ông cháu liên tiếp đỗ đại khoa, liên tiếp được làm
thái phó, liên tiếp được phong vương, phong thần, cổ kim thực ít khi nghe thấy
vậy.)[4]
Ở làng Tây Mỗ thì có
dòng họ Nghiêm; ở
làng La Khê có dòng
họ Ngô Thúc. Ở làng
La Nội, những dòng
họ Đặng, họ Bùi, họ
Nguyễn cũng có nhiều
vị đại khoa. Ở làng
Hương Canh có dòng
họ Nguyễn, họ Trần,
ở các làng Thượng
Yên Quyết, Hạ Yên
Quyết cũng có những
dòng họ Nguyễn, họ
Hoàng có người đỗ
đạt. Vì thế nên có
câu: «Mỗ, La, Canh,
Cót» để chỉ những
làng văn vật đó ở Hà
Đông.[5]
Ngoài Bắc cũng có
nhiều làng có những
dòng họ hết sức hiển
đạt như ở Vân Đình,
có dòng họ Dương,
con cháu cụ Dương
Khuê, Dương Lâm. Ở
Hưng Yên có làng
Bạch Sam với dòng họ
Phạm, ở Nam Định có
làng Hành Thiện với
họ Đặng. Vì thế đã
có câu: «Xứ Đông
Bạch Sam, xứ Nam
Hành Thiện.»
Ở Hải Dương thì có
dòng họ Vũ Hồn ở
làng Lương Ngọc, phủ
Bình Giang là một
dòng họ lớn từ Đinh,
Lê, Lý, Trần mãi cho
đến nay liên tiếp có
con cháu đại khoa.
Nhà thờ của dòng họ
có 2 câu đối.
Câu đối
1:
Cao tằng tổ khảo dĩ
lai, thập bát công
khanh tam tể tướng,
Đinh Lê Lý Trần nhi
hậu, bách dư tiến
sĩ, tứ đình nguyên.
(Từ cụ kỵ ông cha
tới nay, có 18 người
liệt hạng công hầu,
và 3 người làm Tể
tướng. Từ Đinh Lê Lý
Trần cho đến nay có
hơn 100 ông tiến sĩ
và 4 trạng nguyên.)
[6]
Câu đối 2:
Vi tử tôn lập vạn
đại cơ, công tướng
khanh hầu vô trị
loạn.
Dữ thiên địa đồng
nhất nguyên khí,
hoàng vương, đế bá
hữu long ô.
(Lập cơ ngơi vạn
đại lâu bền cho con cháu, dù loạn hay trị vẫn có khanh tướng công hầu. Có cùng
nguyên khí như trời đất Hoàng
vương đế bá còn có lúc thăng trầm.)
Ở trong Nam thì có
những dòng họ Trương
Vĩnh, Trương Minh,
v.v...
[7]
Ở Trung, ngoài những
dòng họ nhỏ chúng ta
phải kể đến dòng họ
Nguyễn Phước, tức là
dòng họ tôn thất nhà
Nguyễn hiện nay.
Dòng họ này khởi từ
vị khai quốc công
thần nhà Đinh là
Đinh quốc công
Nguyễn Bặc.
Đời nhà Lý có ngài
Kiễm hiệu Nguyễn Đệ,
Tả tướng quân Nguyễn
Viễn, v.v...
Triều nhà Trần có
Chiêu Quang Hầu
Nguyễn Sử, Thái bảo
Hoàng quốc công
Nguyễn Công Chuẩn và
con là Thái úy Trịnh
quốc công Nguyễn Đức
Trung.
Đời nhà Lê có Thượng
phu thái sư Hưng
quốc công Nguyễn
Kim, tức là vị tổ
đứng đầu Nguyễn
Triều sau này. Và từ
đó cho tới năm 1945
con cháu đã kế thế
làm vương đế ở Việt
Nam.[8]
Tại sao nhiều dòng
họ kế thế được vinh
hiển như vậy?
Có người cho rằng đó
là vì mả phát, có
người cho rằng vì
làng được phong thủy
tốt (như trường hợp
làng Đông Ngạc).
Người xưa khi bàn về
thi cử đỗ đạt đã
nói: «Nhất phận, nhì
duyên, tam phong
thổ, tứ tích âm
công, ngũ độc thư.»
(một là nhờ số mệnh,
hai là nhờ ngoại
duyên, ba là vì
phong thổ, bốn là vì
âm đức, năm là vì
học hành). Nhưng tôi
cho rằng chúng ta
cũng có thể cắt
nghĩa được bằng di
truyền. Thực vậy
trong con người
chúng ta, có những
di thể (gènes) rất
nhỏ. Tuy là nhỏ
nhưng chúng rất có
ảnh hưởng đến tính
nết, đến sự thông
minh, đến sức khỏe
chúng ta.
Y học chứng minh có
những dòng họ đã
truyền cho con cháu
những bệnh tật cố
hữu một cách rất là
ly kỳ. Xin đơn cử
một chứng bệnh di
truyền trong dòng họ
của bà Hoàng hậu
Victoria nước Anh.
Hoàng hậu Victoria
tuy không mắc bệnh
Huyết hữu
(hémophilie, một
bệnh hễ chảy máu, là
chảy không ngừng),
nhưng có thể truyền
bệnh ấy cho con
trai. Con gái không
mắc nhưng đi lấy
chồng thì lại có thể
truyền bệnh đó cho
ít nhiều con trai
của mình. Trong vòng bốn đời liên tiếp nhau, nhiều hoàng tử, nhiều vua chúa nội
ngoại của dòng họ, đã mắc bệnh huyết hữu.
Đặc biệt nhất là
trường hoàng tử nước
Nga là Alexis
(Tsarevitch), Hoàng
tử đã mắc bệnh huyết
hữu và nhiều lần đã
thập tử nhất sinh,
mỗi khi bị một vết
xây xát nhỏ. Các
lương y nhiều lần đã
đành phải bó tay.
Vua và Hoàng hậu
phải mời vị tu sĩ
tên là Raspoutine
tới chữa hoàng tử mới lành. Nhưng
ỷ y được vua và hoàng hậu tin phục, Raspoutine đã lộng hành quá đáng, gây nhiều
xáo trộn trong nước Nga, và như vậy đã một phần nào làm cho cuộc Cách
Mạng 1917 của Nga bùng nổ, lật đổ Nga Hoàng.
Và gần đây, bệnh
huyết hữu cũng đã
cướp mạng sống của
hoàng tử Alphonse
nước Tây Ban Nha.
Ông hoàng này đã lưu
vong sang ở Miami,
Florida, Hoa Kỳ. Một
hôm ông lái xe đụng
vào một xe khác. Ông
bị ít nhiều mảng
kính bể làm xây xát,
chảy máu. Những vết
thương ấy nếu ở nơi
người khác thì rất
nhẹ, nhưng ở nơi ông
thì lại rất nặng.
Ông bị chảy máu
không ngừng và vào
đến bệnh viện thì
chết. Ông là chắt
của hoàng hậu
Victoria.[9]
Nếu bệnh tật có thể
truyền tử lưu tôn,
thì dĩ nhiên sự
thông minh cũng có
thể di truyền nhiều
đời, các đặc tính
của mỗi dòng họ cũng
có thể truyền được
nhiều đời.
Thomas Huxley
(1825-1895), một
trong những ông tổ
của thuyết tiến hóa
cũng đã có chủ
trương tương tự. Ông
đã viết trong quyển Evolution and
Ethics như sau:
«Kinh nghiệm hằng
ngày đã làm cho
chúng ta trở nên
quen thuộc với những
dữ kiện mà chúng ta
gọi là di truyền.
Mỗi người đều mang
trong mình những dấu
tích rõ ràng của tổ
tiên xa gần.
«Đặc biệt là, cái mà
chúng ta gọi là tính
nết - tức là tổng
hợp các khuynh hướng
khiến ta hoạt động
theo một chiều hướng
riêng biệt nào đó,
thường có thể tìm
thấy nơi các tông
chi tổ tiên chúng
ta.
«Như vậy, chúng ta
cũng có thể nói được
rằng tính nết đó -
cái đặc điểm tâm trí
của mỗi một người đó
- thực sự đã diễn
tiến từ hình hài này
sanh hình hài khác,
thực sự đã «luân
hồi, chuyển kiếp» từ
đời này sang đời
khác …
«Cái triết gia Ấn Độ
gọi những đặc tính
ấy là duyên nghiệp…
Trong thuyết tiến
hóa, thì khuynh
hướng làm cho một
mầm sống trở thành
một loài riêng biệt
nào đó, ví dụ như là
hạt biển đậu trở
thành cây biển đậu,
cái đó là duyên
nghiệp… Đó là kẻ
thừa hưởng cuối cùng
và là kết quả cuối
cùng của tất cả
những điều kiện đã
có tác dụng trên một
tộc hệ đã khai
nguyên từ nhiều
triệu năm nay từ khi
sự sống mới xuất
hiện trên mặt đất
này.»
Và ông trích dẫn lời
của giáo sư T.W.
Rhys Davids, để kết
luận: «Cỏ tuyết điểm
hoa là điểm tuyết
hoa chứ không phải
là cây sến và chỉ là
điểm tuyết hoa chứ
không phải là cây
sến và chỉ là hạt
sương thuộc về một
loại nào đó, chính
là kết quả các duyên
nghiệp của một chuỗi
bất tận các kinh
nghiệm quá khứ.»
[10]
Thế là Thomas Huxley
đã đồng hóa Di
truyền với thuyết
Duyên nghiệp (karma)
của Phật giáo, và đã
muốn nối liền mỗi
một sinh vật hiện
hữu với muôn triệu
tiên tổ đã sinh ra
trên mặt địa cầu này
trước nó…
II. GIA TỘC VỚI VĂN
HÓA, CHÍNH TRỊ, XÃ
HỘI
Gia tộc vì là một
thể chế cố cựu nên
đã ảnh hưởng sâu
rộng đến các vấn đề
văn hóa chính trị xã
hội.
Giở ca dao, tục ngữ
Việt Nam, ta thấy có
rất nhiều câu liên
quan đến gia tộc, họ
hàng. Ví dụ như:
- Cha nó lú nhưng
chú nó khôn.
- Yêu nhau yêu cả
đường đi,
Ghét nhau ghét cả
tông chi họ hàng.
- Một người làm quan
cả họ được nhờ.
- Một giọt máu đào
hơn ao nước lã.
- Xểnh cha còn chú,
xểnh mẹ còn dì.
- Cậu chết mợ ra
người dưng.
Chú tôi có chết,
thím đừng lấy ai …
Gia tộc Việt Nam và
Trung Hoa còn có một
mối liên quan rất là
kỳ quặc đến văn hóa:
đó là niềm tin vào
mồ mả đất cát.
Xem gia phả bất kỳ
một dòng họ lớn nào,
lúc đầu tiên cũng
thấy đề cập đến mồ
mả kết phát như là
lý do chính yếu của
sự phát vua, phát
quan, phát phú, phát
quí của giòng họ
mình.
Ví dụ như dòng họ Vũ
Hồn thì cắt nghĩa
rằng ngôi mộ của
thủy tổ đã được táng
treo vào một đại
huyệt gọi là: «Cửu
thập bát tú triều
dương.» Đó là kiểu
đất «Tiến sĩ sào» (ổ
ông nghè). Ông Vũ
Hồn sau khi sinh
được hai người con
sinh đôi, người anh
ở lại Việt Nam, phát
ra một dòng công
khanh khoa bảng ở
Việt Nam liên tiếp
từ bao nhiêu đời.
Người con được thầy
địa lý đưa về Trung
Hoa, cũng đã sinh ra
không biết bao nhiêu
là con cái cháu chắt
khoa bảng công
khanh.
Trần Đức Lai, trong
truyện Hoa khuê
các, đăng trong
nhật báo Đông
Phương, nơi số 142
ra ngày 17-8-1974 đã
viết về ngôi mộ của
tổ phụ và tổ mẫu của
Nguyễn Kim như sau:
«Tổ phụ và tổ mẫu
của Nguyễn Kim là
người hiền lành cày
ruộng và vào rừng
làm lâm sản. Một
buổi chiều ông vào
rừng lấy măng tre
măng nứa, khi trở
về, trời đổ giông
gió, bèn chạy vào
trong hang núi ẩn.
Bỗng một tiếng sét
nổ vang trời đá trên
núi đổ xuống lấp
chặt cửa hang, chôn
sống người tiều phu
họ Nguyễn trong hang
đá đó. Chiều hôm
sau, bà vợ đi tìm
chồng thì bị cọp tha
về gần hang núi nơi
ông chồng đã bị chôn
sống, đặt trước cửa
hang rồi phóng mình
đi thì bỗng mối đùn
lên vùi luôn thây
người vợ. Trời lại
đổ mưa giông ầm ầm,
ngày sau, nơi chôn
cất hai vợ chồng
người họ Nguyễn ở
thôn Gia Miêu Ngoại
Trang, trở thành một
khu rừng rậm, thân
nhân không làm sao
tìm được xác của ông
bà họ Nguyễn để chôn
cất nữa. Theo thầy
địa lý, thì đó là
nhờ phúc đức nhà họ
Nguyễn nên chồng
được thiên táng, vợ
đuợc hổ táng đúng
ngôi đất Đế Vương
sau này nhà Nguyễn
mới thống nhất sơn
hà lên ngôi Đế
Vương.» Những chuyện
như vậy đố ai lùa ra
được khỏi ký ức
người dân Việt.
Nhiều gia đình họp
lại thành một gia
tộc, nhiều gia tộc
họp lại thành một
nước. Bên Tàu cũng
như bên ta xưa cho
rằng toàn dân có
khoảng chừng 100 họ
vì thế nên tòan dân
trong một nước cũng
được gọi là Bách
tính. Nhưng thực ra
trong một nước có
rất nhiều dòng họ.
Học giả Nguyễn Bạt
Tụy đã viết trong
tập Tên người
Việt Nam nơi
trang 49 như sau:
«Ông P.Gourou, trong
quyển Les paysans
du Delta tonkinois,
tr. 127, tính rằng
có tới 202 vùng đồng
bằng Bắc Việt. Nhưng
theo sự tìm tòi của
chúng tôi, con số ấy
được tới 308 và có
lẽ còn hơn nữa ở
toàn cõi Việt Nam.»
Giáo sư Paul Perny,
trong tập
Appendice du
Dictionnaire
Français Latin,
Chinois de la langue
Mandarine parlée,
đã tìm ra được tất
cả 450 họ ở bên
Trung Hoa trong đó
420 họ đơn và 30
kép.
Đến như chuyện lấy
vợ lấy chồng, thì
người ta thường
tránh lấy họ đồng
tông, mà lấy người
thuộc dòng họ khác.
Lấy nhau trong họ
đồng tông, ngoài sự
đàm tiếu của mọi
người về phương diện
luân lý, còn sợ bị
ảnh hưởng tai họa về
các bệnh di truyền
của một dòng họ. Cho
nên luật pháp Đông
Tây thường cấm lấy
nhau trong họ đồng
tông. Lấy người khác
họ, cũng còn là một
cách thêm vây thêm
cánh cho dòng họ
mình.
Các nhà quí tộc xưa
ở Trung Hoa cũng như
ở Việt Nam quan niệm
hôn nhân như một
phương cách để:
1. Sinh con, đẻ cái
cho đông, cho dòng
họ mình lớn mạnh,bền
vững lâu dài.
2. Tăng thêm uy thế
của dòng họ mình.
Cưới xin tức là liên
kết với một giòng họ
khác.
3. Vợ chồng cùng
nhau lo việc tế tự
tổ tiên.
Khảo thư tịch Trung
Hoa, ta thấy xưa kia
có một tục lệ rất ly
kỳ như sau:
Khi mà nhà trai
thuộc dòng quý tộc
hỏi vợ, thì bên nhà
gái, lúc cho con gái
mình về vu quy, phải
cho ít nhất là người
em gái út theo chị,
hay một người cháu
gái theo cô để phù
dâu và cũng là để
làm hầu thiếp sau
này. Vợ cả thì gọi
là Đích. Các nàng
hầu đi phù dâu thì
gọi là Dắng. Các cô
phù dâu gồm có ít
nhất là:
– Em gái út gọi là
Đệ.
– Cháu gái gọi là
Điệt.
Tùy theo cấp bậc
trong xã hội, số
nàng hầu sẽ tăng:
– 1 người quý phái
thường sẽ được cung
cấp 1 vợ, 1 nàng
hầu.
– Đại phu 1 vợ hai
nàng hầu.
– Chư hầu 3 vợ 6
nàng hầu.[11]
– Thiên tử 4 vợ 9
nàng hầu.
Trần Thủ Độ xưa cũng
đã biết dùng hôn
nhân để củng cố dòng
họ. Ví dụ tìm cách
thông gia với các
đại tướng quân, hoặc
cho các vương tôn đi
trấn nhậm các vùng
biên cương hiểm trở,
rồi lại khuyến khích
họ chọn vợ trong
những bộ lạc Mường
Mán. Như vậy cốt là
để dùng hôn nhân
củng cố ngai vàng
cho dòng họ. Sau này
ta thấy Công Chúa
Huyền Trân đã kết
duyên cùng vua Chiêm
Thành để đổi lấy hai
châu Ô, Lý…
Và chính cũng là để
tiêu diệt mầm mống
phản nghịch, phục
thù, nên vua chúa
nước Tàu xưa đã lập
hình phạt tru di tam
tộc:
– Giết họ người phạm
tội.
– Giết họ mẹ người
phạm tội.
– Giết họ vợ người
phạm tội.
Hình phạt này được
Thương Ưởng sáng chế ra, nhưng
đến đời nhà Đường thì Vũ Hậu truyền bỏ. Tuy nhiên ta thấy các triều đại vua chúa
Trung Hoa vẫn thường áp dụng hình phạt này.
Ở nước ta, thì đời
nhà Lê, triều đình
nhà Nguyễn đã tru di
tam tộc nhà cụ Ức
Trai Nguyễn Trãi,
mặc dầu trong bộ
luật Hồng Đức không
thấy có ghi hình
phạt đó.[12]
Đến đời Nguyễn, hình
luật Gia Long phỏng
theo hình luật Mãn
Thanh, nên còn nặng
hơn cả hình phạt tru
di tam tộc, vì ngoài
việc tru di tam tộc
còn giết hết mọi
người ở chung một
nhà với phạm nhân,
mặc dầu là khác họ.[13]
Chính vì thế mà mỗi
khi có người thân bị
tội, nhiều người
trong dòng họ đã
phải thay tên đổi
họ, để thoát tội
tình, đang họ Trịnh
đổi ra họ Nguyễn,
đang họ Nguyễn đổi
ra họ Lê…
Tôi có gặp một người
Trung Hoa có họ Vi 韋 . Tôi hỏi sao có họ
Vi? Ông cho biết cha
ông trước kia là họ
Hàn 韓,
nhưng vì có tội với
triều đình nên đã
tách chữ Hàn làm
đôi, bỏ đi nửa trái,
giữ lấy nửa phải,
thành ra họ Vi 韋.
Cũng như ở nước ta
nhiều người họ Mạc
đã đổi thành họ Phạm
vì Mạc 莫 và Phạm 范 đều có bộ thảo đầu (艹)
như nhau. Thế là «bỏ
thì thương, vương
thì tội» đành giữ
lấy ít là một nửa
vậy.
Nói đến gia đình,
gia tộc, không thể
nào bỏ qua được một
vấn đề tối ư quan
trọng đó là sự thờ
cúng tổ tiên với các
vấn đề phụ thuộc
liên hệ như Từ
Đường, ruộng hương
hỏa, đích tử, đích
tôn, trưởng tộc … Lễ
Ký xưa đã quy định
về nhà thờ tổ như
sau:
– Nhà thờ tổ to nhỏ
tùy theo giai cấp và
chức tước.
– Nhà thờ tổ của bậc
Thiên tử có bảy
miếu: ba miếu ở phía
bắc gọi là Chiêu, ba
miếu ở phía phía nam
gọi là Mục, và một
miếu ở phía Tây, để
thờ vị Thái tổ đã
lập ra dòng họ.
– Nhà thờ của các
bậc chư hầu có năm
miếu thờ: hai miếu ở
phía bắc gọi là
Chiêu, hai miếu ở
phía nam gọi là Mục,
và một miếu ở phía
tây thờ vị Thái tổ
được vua phong hầu
và ban cấp Thái ấp.
– Nhà thờ của bậc
đại phu có ba miếu:
một miếu ở phía bắc
gọi là Chiêu, một
miếu ở phía nam gọi
là Mục và một miếu ở
phía tây thờ vị Thái
tổ.
– Nhà thờ của các
bậc quan sĩ, chỉ có
một miếu.
– Thứ dân (người
dân thường) không có miếu thờ riêng và thờ tổ tiên ngay trong nhà.[14]
Sau đây là sơ đồ bảy
miếu của Nhà Chu:[15]
Về đích tử, đích tôn, tức là về người có
bổn phận thờ cúng tổ tiên,
luật Hồng Đức, điều 389, quy định:
1. Trước hết phải
chọn con trưởng của
người vợ cả.
2. Nếu người đích tử
chết trước, thì lập
người cháu trưởng.
3. Nếu không có cháu
trưởng mới lập con
người vợ thứ.
4. Trong hàng con vợ
thứ, không chọn lấy
người nhiều tuổi, mà
lại chọn lấy người
con hiền của vợ lẽ.
5. Trong trường hợp
không có con trai,
thời được chỉ định
các con gái hoặc
người thân thuộc
(điều 388 luật Hồng
Đức).[16]
Về ruộng hương hỏa,
thì luật Hồng Đức
quy định có thể lấy
1/20 ruộng đất để
làm ruộng hương hỏa.
Điều 400 luật Hồng
Đức quy định thêm:
Ruộng hương hỏa dù
con cháu nghèo khó
cũng không được đem
bán. Trái luật phải
ghép vào tội bất
hiếu. Nói đến gia
đình, gia tộc, cũng
phải nói đến người
trưởng tộc.[17]
Người trưởng tộc chính là
nòng cốt của một dòng họ. Tình thân ái giữa họ hàng, một phần cũng nhờ người
trưởng tộc nên mới trở nên thắm thiết. Người trưởng tộc có thể là người lớn
tuổi, nhưng cũng có thể là người đức cao, có địa vị lớn trong xã hội, chứ không
nhất thiết phải theo nguyên tắc đích trưởng như ở ngoài Bắc. Các vị trưởng tộc
có quyền triệu tập hội đồng gia tộc, hay thân thuộc họ hàng mỗi khi cần, phân xử
những tranh chấp ở trong họ, định đoạt, khuyên bảo khi họ hàng có việc hôn tang
hoặc những việc quan hệ khác. Tôi đã thấy nhiều vị trưởng tộc chẳng ái ngại tốn
kém đã triệu tập mọi người trong họ từ ở các tỉnh xa về, để phát gia phả cho họ
hàng.
Nhiều dòng họ còn
lập ra những hội
tương tế. Ngoài số
tiền nguyệt liễm,
còn thu một khoản
tiền nhỏ, gọi là
tiền trợ tang.
Số tiền này sẽ được
dùng để giúp đỡ cấp
thời, mỗi khi có một
hội viên mệnh một.
Những dòng họ lớn,
như dòng họ Nguyễn
phước lại còn có bản
Tin Tức để phổ biến
trong dòng họ.
Nói đến gia tộc, chúng ta
cũng không nên quên cách đặt tên của ít nhiều dòng họ, để cứ thấy chữ đệm là
biết được tôn ti.
Điển hình nhất là họ
Nguyễn Phước, năm
Quí Tị 1823, tức là
năm thứ 4 triều Vua
Minh Mạng, vua định
phép đặt tên cho tất
cả Hoàng gia, tên
chia làm thành 11
bài thơ. Đế hệ thì
chọn vào Kim sách,
10 hệ khác thì chạm
vào Ngân sách.
Bài thơ về chính
thống đế hệ như sau:
Miên
[18]
Hường Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quý Định Long
Trường.
Hiền Năng Kham Kể
Thuật,
Thế Thoại Quốc Gia
Xương.
Như vậy thấy
Tùng Thiện Vương chẳng hạn với tên là Mân (Miên) Thẩm, ta sẽ biết ngài là con
của vua Minh Mạng, và cụ Ưng Hoát chẳng hạn sẽ là hàng chú Bửu Lộc, hàng ông
Vĩnh Cẩn, hàng cụ Bảo Long, v.v...
Cụ Dương Khuê vì có
đuợc Tùng Thiện
Vương mời ngồi dạy
học tại nhà cũng đã
bắt chước thế thứ
nhà Nguyễn mà làm
một bài thơ để đặt
cho dòng họ mình như
sau:
Tự Thiệu Hồng
Nghiệp,
Vi Bang Gia Ky (Cơ),
Thế Tế Kỳ Mỹ,
Phúc Khánh Dụ Chi.
Và dĩ nhiên là con
cháu cụ sẽ có những tên Dương tự, Dương thiệu, Dương hồng, Dương nghiệp, v.v...
Ngày nay ở miền nam
Việt Nam đang có
phong trào làm gia
phả. Nhiểu dòng họ
đã in những quyển
gia phả rất lớn để
phát cho các gia
đình trong chi tộc.
Tuy nhiên ở Việt
Nam, công việc làm
gia phả cũng khó, vì
ít nhà có thói quen
làm gia phả. Hơn
nữa, vì tình hình
chiến tranh, vì nạn
tản cư, vì nạn hồ sơ
lý lịch thất lạc,
nên mỗi khi muốn
truy tầm về gia phả
thiệt là khó.
Ở Châu Âu trái lại,
muốn lập gia phả, họ
có thể lập dễ dàng,
vì xứ đạo nào cũng
có sổ rửa tội, sổ
hôn phối, làng mạc
quận huyện nào cũng
có sổ bộ hộ tịch.
Lại nữa các phó bản
về hộ tịch trong một
tỉnh đều được tập
trung về thị xã, nên
muốn tìm về tên
tuổi, nghề nghiệp tổ
tiên không có gì là
khó.
Cuối cùng tưởng cũng
nên cân nhắc lại một vấn
đề lịch sử trong đó việc thờ cúng tổ tiên đã đóng vai chủ yếu. Đó là sự
cãi vã nhau giữa các giáo sĩ Tây phương khi sang giảng đạo ở Trung Hoa
về vấn đề thờ cúng tổ tiên. Các linh mục dòng tên thì cho rằng thờ cúng
tổ tiên không gây trở ngại gì cho việc rao giảng phúc âm, và cứ nên để
người tôn giáo tân tòng được tiếp tục thờ cúng tổ tiên như cũ. Các linh
mục các dòng khác như Thừa sai, Đa minh, Biển đức, v.v... thì cho rằng
phải cấm hẳn việc thờ cúng tổ tiên. Giáo hội La Mã cũng nhập cuộc. Ngày
19-03-1715, Giáo hoàng Clément XI ra sắc chỉ Ex Illa Die cấm người tôn
giáo không được tôn kính tổ tiên theo lối Á đông. Tất cả những sự chia
rẽ ấy đã dần dần đưa đến sự thất bại trong công cuộc truyền giáo ở Trung
Hoa.
Nhưng dần dà, giáo
hội La Mã nhận thấy
mình đã có quyết
định sai lầm nên đã tìm cách
sửa sai. Vì thế sau 200 năm cấm đoán, Thánh bộ truyền giáo dưới triều đại Pie
XII với sắc lệnh ngày 08-12-1939 đã cho phép giáo dân tỏ lòng tôn kính tổ tiên
đã quá vãng như cúi
đầu đi trước di ảnh,
trước bài vị. Tuy có
sắc lệnh ấy, nhưng ở
Việt Nam có một thời
đã không chịu phổ
biến và thi hành,
mãi sau này, khoảng
năm 1960 mới cho áp
dụng. Có lẽ là vì
làn sóng canh tân
của công đồng
Vatican II đã bắt
đầu dâng lên mạnh.
Gần đây, trong ít
nhiều nhà Công giáo
đã thấy có di ảnh
cha mẹ quá vãng,
phía trước có đặt
hương hoa. Đó là
điều mà trước kia
không thể nào có.
Hơn thế nữa, ngày
29-11-1970, ngày
khai mạc đài phát
thanh Veritas, giáo
hoàng Paul VI có gửi
một sứ điệp cho các
dân tộc Á Châu.
Trong một đoạn sứ
điệp ấy, Ngài đặc
biệt ca ngợi lòng
hiếu thảo gắn bó với
gia đình, và sự thờ
kính tổ tiên của
người Á Đông. Nguyên
văn như sau:
«Quả thực, thưa anh
em, khi nhìn lại quá
khứ của các dân tộc
Á Châu, chúng tôi đã
phải xúc động trước
tinh thần biết trọng
những giá trị tâm
linh. Tinh thần ấy
đã nổi bật trong tư
tưởng các nhà hiền
triết và trong đời
sống của quần chúng
Á Châu. Óc kỷ luật
của các nhà tu hành,
lòng đạo hạnh thâm
sâu của dân chúng,
lòng hiếu thảo gắn
bó với gia đình, và
thờ kính tổ tiên của
anh em, tất cả những
đức tính đó là những
dấu chứng tỏ anh em
không ngừng tìm đấng
Chí tôn và khao khát
siêu nhiên. Giá trị
của những đặc điểm
ấykhông chỉ liên
quan đến đời sống
tinh thần anh em mà
thôi. Nhìn chung,
những đặc điểm ấy
chẳng những không
làm cản trở cho bước
tiến kỹ thuật, kinh
tế, xã hội như anh
em khao khát một
cách chính đáng, mà
lại còn là nền tảng
cho một cái gì vô
giá khiến sự tiến bộ
có thể thực hiện một
cách trọn vẹn mà
không phải hy sinh
những giá trị thâm
sâu và quý hóa nhất.
Chính những giá trị
này đã làm cho con
người, một thực thể
tràn ngập luồng khí
tinh thần, vừa là
hay có thể là chủ
của vũ trụ, các năng
lực trong vũ trụ mà
còn là chủ của chính
mình. Khoa học và kỹ
thuật đều làm chứng
cho cuộc chinh phục
của trí óc con người
trong lĩnh vực vật
chất. [...] Dầu vậy,
với nhãn giới tinh
thần anh em thừa
hưởng được của
truyền thống, tinh
thần thượng luật,
lòng đạo và sự bảo
toàn đời sống gia
đình của anh em,
chắc chắn anh em có
đủ sức [...] đi tới
chỗ giúp nền văn
minh Tây phương vượt
được những nguy
hiểm, trong đó nền
văn minh này đang bị
chính sự tiến bộ của
mình nhốt chặt lại.»
(Xem Sacerdos, Linh mục nguyệt
san, số 109-110,
tháng 1-2-1971,
tr.50-57)
Giáo Hoàng Paul VI
thực đã tỏ ra rất
sáng suốt khi đề cao
nền minh tinh thần
của Á Đông, tình
nghĩa gia đình bền
chặt của người Á
đông, lòng hiếu thảo
và lòng kính nhớ tổ
tiên của người Á
đông. Và có lẽ ngài
là vị Giáo hoàng đầu
tiên đã yêu cầu Á
châu với tất cả
những truyền thống
tâm linh tốt đẹp nên
giúp cho Âu châu thoát
được hiểm nguy băng
đọa hiện thời.
III. TỔNG LUẬN
Bàn về gia đình
gia tộc mà không đề cao được tinh thần tương thân tương
trợ giữa các thành viên của dòng họ, mà không đề cao được vấn đề danh dự gia
đình, mà không khuyến khích được mọi người theo gương tổ tiên để, nói rộng ra,
thì an dân định quốc, phú quốc cường dân; nói hẹp lại, thì ăn ở cho xứng đáng
với danh nghĩa con người thì cũng là uổng công vô ích. Cho nên khi đưa ra chủ đề
tương quan gia đình gia tộc, chính là muốn chấn hưng tại tinh thần gia đình, gia
tộc ngày nay đang độ suy vi, và củng cố lại mối dây liên lạc thân ái, tương phù
tương trợ giữa họ hàng, mối dây mà ngày nay đà văn minh vật chất làm cho
trở nên lỏng lẻo.
Và để kết thúc bài
này tôi muốn nhắc
lại hai gương xưa
tích cũ. Đó là hai
câu truyện «Thiên hạ
đệ nhất gia» đã ghi
trong truyện Tàu.
Nếu quý vị đã đọc
Càn Long hạ Giang
Nam, ắt còn nhớ
chuyện Cao Thiên Tứ
(tức Càn Long vi
hành) khi đến Cô Tô
(Tô Châu). Nơi đây
vua thấy ngoài cổng
nhà quan Thừa Tướng
đương triều là Lưu
Dung có treo một tấm
biển đề: «Thiên hạ
đệ nhất gia», Vua
lấy làm phật ý,
quyết vào hỏi cho ra
lẽ.
Vua vào lớp dinh cơ
thứ nhất, thì được
các cháu trai của
Lưu Dung khoảng 20
tuổi ra tiếp. Vua
hỏi đến 5 chữ «Thiên
hạ đệ nhất gia», các
thanh niên này không
biết đàng trả lời
nên mời vua vào lớp
dinh cơ thứ hai. Ở
đây có anh Lưu Dung
khoảng chừng hơn 40
ra tiếp. Vua lại hỏi
như trên, anh Lưu
Dung cũng không biết
trả lời, lại mời vua
vào dinh cơ thứ ba.
Nơi đây thân phụ Lưu
Dung khoảng 60 tuổi
ra tiếp, nhưng vẫn
không chịu trả lời
câu hỏi của nhà vua,
mà lại mời vua vào
dinh cơ thứ 4. Nơi
đây ông của Lưu Dung
khoảng chừng hơn 80
ra tiếp. Vua lại đặt
câu hỏi, ông cụ này
cũng không chịu trả
lời, lại mời vua vào
lớp dinh cơ thứ năm
ở bên trong.
Càng vào sâu thêm vua càng
thấy dinh cơ một ngày một thêm lộng lẫy, cảnh trí thêm tân kỳ, đồ đạc bày biện
càng ngày càng thêm sang trọng.
Vào tới dinh cơ thứ
5 vua được một ông
cụ già hơn 100 tuổi
ra đón tiếp. Vua lại
hỏi ý nghĩa 5 chữ
«Thiên hạ đệ nhất
gia». Cụ già bèn trả
lời: Khi già được
100 tuổi, thân bằng
cố hữu chúc mừng cho
già ba tấm khuôn
biển. Tấm thứ nhất
đề là «Thiên hạ
đệ nhất gia»,
tấm thứ hai đề là
«Bách tuế đường». Còn tấm thứ ba, Cao tiên sinh coi thì sẽ rõ biết công cuộc nhà
Lưu gia này. Vua ngước mắt xem thấy tấm biển thứ ba tỏ ý khen ngợi nhà
Lưu gia như vầy:
«Trời cũng không
qua, đất cũng không
hơn, vua cũng khó
tày, nhân gian đâu
lấn được. Như thể:
Cha vi tể tướng, con
vi tể tướng, cháu vi
tể tướng. Dẫu ai
giầu đâu
qua đây quý, dẫu ai
quý sao bằng cha
con, con cháu nhà ta
liên đỗ khoa trường.
Dẫu dòng ai liên đỗ
khoa trường cũng
chẳng bằng kiến họ
Lưu liên kết năm đời
hiện tại sống được
một trăm năm.»
Vua xem rồi thì khen
rằng: «Thiệt là nhà
Lưu gia đệ nhất
trong đời.» (Xem
Càn Long hạ Giang
Nam, dịch giả
Thanh Phong, tr.
215-220).
Tích thứ 2, ta đọc
thấy trong quyển
Đại Minh Hồng Võ.
Vua Đại Minh Hồng Võ
(Minh Thái tổ) nghe
thấy ở Kim Huê có
nhà họ Trịnh đề tấm
biển rằng: Thiên hạ
đệ nhất gia, bèn
giáng chiếu đòi vào
chầu. Hồng Võ phán
hỏi: «Người là gì mà
gọi là nhà ngươi thứ
nhất?» Họ Trịnh tâu
rằng: «Bởi anh em bà
con chúng tôi ở
chung tám đời, hòa
thuận không tiếng
chi hết, nên quan
Thái thú tặng tấm
biển ấy mà làm gương
cho bá tánh, chớ
không phải của tôi
làm.» Hồng Võ hỏi:
«Bà con bao nhiêu mà
ở chung lâu vậy?» Họ
Trịnh tâu rằng: «Nội
nhà tôi hơn một ngàn
miệng ăn.» Xảy ra
nghe Hoàng hậu ở sau
bình bình phong tâu
rằng: «Bệ hạ có một
mình còn thâu đặng
thiên hạ thay, nếu
ngàn người đồng một
lòng thì làm chi lại
không nổi!» Họ Trịnh
tâu rằng: «Không có
phép chi lạ, phàm
việc nào lớn nhỏ,
cũng không nghe lời
đàn bà.» Minh Hồng
Võ cười ngất, xảy có
sứ Hà Nam dâng lê
thơm. Hồng Võ ban
cho họ Trịnh hai
trái mà tha về. Họ
Trịnh tạ ơn, rồi để
hai trái lê trên đầu
mà đi ra. Vua sai
quan Hiệu úy nom
theo coi thử, thấy
họ Trịnh đem hai
trái lê về đâm nát,
hòa với hai chậu
nước để trên bàn
giữa nhà, mỗi người
uống một chén nước
rồi trở mặt về Bắc
mà lạy tạ ơn. Hiệu
úy về tâu lại. Vua
thấy vậy tặng thêm
một tấm biển ngoài
cửa ngõ, đề rằng:
«Trịnh nghĩa môn.»
(Xem Đại Minh
Hồng Võ, Thanh
Phong dịch,
trang 380.)
Ở Việt Nam chúng
ta bao giờ mới có được
một nhà như Lưu gia
và Trịnh gia? ●
Đã in trong
Tạp chí Phương
Đông, số 40,
tháng 10-1974.
1. Coupé, André,
Doctrines et
cérémonies
religieuses du pays
d’Annam (in
Bulletin de la
Société des E.I,
Nouvelle Série, Tome
VIII, No 3, Juillet
Septembre, 1933)
2. Cấn, Tôn Thất,
Constitution de la
Famille Impériale
d’Annam (Imp.
AJS, 1942)
3. Cửu Long Giang,
Toan Ánh, Người
Việt đất Việt,
Nam Chi tùng thư,
SaiGon, 1967.
4. Granet, Marcel,
La Polygynie
sororale et le
Sororat dans la
Chine Féodale,
Angers, Imprimerie
F.Gaultier et
A.Thebert, 4 Rue
Garnier.
5. Mẫu , Vũ văn,
Cổ luật Việt Nam
lược khảo, q.
II, Saigon 1970.
6. Ross, Nancy
Wilson, Three
Ways of Asian
Winsdom, A
Clarion Book
Published by Simon
and Schuster, N.Y.
1969.
7. Schreiner,
Alfred, Les
Institutions
Annamites en Basse -
Cochinchine,
Saigon Claude et Cie
Imprimeurs,
éditeurs, 1901.
8. Sển, Vương Hồng,
Saigon năm xưa,
nhà sách Khai Trí,
Saigon 1969.
9. Tabuteau,
Jacques,
Connaissez-vous
votre famille,
c/o l’auteur, 29 de
Beauvais à Clermont
(Oise) et en dépôt
aux éditions
sociales françaises,
7 Rue Jadin Paris,
XVII 1947.
10. Tavernier,
M.Emile, Le Culte
des ancêtres,
(in Bulletin de la
Société des Études
Indochinoises,
Nouvelle Série, Tome
1, No 2, Juillet
Décembre, 1926.
11. Toàn, Nguyễn văn
(Túy Lang), Thọ
Mai gia lễ, nhà
sách Khai Trí,
Saigon, 1969.
12. Tụy, Nguyễn Bạt,
Tên người Việt
Nam, Saigon,
1954
13. Thanh Phong,
dịch giả, Càn
Long hạ Giang Nam,
Tín Đức thư xã.
14. Thanh Phong,
dịch giả, Đại
Minh Hồng Võ,
Tín Đức thư xã.
15. Thuyết, Dĩ Thủy,
Phạm Văn, Đông
Ngạc tập biên,
Saigon 1963.
16. Ung Trình,
Nguyễn Phúc - Bửu
Dưỡng, Nguyễn Phúc,
Tùng Thiện Vương,
nhà in Sao Mai, Châu
Bình, Thủ Đức, 1970.
17. Winchester A.M.,
Genetic (2d
Edition), Houghton
Mifflin Co Boston,
The Riverside Press
Cambrigde, 1968.
Cụ Nguyễn Khánh Trường đỗ cử
nhân Hán học,
làm đến tuần phủ.
[2] Xem Jacques
Tabuteau,
Connaissez vous
votre famille?, Edition Sociale Française, 7 Rue Jadin Paris XVII, p. 42.
[3] Xem sách đã
trích dẫn,
tr.35, 34 và 31.
[4] Xem Dĩ Thủy Phạm
Gia Thuyết,
Đông Ngạc Tập biên,
Saigon, 1963.
[5]
Mỗ là Đại Mỗ và Tây Mỗ. La là La
Khê, La Nội.
Canh là Hương
Canh, Vân Canh.
Cót là Thượng
Yên Quyết, Hạ
Yên Quyết.
(Phỏng theo
Từ Liêm huyện
đăng khoa chí, tài liệu viết tay bằng chữ Hán đời vua Tự Đức). Cụ Đông Quân
Hưng, Phạm
Gia Thuyết hiện có tài liệu này.
[6] Đôi câu đối này
cụ Cửu Chung cho
tôi. Cụ Đông
Quân Hưng, Phạm
Gia Thuyết nhớ
là cửu khôi
nguyên, cụ
Cửu Chung nhớ là tứ đình
nguyên.
[7] Đất mộ phần dòng
họ Trương Minh
tại Gò Vấp, đến
đấy hỏi thăm
nhiều người
biết, Phủ thờ cũ
kỹ, kèo trích
mối leo cả dây.
Đặc biệt nơi đây
còn giữ được
trên trăm bài vị
tiền nhân dòng
họ. (xem Vương
Hồng Sển, Sài
Gon năm xưa,
tr. 181)
[8]
Dòng họ Nguyễn phát tích từ làng
Gia Miêu Ngoại Trang,
tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
[9] Xem Genetic
(2nd
edition) A.M.
Winchester
Colorado
State-Houghton
Mufflin Co
Boston, The
Riverside Press,
Cambridge, 1958
p.p. 121 et ss.
[10]
«Every experience familiarizes
us with the facts which are grouped under the name of heredity. Every one of
us bears upon him obvious marks of his parentage, perhaps of remoter
relationships. More particularly, the sum of tendencies to act in a certain
way, which we call «character» is often to be traced through a long series
of progenitors and collaterals. So we may justly say that this «charater»
this moral and intellectual essence of man-does veritably pass over from one
fleshly tabernacle to another, and does really transmigrate from generation
to generation…»
«The Indian
Philosopher called
charater as thus defined, «karma»… In the theory of evolution, the
tendency of a germ to develop according to a certain specific type, e.g. of
the kidney bean seed to grow into a plant having all the
charaters
of the phaseolus
vulgris is it s «karma». It is the last inheritor and the last result of all
the conditions that have affected a line of ancestry which goes back for
many millions of years, to the time
when life fisrt
appeared on the earth. Then quoting professor T.W.Rhys. Davids, Huxley ends:
… The snowdrop and not an oak and just that kind of snowdrop, because it is
the outcome of the karma of an
endless series
of past
experiences.»
(Nancy Wilson
Ross, Three
ways of Asian
wisdsom, A Clarion Book published by Simon and Schuster, Rockfeller Center,
630 Fifth Avenue, N.Y., 1969, p.118)
[11] Xem Marcel
Granet, La
Polygynie
sororale et le
sororat dans la
Chine féodale, Angers,
Imprimerie F.
Gaultier et A.
Thébert, 4 rue
Garnier.
[12] Xem Vũ Văn Mẫu,
Cổ luật Việt Nam
lược khảo,
quyển thứ 2, Sài
Gon 1970,
tr.428.
[13] Ibid. tr. 429.
[14] Lễ Ký,
mục III Vương chế, chương
III, thiên tử thất miếu: tam chiêu, tam mục, dữ Thái tổ chi miếu nhi thất.
Chư hầu ngũ miếu, nhị chiêu nhị mục, dữ Thái tổ chi miếu nhi ngũ. Đại phu
tam miếu, nhất chiêu nhất mục, dữ Thái tổ chi miếu nhi tam. Sĩ nhất miếu,
thứ nhân tế ư tẩm.
[15] Xem Vũ Văn Mẫu, Cổ Luật Việt
Nam lược khảo,
quyển 2, tr.
275-276.
[16] Nơi đây, tôi chỉ
nói đại cương,
còn quý vị nào
muốn đi vào chi
tiết, xin đọc Vũ
Văn Mẫu, Cổ
Luật Việt Nam
lược khảo,
q.2, từ tr.264
đến 283.
[17] Xem sách đã dẫn,
tr.285.
[18] hay Mân.
|