HỆ TỪ THƯỢNG

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê

» Dịch Kinh Đại Toàn » chương 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12 


 

 

CHƯƠNG  VIII

(Chương VIII gồm 11 Tiết)

Thánh nhân lập Quái, Hào

để hình dung mô tả 2 chiều động, tĩnh của muôn vật.

 

Chương tám này gồm 11 Tiết.

 -Bốn Tiết trên, bàn về lề lối viết Dịch: Lấy Quẻ, Hào để hình dung hai chiều động tĩnh của vạn hữu.

 -Bẩy Tiết dưới, bình giảng ít nhiều Hào từ. 

Tiết 1.

賾,而 容,象 宜,

象。 

Thánh nhân hữu dĩ kiến thiên hạ chi trách.  Nhi nghĩ chư kỳ hình dung.  Tượng kỳ vật nghi.  Thị cố vị chi tượng.

 Dịch.  Tiết 1. 

Thánh nhân nhìn thấu đất trời.

Vời trông muôn vật mọi nơi, mọi miền.

Cố tìm phương pháp diệu huyền,

Vẽ nên phong thái, tả nên tính tình.

Quẻ sinh cốt để tượng hình.

Nên kêu là Tượng, phân minh gót đầu.   

Thánh nhân xưa quan sát mọi hiện tượng phức tạp trong thiên hạ, cố nghĩ cách tượng trưng, hình dung và mô tả tính cách của muôn vật, và các ngài đã vẽ ra quẻ.  Vì thế nên Quẻ chính là tượng trưng cho muôn vật.

Ngày nay, Khoa học gọi giai đoạn này là:  Quan sát cho tinh tế.  Mô tả cho tận tường. 

Tiết 2.

動,而 通,以 禮。繫

焉,以 凶,是 爻。

Thánh nhân hữu dĩ kiến thiên hạ chi động.  Nhi quan kỳ hội thông.  Dĩ hành kỳ điển lễ.  Hệ từ yên dĩ đoán kỳ cát hung.  Thị cố vị chi Hào.

Dịch.   Tiết 2. 

Thánh nhân bao quát, quán thâu,

Muôn nghìn biến động, trước sau muôn đời.

Thấu điều tụ hội, phân phôi,

Tìm ra phép tắc, khúc nhôi, lối đường.

Lời phân  lành,  dữ tỏ tường.

Gọi Hào là cốt đo lường cát, hung.

Thánh nhân lại quan sát mọi sự biến động trong trời đất, quan sát những mối tương quan giữa các biến động ấy, để tìm ra những định luật vĩnh cửu, rồi phụ thêm lời vào để bàn rõ đâu là cát, đâu là hung. 

Vì thế nên gọi là Hào (Các Hào mô phỏng lại sự biến hóa của vũ trụ).

Khoa học ngày nay gọi giai đoạn này là: Lập giả thuyết và định luật.

Tiết 3. 

賾,而 也。言 動,而 也。

Ngôn thiên hạ chi chí trách, nhi bất khả ố dã.  Ngôn thiên hạ chi chí động, nhi bất khả loạn dã.

Dịch.   Tiết 3. 

Dẫu bàn việc thực rối tung,

Không điều ghét bỏ, thung dung như thường.

Dẫu bàn việc thực nhiễu nhương,

Không hề rối loạn, vấn vương sự tình.

Bàn về những chuyện hết sức phiền tạp trong thiên hạ, mà vẫn không khiến cho người nhàm chán.  Bàn về những sự biến động rất mực trong thiên hạ, mà vẫn không hề rối rít.  Sở dĩ được vậy, là Thánh nhân đã tìm ra được những nét chính yếu, những đường lối biến hóa của sự vật. 

Tiết 4.

言,議 動,擬 化。 

 Nghĩ chi nhi hậu ngôn.  Nghị chi nhi hậu động.  Nghĩ nghị dĩ hành kỳ biến hóa.

Dịch.  Tiết 4. 

Nghĩ rồi mới nói phân minh,

Bàn rồi mới khởi công trình vân vi.

Nghĩ bàn đi lại, lại đi,

Đến khi biến hoá, việc gì cũng hay.

Thánh nhân bao giờ cũng suy nghĩ rồi mới nói, bao giờ cũng bàn định rồi mới làm.  Vì thế nên khiến cho các công chuyện đều được biến hóa một cách tốt đẹp.  Đó cũng là một cách dạy ta áp dụng định luật vào cuộc đời. 

Phàm làm việc gì muốn cho thành công mỹ mãn, chúng ta cần phải suy tư cho chín chắn; bàn định cho kỹ càng.  Như vậy, khi nói lên lời sẽ không sợ sai, khi bắt tay vào việc sẽ không sợ hỏng. 

Tiết 5.

「鳴 陰,其 之,我 爵,吾 之。」

﹕「君 室,出 言,善 之,

乎,居 室,出 善,則 之,

乎,言 身,加 民,行 邇,見 遠。言

機,樞 發,榮 也。言 行,君

也,可 乎。」

 

Minh hạc tại Âm.  Kỳ tử hoạ chi.  Ngã hữu hảo tước.  Ngô dữ nhĩ mỹ chi.  Tử viết:  Quân tử cư kỳ thất.  Xuất kỳ ngôn thiện.  Tắc thiên lý chi ngoại ứng chi.  Huống kỳ nhĩ giả hồ.  Cư kỳ thất.  Xuất kỳ ngôn bất thiện.  Tắc thiên lý chi ngoại vi chi.  Huống kỳ nhĩ giả hồ.  Ngôn xuất hồ thân.  Gia hồ dân.  Hành phát hồ nhĩ.  Kiến hồ viễn.  Ngôn hành quân tử chi khu cơ.  Khu cơ chi phát.   Vinh nhục chi chủ dã.   Ngôn hành quân tử chi sở dĩ động thiên địa dã.  Khả bất thận hồ (Bình giải Hào Cửu nhị quẻ Trung Phu).

 Dịch.  Tiết 5.

Hạc kêu khuất nẻo đâu đây,

Mẹ kêu, con đáp cả bầy hòa minh.

Ta đây có rượu ngon lành,

Ta đem ta sẻ, ta dành cho ai.

Dạy rằng: Quân tử trên đời,

Ngồi nhà nói phải, muôn người vẫn theo.

Dặm nghìn còn phải hướng chiều,

Thời gian gang tấc, đâu chiều lần khân.

Nói lời sai lạc, nhố nhăng, 

Ngàn xa vẫn thấy bất bằng nổi lên.

Nữa là gang tấc kề bên,

Nói sai, ai kẻ họa thêm với người. 

Khi người quân tử nói lời,

Nói ra ảnh hưởng đến đời, đến dân.

Hành vi phát động tuy gần,

Nhưng mà ảnh hưởng dần dần lan xa.

Việc, nhời ấy chính động cơ,

Động cơ đã phát, hãy chờ nhục vinh.

Mới hay quân tử ngôn hành,

Đủ làm Trời đất rung rinh mấy hồi.

Cho nên trong việc, trong lời,

Cố sao thận trọng đáng người hiền nhân.

Chu Công nói chuyện hạc mẹ kêu, hạc con hoạ.  Đức Khổng nhân đó bàn về nhẽ cảm ứng của nhân quần.  Ngài chủ trương hành vi của người quân tử có một tầm ảnh hưởng hết sức là sâu rộng.  Do đó ngài khuyên ta nên cẩn trọng trong ngôn ngữ, hành vi. 

Tiết 6.

「同 人,先 笑。」子 ﹕「君 道,或 處,

語,二 心,其 金。同 言,其 蘭。」

 Đồng nhân tiên hào đào nhi hậu tiếu.  Tử viết: Quân tử chi đạo.  Hoặc xuất hoặc xử.  Hoặc mặc hoặc ngữ.  Nhị nhân đồng tâm.  Kỳ lợi đoạn kim.  Đồng tâm chi ngôn.  Kỳ xú như lan (Bình giải Hào Cửu ngũ quẻ Đồng nhân).

 Dịch.  Tiết 6. 

Đồng nhân là nghĩa hợp quần,

Trước thời than khóc, sau dần cười vui.

Dạy rằng: quân tử trên đời,

Khi thời hoạt động, khi thời ở yên.

Khi ăn nói, lúc im lìm,

Hai lòng mà hợp, đoạn kim xá nào.

Hai lòng khi đã tâm giao,

Hương lan thơm phức, ngạt ngào gần xa.

Người quân tử mới đầu tưởng bất đồng, mà đến sau thời khắng khít.  Đồng đây là đồng tâm.  Đã đồng tâm thời dầu hành động bên ngoài có khác nhau cũng không hại.

Nếu chúng ta đi đến sự đồng tâm, nhất trí, thì chúng ta sẽ lướt thắng được mọi sự, dẫu chắc như vàng, đá cũng bị ta phá phanh; nếu chúng ta đoàn kết, đồng tâm nhất trí, thì không ai chia rẽ ta được, như vào 1 vườn hoa lan, không sao phân biệt được hương hoa này khác với hương hoa kia thế nào. 

Tiết 7. 

「初 六,藉 茅,無 咎。」子 ﹕「苟 矣。藉

茅,何 有?慎 也。夫 薄,而 也。

往,其 矣。」

 Sơ Lục.  Tạ dụng bạch mao vô cữu.  Tử viết: Cẩu thố chư địa nhi khả hĩ.  Tạ chi dụng mao.  Hà cữu chi hữu.  Thận chi chí dã.  Phù mao chi vi vật bạc.  Nhi dụng khả trọng dã.  Thận tư thuật dã dĩ vãng.  Kỳ vô sở thất hĩ (Bình giải Hào Sơ Lục quẻ Đại Quá).

Dịch.   Tiết 7. 

Hào Sơ: chiếu cỏ trải ra,

Trải thêm chiếu trắng, thế mà hóa hay.

Dạy rằng: để đất được ngay,

Trải thêm chiếc chiếu, như vầy cũng xuôi.

Chắt chiu đến thế thời thôi,

Chiếu gianh tuy rẻ, khéo nơi cách dùng.

Ở đời cẩn thận ra công,

Rồi ra muôn việc mới mong thành toàn

Tiết này khuyên ta nên cẩn trọng, nhất là khi gặp  những trường hợp đặc biệt, những công chuyện nan xử.  

Tiết 8. 

「勞 子,有 吉。」子 ﹕「勞 伐,有 德,

也,語 也。德 盛,禮 恭,謙 者,

也。」 

Lao Khiêm quân tử hữu chung cát.  Tử viết: Lao nhi bất phạt.  Hữu công nhi bất đức.  Hậu chi chí dã.  Ngữ dĩ kỳ công hạ nhân giả dã. Đức ngôn thịnh.  Lễ ngôn cung.  Khiêm dã giả.  Trí cung dĩ tồn kỳ vị giả dã. (Bình giải Hào Cửu tam quẻ Khiêm).

Dịch.   Tiết 8.

Khiêm cung, mẫn cán mới ngoan,

Việc gì quân tử cũng làm xong xuôi.

Dạy rằng: gắng gỏi không ngơi,

Công trình, mà chẳng nửa lời khoe khoang,

Thành công, mà chẳng huênh hoang,

Thật là đầy đặn, mọi đàng đáng khen.

Công dày, mà vẫn cung khiêm,

Coi mình như thể thấp hèn hơn ai.

Ước mong đức hạnh cao vời,

Ước mong đối với mọi người khiêm cung.

Khiêm cung, từ tốn tận cùng,

Rồi ra ngôi vị, mới mong vững bền.

Tiết 8 khuyên ta nên khiêm cung, dẫu rằng đã lập nên đại công, đại nghiệp.  Khiêm cung sẽ giữ được địa vị mình.

Tiết 9. 

「亢 悔」,子 ﹕「貴 位,高 民,賢

輔,是 也。」

 Kháng long hữu hối.  Tử viết:  Quí nhi vô vị.  Cao nhi vô dân.  Hiền nhân tại hạ vị nhi vô phụ.  Thị dĩ động nhi hữu hối dã (Bình giải Hào Thượng Cửu quẻ Kiền).

 Dịch.  Tiết 9. 

Rồng bay quá trớn, hối liền,

Dạy rằng: tuy quí, nhưng hiềm không ngôi.

Cao, nhưng dân chẳng theo noi,

Hiền nhân bên dưới, chẳng ai khuông phù.

Thế nên lắm chuyện ưu tư,

Việc gì cũng chẳng trơn tru, vẹn toàn.

Tiết 9 khuyên ta không nên kiêu căng, ngạo nghễ, kẻo có lúc phải hối hận, phàn nàn. 

Tiết 10.

「不 庭,無 咎。」子 ﹕「亂 也,則 階。

密,則 臣;臣 密,則 身;幾 密,則 成。是

也。」

 Bất xuất hộ đình vô cữu.   Tử viết.  Loạn chi sở sinh dã.  Tắc ngôn ngữ dĩ vi giai.  Quân  bất mật tắc thất thần.  Thần bất mật tắc thất thân.  Cơ sự bất mật tắc hại thành.  Thị dĩ quân tử thận mật nhi bất xuất dã (Bình giải Hào Sơ Cửu quẻ Tiết).

 DịchTiết 10. 

Chẳng ra khỏi cửa mới ngoan,

Dạy rằng: Mầm loạn sẵn mang trong lời.

Vua không kín miệng, mất ngôi,

Tôi không kín miệng, thời rơi mất đầu.

Hở mồm, hỏng việc còn đâu,

Nên người quân tử trước sau e dè.

Tiết 10 khuyên ta nên cẩn trọng lời ăn, tiếng nói. 

Tiết 11.

﹕「 乎?易 乘,致 至。負

者,小 也。乘 者,君 也。小 器,

矣!上 暴,盜 矣!慢 盜,冶 淫,

曰﹕「負 乘,致 至,盜 也。 

Tử viết.  Tác Dịch giả kỳ tri đạo hồ.  Dịch viết.  Phụ  thả  thừa  trí  khấu chí.  Phụ dã giả.  Tiểu nhân chi sự dã.  Thừa dã giả.  Quân tử chi khí dã.  Tiểu nhân nhi thừa quân tử chi khí.  Đạo tư đoạt chi hĩ.  Thượng mạn hạ bạo.  Đạo tư phạt chi hĩ.  Mạn tàng hối đạo.  Dã dung hối dâm.  Dịch viết.  Phụ thả thừa.  Trí khấu chí.  Đạo chi chiêu dã.  (Bình giải Hào Lục tam quẻ Giải).

 Dịch.  Tiết 10. 

Dạy rằng: Đạo chích cơ vi,

Mà người viết Dịch cũng tri, cũng tường.

Dịch rằng: đã vác, đã mang,

Mà còn xe cộ đàng hoàng ruổi rong.

Phô trương, trộm sẽ tấn công,

Phận hèn khuân vác, đèo bòng làm sang.

Tiểu nhân chưng diện, huênh hoang,

Khiến cho đạo chích nổi tham, đoạt dành.

Lờn trên, hiếp dưới, đành hanh,

Khiến cho đạo tặc tức mình, đánh chơi.

Khoe giàu, trộm cắp đến nơi,

Phô trương đẹp đẽ, cho người động dâm.

Dịch rằng: Đã vác, đã mang,

Mà còn xe cộ đàng hoàng, ruổi rong.

Rồi ra trộm cướp tấn công,

Thế là trộm cướp bỗng không chiêu vời.

Tiết 11 khuyên không nên cho tiểu nhân tham dự vào chính quyền.  Cho tiểu nhân tham dự chính quyền, họ sẽ lờn trên, hiếp dưới, và sẽ chiêu vời giặc cướp, loạn lạc.

 

 


» Dịch Kinh Đại Toàn » chương 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12