BÌNH GIẢNG QUẺ DỰ
:
NHẠC VÀ NHẠC LÝ CỔ
TRUNG HOA
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Chữ
Nhạc đây không chỉ là ca nhạc, mà còn
gồm cả vũ đạo (múa). Nhạc ký viết: «Chuông, trống, sáo, khánh, vũ, thược,
can, qua, là những nhạc khí; co duỗi, ưỡn, khom, chụm, tỏa, nhanh, chậm, là nhạc
văn.»
Nói cách khác, nhạc gồm: Thi, Ca, Nhạc,
Vũ.
Nhạc là sự phối hợp của thanh âm, màu
sắc, tiết tấu, chuyển động để mà kích thích, di dưỡng tâm thần con người.
Vậy khi bàn về nhạc cổ Trung Hoa, ta lần
lượt đề cập:
- Ngũ thanh và thập nhị luật.
- Bát âm và nhạc khí.
- Vũ khí (dụng cụ dùng để múa: đạo cụ).
A. NGŨ THANH VÀ THẬP NHỊ LUẬT
Âm nhạc Trung Hoa gồm có: ngũ thanh
và thập nhị luật.
1. Ngũ thanh
Ngũ thanh là:
- Cung
宮
(Quân
君, 81, Thái Cực)
- Thương
商
(Thần
臣, 72, Thiếu Dương)
- Giốc
角
(Dân
民, 64, Thiếu Âm)
- Chủy
徵
(Sự
事, 54, Thái Dương)
- Vũ
羽
(Vật
物, 48, Thái Âm)
Ví dụ đàn có 5 giây, thì:
- Cung
là giây Fa (F)
- Thương
là giây Sol (G)
- Giốc
là giây La (A)
- Chủy
là giây Do (C)
- Vũ là giây
Re (D)
Năm cung tương sinh theo
định luật «Tam
phân tổn ích, cách bát tương sinh.»
- Cung
= 81
- Chủy
= (81 x 2): 3 = 54
- Thương
= (54 x 4): 3 =
72
- Vũ
= (72 x 2): 3 = 48
- Giốc
= (48 x 4): 3 = 64
Vẽ lên vòng tròn, ta có:
- Cung là vua (quân
君) ở Trung cung, điều xướng tứ
phương, làm chủ chốt cho bốn thanh âm kia.
- Thương là thần tử (thần
臣) có nhiệm vụ làm cho mọi sự
trở nên hiển dương, kết quả.
- Giốc là vạn dân (dân
民) như muốn tung ra khỏi vỏ
vật chất để nhô lên hướng tinh thần.
- Chủy là vạn sự (sự
事) thịnh đạt, phong doanh,
phúc khánh.
- Vũ là vạn vật (vật
物) qui tàng về lòng vũ trụ,
lúc chung cuộc.
Như trên đã nói, Cung, Thương,
Giốc, Chủy, Vũ ứng với năm dấu (note) là Fa (F), Sol (G),
La (A), Do (C), Re (D). Sau này, Văn Vương thêm hai dây hay
hai dấu (note) phụ là Biến Cung
變
宮
và Biến Chủy
變
徵.
Nếu ta coi Biến Cung là Mi (E) và
Biến Chủy là Si (B), ta sẽ có một
«toàn
âm giai»
(gamme diatonique)
như của Tây phương:
2. Thập nhị luật
Ngoài ra, người Trung Hoa còn đặt ra 12
dấu gọi là luật. Luật có Âm Dương:
* Sáu dấu Dương là
Luật
律, gồm: 1- Hoàng Chung
黃
鍾; 2- Thái Thốc
太
簇;
3-
Cô Tẩy
姑
洗; 4- Nhuy Tân
蕤
賓;
5-
Di Tắc
夷
則; 6- Vô Dịch
無
射.
* Sáu dấu Âm là
Lã
呂, gồm: 1- Lâm Chung
林
鍾; 2- Nam Lữ
南
呂; 3- Ứng Chung
應
鍾; 4-
Đại Lữ
大
呂; 5- Giáp Chung
夾
鍾;
6-
Trọng Lữ
仲
呂.
Dấu Dương đầu tiên là Hoàng Chung, tức là
dấu Cung, ứng vào tháng 11, quẻ Phục, ứng vào sự khởi đầu của vạn vật. Cứ
một dấu Dương lại đến một dấu Âm, theo thứ tự sau:
Thế là ta lại có một
«bán âm
giai»
(gamme chromatique; chromatic scale)
gồm 12 dấu:
Mỗi dấu hay mỗi luật đều được phát sinh
ra bởi những ống trúc có kích thước nhất định, theo tiêu chuẩn và những định
luật toán học như sau: Người ta dùng hạt thử làm đơn vị đo
lường, vì mỗi hạt thử đều bằng nhau.
Hoàng Chung được
phát ra do một ống có:
- Đường kính 3 hạt thử.
- Chu vi 9 hạt thử.
- Chiều dài 81 hạt thử.
- Dung tích 1200 hạt thử.
Khi được
ống sinh ra dấu Hoàng Chung rồi, người ta lại theo định
luật’Tam phân tổn ích, cách bát tương sinh’ mà chế ra các ống khác.
1. Hoàng Chung (Fa)
黃
鍾
=
81
2. Lâm Chung (Do)
林
鍾
=
(81 x 2): 3 = 54
3. Thái Thốc (Sol)
太
簇
=
(54 x 4): 3 = 72
4. Nam Lữ (Ré)
南
呂
=
(72 x 2): 3 = 48
5. Cô Tẩy (La)
姑
洗
=
(48 x 4): 3 = 64
6. Ứng Chung (Mi)
應
鍾
=
(64 x 2): 3 = 42
7. Nhuy Tân (Si) B
蕤
賓
=
(42 x 4): 3 = 57
8. Đại Lữ (Fa#)
大
呂
=
(57 x 4): 3 = 76
9. Di Tắc (Do#)
夷
則
=
(76 x 2): 3 = 51
10. Giáp Chung
(Sol#)
夾
鍾
=
(51 x 4): 3 = 68
11. Vô Dịch (Ré#)
無
射
=
(68 x 2): 3 = 45
12. Trọng Lữ (La#)
仲
呂
=
(45 x 4): 3 = 60
Bị Chú:
* Ống
1
vừa là
80
và
81
* Ống
5
vừa là
63
và
64
* Ống
7
vừa là
56
và
57
* Ống
8
vừa là
75
và
76
* Ống
9
vừa là
50
và
51
* Ống
10
vừa là
68
và
69
* Ống
11
vừa là
45
và
46
Đồ bản
«Tam
phân tổn ích, cách bát tương sinh»
ứng với 12 tháng:
Les nombres donnent
les dimensions attribuées aux tubes par Houai-nan tseu.
Đồ bản
«Tam
phân tổn ích, cách bát tương sinh»
ứng với kích thước mỗi ống:
|
1.
Hoàng Chung (Fa)
2. Lâm
Chung (Do)
3.
Thái Thốc (Sol)
4. Nam
Lữ (Ré)
5. Cô
Tẩy (La)
6. Ứng
Chung (Mi)
7.
Nhuy Tân (Si)
8. Đại
Lữ (Fa#)
9. Di
Tắc (Do#)
10.
Giáp Chung (Sol#)
11. Vô
Dịch (Ré#)
12.
Trọng Lữ (La#) |
9 tấc
6 tấc
8 tấc
5 tấc
3 phân
7 tấc
8 phân
4 tấc
6 phân 6 ly
6 tấc
3 phân 7 ly 6 hào
6 tấc
2 phân 8 ly
5 tấc
5 ly 1 hào
7 tấc
3 phân 3 ly 7 hào 3 ty
4 tấc
8 phân 8 ly 4 hào 6 ty
6 tấc
5 phân 6 ly 3 hào 4 ty 6 hốt (dư 2 toán) |
81
54
72
48
64
42
57
76
51
68
45
60 |
Ý nghĩa của âm nhạc đã được
gởi gấm trong 12 dấu này, ví dụ:
- Hoàng Chung: Cốt để kích động, di dưỡng
lục khí, cửu đức.
- Thái Thốc: Cốt để giúp dưỡng khí, tức
là tâm thân trở nên linh hoạt.
- Cô Tẩy: Cốt để làm cho vạn vật trở nên
khiết tịnh, đẹp đẽ để có thể đón nhận thần linh, tiếp đãi tao nhân mặc khách.
- Nhuy Tân: Cốt để làm cho tinh thần của
Thần và của người trở nên an tĩnh, thông cảm.
- Di Tắc: Chính là để đề cao 9 qui tắc
trị dân.
- Vô Dịch: Cốt là để truyền bá, ca tụng
khí phách và sự nghiệp của các triết nhân, các anh hùng hào kiệt, để treo gương
cho dân.
Còn 6 dấu âm chỉ có nghĩa là làm
cho cái gì còn «trầm phục» có thể «hiển dương», cái gì đã «tán việt» được
«điển xuyết»…
Uyên Giám Loại Hàm,
quyển I, tr. 0136 còn giải thích 12 luật như sau:
1. Hoàng Chung (Fa): Dương khí từ hoàng
tuyền bốc lên.
2. Đại Lữ (Fa#): Điều trị, chuẩn bị đưa
vạn vật xuất sinh, chuẩn bị cuộc lữ hành.
3. Thái Thốc (Sol): Vạn vật thốc sinh.
4. Giáp Chung (Sol#): Âm Dương giáp kề.
5. Cô Tẩy (La): Vạn vật tẩy sinh, trở nên
thanh lịch.
6. Trọng Lữ (La#): Vạn vật đi lên cương
cường (trở nên thanh lịch).
7. Nhuy Tân (Si): Âm khí ấu tiểu.
8. Lâm Chung (Do): Vạn vật đã bàng hoàng
sắp chết.
9. Di Tắc (Do#): Âm khí như giặc cướp
quấy rối vạn vật.
10. Nam Lữ (Ré): Cuộc lữ hành của Dương
khí gần tới giai đoạn ẩn tàng.
11. Vô Dịch (Ré#): Dương khí vô dư
(không còn thừa nữa).
12. Ứng Chung (Mi): Dương khí không dùng
làm được việc nữa.
Ta cũng nên ghi nhận rằng mỗi cung
(Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ) đều có đủ
12
luật, để có 12 x 5 = 60
thanh, như lục thập hoa giáp, ta có một
đồ bản sau:
CUNG
(FA) F |
Hoàng
(cung)
Tân
(chủy) |
Lâm
(chủy)
Đại
(thương) |
Thái
(thương)
Di
(vũ) |
Nam
(vũ)
Giáp
(giốc) |
Cô
(giốc)
Vô
(cung) |
Ứng
(cung)
Trọng
(chủy) |
THƯƠNG
(SOL) G |
Hoàng
(thương)
Tân
(vũ) |
Lâm
(vũ)
Đại
(giốc) |
Thái
(giốc)
Di
(cung) |
Nam
(cung)
Giáp
(chủy) |
Cô
(chủy)
Vô
(thương) |
Ứng
(thương)
Trọng
(vũ) |
GIỐC
(LA) A |
Hoàng
(giốc)
Tân
(cung) |
Lâm
(cung)
Đại
(chủy) |
Thái
(chủy)
Di
(thương) |
Nam
(thương)
Giáp
(vũ) |
Cô
(vũ)
Vô
(giốc) |
Ứng
(giốc)
Trọng
(cung) |
CHỦY
(DO) C |
Hoàng
(chủy)
Tân
(thương) |
Lâm
(thương)
Đại
(vũ) |
Thái
(vũ)
Di
(giốc) |
Nam
(giốc)
Giáp
(cung) |
Cô
(cung)
Vô
(chủy) |
Ứng
(chủy)
Trọng
(thương) |
VŨ
(RÉ)
D |
Hoàng
(vũ)
Tân
(giốc) |
Lâm
(giốc)
Đại
(cung) |
Thái
(cung)
Di
(chủy) |
Nam
(chủy)
Giáp
(thương) |
Cô
(thương)
Vô
(vũ) |
Ứng
(vũ)
Trọng
(giốc) |
B. BÁT ÂM VÀ NHẠC KHÍ
Về nhạc khí, người ta dùng 8 nguyên liệu
mà chế ra:
1. Cách
革: Da, gồm các loại trống (Cổ
鼓= trống)
2. Bàu
匏: Quả bầu, gồm các loại nhạc khí:
Sanh (Sênh)
笙, Hoàng
簧, Vu
竽.
3. Trúc
竹: Trúc, gồm các loại quản, sáo
như: Trì
箎 (sáo 8 lỗ); Địch
笛
(sáo ngang); Thược
籥 (sáo ngắn); Tiêu
簫
(sáo dọc); Quản
管 (sáo).
4. Mộc
木: Gỗ, gồm các loại: Chúc
柷, Ngữ
梧.
5. Ti
絲: Tơ, gồm các loại đàn: Cầm
琴
(đàn 5 giây); Sắt
瑟
(đàn 23 hoặc 25 giây); Không Hầu
箜
篌
(đàn giống đàn sắt có 23 giây); Trúc
筑; Tỳ Bà
琵
琶.
6. Thổ
土: Đất, gồm các loại: Huân
塤
và Phữu (Phẫu)
缶.
7. Kim
金: Kim khí, gồm các loại chuông
trống, não bạt, như: Chung
鐘
(chuông); Bác
鎛 (chuông to); Chạc
鐲 (chiêng); Nạo
鐃
(não bạt).
8. Thạch
石: Đá, gồm các loại khánh: Ngọc
Khánh
玉
磬, Thạch Khánh
石
磬, Đại Khánh
大
磬, Biên Khánh
編
磬, Sanh khánh
笙
磬, Tụng Khánh
頌
磬.
Ta có đồ bản sau đây:
Thế là bát âm ứng với bát
phương, bát quái. Nghĩa là trong trời đất bất kỳ
thứ gì nếu được
tinh luyện chế hoá cũng có thể trở nên thanh kỳ và góp
phần vào khúc đại hòa tấu của vũ trụ.
Nay ta sắp xếp lại các loại ngũ thanh
(ngũ cung), bát âm, thập nhị luật lữ theo Dịch bằng đồ bản sau:
DỊCH |
NHẠC |
Vô Cực |
Vô thanh - Thần, Tâm |
Thái Cực |
Thanh (âm, cung) |
Lưỡng Nghi |
Thanh âm (luật +),
Trọc âm (lữ -) |
Tứ Tượng |
(Cung = Thái Cực),
Thương, Giốc, Chủy, Vũ |
Bát quái |
Bát âm: cách, bàu,
trúc, mộc, ti, thổ, kim, thạch |
Âm dương tương sinh |
Luật lữ tương sinh |
Âm dương khuất thân,
tụ tán |
Vũ công khuất thân,
ngưỡng, phủ, chuyết, triệu, tất thu... |
Biến dịch để bảo hợp
thái hoà |
Nhạc vũ để đưa đến
thái hoà. |
C. VŨ KHÍ
Các loại vũ khí (đạo cụ) cổ có: Mao
毛, Vũ
羽, Can
干, Thích
戚.
Múa Văn
dùng Mao và Vũ. Múa Võ dùng Can và Thích.
Nhạc có một phần kích, nên hết sức quan
trọng đối với vua chúa xưa vì nó kích động và thanh lịch hóa tâm thần,
nên các trường đều phải học nhạc. Mỗi triều đại lại có một khúc nhạc tiêu biểu
cho chí hướng, hoài bão và công trình của triều đại.
1. Thời Hoàng Đế
黃
帝
có nhạc khúc Hàm Trì
咸
池, ý muốn nói vua đã làm cho
đạo đức phát huy, thi triển được
khắp nơi.
2. Vua Nghiêu
堯 có nhạc Đại Chương
大
章, ý nói lên lòng mong muốn cho
nhân nghĩa đại hành, phát độ chương minh.
3. Vua Đế Khốc
帝
嚳
có nhạc Lục Anh
六
英, Chuyên Húc
顓
頊
có nhạc Ngũ Hành
五
莖.
4. Vua Thuấn
舜
có nhạc Tiêu Thiều
簫
韶. Thiều nghĩa là kế tục, ý
nói vua Thuấn muốn tiếp tục con đường của vua Nghiêu.
5. Vua Đại Võ
大
禹
có nhạc Đại Hạ
大
夏, ý nói vua Đại Võ nối tiếp về
đường lối của hai vua Nghiêu và Thuấn; muốn cho thiên hạ được thái bình.
6. Nhà Ân
殷
có nhạc Đại Hộ
大
濩, ý nói nhà Ân sẽ cố phục hưng,
bảo hộ nền đạo đức của các thánh vương xưa.
7. Nhà Chu
周
có nhạc Đại Chước
大
勺, cũng gọi là Đại Vũ, ý nói là sẽ
châm chước để luôn theo đường lối của hai vua Văn, Võ.
Thế mới hiểu rằng: người xưa mượn lời thơ
để nói lên chí hướng và hoài bão của mình, rồi phổ vào ca nhạc vũ để lời thơ trở
nên bất diệt, hoài bão của mình được quảng thi, quảng diễn, nhờ đó ảnh hưởng sâu
xa đến dân chúng.
Tục truyền rằng khi thiên hạ đã thái bình
thịnh trị, Hoàng Đế bèn truyền Linh Luân
伶
倫
phải chế tạo nhạc khí để diễn tả lại cảnh thái hòa
(harmonie universelle). Như vậy là muốn đưa đến cảnh thái hòa… Nhạc lý tưởng
nhất là khi được đem trình diễn cho vua tôi cộng hưởng, tượng trưng được sự đại
hòa lạc trong nước như Mạnh Tử đã nói trong thiên Lương Huệ Vương chương cú hạ.
Người xưa cho rằng: Xét thanh thì biết
âm, xét âm thì biết nhạc, xét nhạc thì biết cách trị dân trị nước.
Ta giải như sau: Trong trời đất cái
gì cũng có tinh, có thô, cái gì cũng đều có thể tinh luyện cho thành thanh
cao được. Vì vậy nhà làm chính trị khi đã lo xong phần ngoại cảnh, phần cơm
áo cho dân rồi, thì phải lo tinh luyện cho tâm thần của
dân chúng trở nên thanh cao khiết tịnh, có nhân cách hoàn toàn để cùng nhau sống
trong cảnh thái hòa.
Đàng khác, con người sinh ra chính là
để tinh luyện tâm thần mình trở nên cao khiết, cho lòng mình trở nên khúc nhạc
tuyệt vời, để cho hòa nhịp cùng khúc nhạc vũ trụ. Sự tinh luyện, sự phát
triển tài đức con người tiềm ẩn trong lòng mình sẽ đem lại cho mình một niềm vui
chân thực và cao quý, chứ con người chúng ta sinh ra không phải để đắm mình vào
thú vui ô trọc. Đi vào đường ấy là nghịch thiên, nghịch lý, sẽ bị tử vong.
Như vậy vui hay Dự (nói trong quẻ
Dự) là thú vui hòa cùng mọi người, thú vui tinh thần cao khiết do công phu tu
luyện phát sinh, lại được
bảo trợ bằng sự cẩn mật đề phòng, chứ không phải
là thú vui hưởng thụ sa đọa. Hiểu thế ta mới biết tại sao
quẻ Dự lại gồm đủ các nghĩa: Vui hòa, Dật dự, Dự phòng, Nhạc.
|