BÌNH GIẢNG QUẺ
PHỤC
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Quẻ
Phục
復
là một trong những quẻ quan trọng của Dịch Kinh, nói lên được lẽ Âm Dương tiêu
trưởng, lẽ phản phục của đất trời và của tâm lý con người.
Từ trước đến nay, các nhà bình giải cũng
đã nhận định được rằng: Quẻ Phục đề cập đến hai vấn đề:
+ Sự hồi phục của khí Dương.
+ Sự hồi phục của nhân tâm về cùng đạo
lý.
Ngày nay với sự tiến triển của khoa học,
với sự phổ biến của các triết thuyết Á Âu, ta có thể bàn rộng thêm về lẽ phản
phục của đất trời cũng như của lịch sử.
A. Phục đánh đấu một thời kỳ mà vũ trụ sẽ
bắt đầu co lại. Vì nếu vũ trụ mà khuếch tán được, triển dương được
thì cũng có thể thâu súc được,
phản phục được.
Cũng một lẽ, thời gian cũng có thể phản
phục được (réversibilité du temps), vì thời gian gắn liền với không gian. Không
gian và thời gian lai vãng khuất thân, theo cùng một chiều hướng.
Cho tới ngày nay ít ai nghĩ được rằng
thời gian cũng có hai chiều, hai hướng; cũng có thể vãng phục như không gian.
B. Phục, đứng về phương diện tiết khí, là
lúc mà sinh khí phục hồi. Trong ngày Đông Chí, khi mà vạn vật bên trên mặt đất
như đang muốn chết cóng vì gió sương, băng tuyết thì ở dưới lòng đất Dương khí
phục sinh để chuẩn bị cho gian trần một mùa Xuân mới, để đem lại cho muôn loài
một nguồn sinh khí mới.
C. Phục cũng vẽ lại con đường phiêu lãng
của vầng Dương.
Phục xét về phương diện lịch số là ngày
Đông Chí, là ngày mà vầng dương như dừng gót lại (Solstice) để trở về sống gần
gũi với trái đất và vạn vật hơn, bỏ bộ mặt lạnh lùng để mặc lấy một hình dung,
một thái độ đầm ấm hơn.
Các dân tộc xưa thường ăn mừng ngày Đông
Chí để đánh dấu sự phục sinh của ‘ông Mặt Trời’, của
‘con Trời, của thần Mithra. Từ thế kỷ IV,
Giáo Hội La Mã cũng theo tục lệ của dân gian này mà ăn mừng Lễ Giáng Sinh ngày
15 tháng Chạp, tức là vài ngày sau tiết Đông Chí.
Quẻ Phục ứng vào khoa chiêm tinh học là
cung Ma Yết (Le Capricorne). Sénard viết:
«Trong các hình thiên bàn xưa nay thì
cung Ma Yết được viết bằng một trong những cổ tự sau đây:
.
«Tất cả những cổ tự này tuy khác nhau
nhưng đều có một đặc điểm là nét chữ đều vòng trở lại. Có thể đó là biểu tượng
sự phản phục về tư tưởng của Hóa Công và là biểu tượng sự hồi phục tâm hồn con
người để vươn lên đến bình diện bao la của nội giới.
«Dẫu sao thì cung Ma Yết cũng là giao
điểm của hai luồng biến dịch có chiều hướng khác nhau. Nó vừa tượng trưng cho
một giai đoạn khi mà vũ trụ hoàn toàn thành hình; và cho một giai đoạn cũng
không kém quan trọng khi mà tâm hồn con người siêu thăng vào trong vô tướng
nhờ công phu tu luyện.»
Những lời lẽ của chiêm tinh học ấy có thể
phác họa lại một cách rõ ràng những ý tưởng của tiền nhân hàm chứa trong quẻ
Phục.
D. Xét về phương diện lịch sử thì khi tới
quẻ Phục, nhân loại đã đạt tới một mức độ văn minh vật chất tuyệt đích, con
người đã hoàn toàn chi phối được vật chất; nhưng mà con người thì vẫn còn sống
trong đau khổ, lo âu; đau khổ do chính con người tạo ra cho mình; cũng như do
chiến tranh, do tội ác, do nền luân lý suy đồi, do một đời sống nhục dục vật
chất đầy đủ đem lại.
Con người sẽ nhận thấy công trình của
mình đều là hư ảo, đều là những căn nhà đã xây trên cát và phải bắt buộc phải
nói như Einstein và như Ủy Hội các nhà bác học Nguyên tử như sau:
«Thế giới chúng ta đang bị đe dọa bởi một
cuộc khủng hoảng mà tầm kích còn vượt trên quyền hạn của những người có quyền
quyết định cái hay cái dở (cho nhân loại).
«Uy lực mà nguyên tử đã tạo ra, đã thay
đổi hết, ngoại trừ lề lối tư tưởng của chúng ta và chúng ta đang trượt dần vào
một đại họa không tiền khoáng hậu. Cần phải có một lề lối trông nhìn mới, nếu
nhân loại muốn sống sót và vươn lên tới những bình diện cao hơn.»
Khi ấy nhân loại sẽ đau khổ, và sẽ như là
chết trong lòng. Nhưng mà lòng con người chết đi, cốt là để cho lòng trời
xuất hiện. Cái nhân tâm càng nghiêng ngửa đảo điên bao nhiêu thì cái đạo tâm tế
vi càng có cơ xuất hiện bấy nhiêu. Thế mới hay, nhân tâm như hạt gieo xuống
đất hoàn cảnh, xác thân có chết đi thì thiên tâm mới như cây non nảy
mộng phát sinh ra được.
Nói tóm lại, thời kỳ Phục trong tương lai tức là thời kỳ mà lịch sử nhân loại
chuyển hướng, bỏ những thông lệ đấu tranh để quay về những chủ trương nhân ái.
Lúc đó, con người sẽ quay về thám sát các tầng sâu của lòng người và sẽ thấy hé
mở cả một vũ trụ bao la vô cùng tận, sẽ nhận ra rằng dưới lớp nhân tâm phù phiếm
hạn hẹp còn có lớp thiên địa chi tâm
天 地 之 心
thẳm sâu và không giới tuyến…
Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ.
復 其 見 天 地 之 心 乎.
Các tôn giáo khi ấy cũng trở nên sâu sắc
hơn, khoa học hơn, và sẽ chuộng những phương pháp tu luyện nội tâm hơn là nắm
giữ những hình thức bên ngoài.
D. Quẻ Phục sẽ đánh dấu một kỷ nguyên
mới, mà nhân loại sẽ cố khuôn theo định luật của lương tri, lương tâm.
«Luật trời ghi tạc tâm
can,
Lương tri là luật trời ban cho
người.»
- Tinh thần dần dà sẽ được trọng.
- Nội tâm dần dà sẽ được trọng.
- Quân tử dần dà sẽ được trọng mãi
thêm…
E. Đối với con người, quẻ Phục là lúc con
người trở nên minh giác, giác ngộ, biết được thiên mệnh, biết được rằng trong
lòng mình vốn đã có sẵn lòng trời.
Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm
hồ.
復 其 見 天 地 之 心 乎 .
Phục là lúc con người tự tri, tự giác. Tự
giác để biết trời ở nagy trong lòng dạ.
Phục là tri kỷ tận
tường,
(Tri tâm, tri tính, thời thường
tri thiên.)
Theo toán học cổ truyền, con người có thể
giác ngộ vào khoảng tuổi 42, 43 tuổi.
G. Quẻ Phục cũng còn nêu lên mấy vấn đề
triết lý và đạo giáo khác, là:
- Con người khi nào sẽ kiến thiên địa
chi tâm ?
- Và làm sao biết mình đã kiến thiên
địa chi tâm ?
Các nhà bình giải thường cho rằng chỉ khi
nào tâm hồn con người chí hư chí tĩnh mới thấy được thiên địa chi tâm.
Nhưng thực ra nếu mình mài miệt tìm cầu,
suy tư, khảo sát lâu tháng lâu ngày, thì cũng có thể có một ngày nào đó, sâu
biến thành bướm, nước hóa thành hơi, và con người tìm ra được thiên địa chi tâm.
Làm sao biết mình đã kiến thiên địa
chi tâm ? Ta nhận định như sau:
Thiên tâm, đạo tâm là nguồn năng lực, là
nguồn sinh hóa, cho nên khi kiến thiên địa chi tâm ta sẽ thấy tâm hồn
chuyển động, nguồn sống trở nên dạt dào, cảm hứng trở nên sôi động, trí tuệ trở
nên mẫn tiệp. Nói tóm lại ta đã trở thành con người mới.
Chấp nhận lẽ phản phục của Dịch Kinh,
chúng ta bắt buộc phải chấp nhận một quan niệm tuần hoàn, phản phục của vũ trụ,
của lịch sử và của nhân quần.
Ngô Lâm Xuyên nói: «Thảo mộc không
thu hút nhựa lại thì không thể nào mà trở nên tươi tốt lại được.
Côn trùng mà không thu hình nép xác thì không thể nào mà
trở lại hoạt động phấn chấn được. Vì thế con người trọng ở chỗ biết Phục, mà
Phục cốt là ở chỗ Tĩnh. Tĩnh rồi mới có thể cảm. Đóng rồi mới có thể mở. Mùa
Đông tàng nạp là mùa Phục của một năm; đêm trường tĩnh mịch là lúc Phục của một
ngày; tình dục tĩnh lãng là lúc Phục của con người.
Chấp nhận lẽ phản phục, ta mới thấy rằng:
«Thủy chung như nhất».
α
= ω
Và lịch sử nhân quần vũ trụ khởi điểm từ
Thuần Thần rồi sẽ chung kết ở Thuần Thần.
Phục chính là bước đầu của con đường trở
lại.
Sau khi đã dùng khoa học, chiêm tinh,
triết học, đạo lý, bàn rộng về quẻ Phục, chúng ta hãy trở lại với quẻ Phục với
những lời bình giải của tiên nho.
Tiên nho kho bình tới quẻ Phục, chắc đã
nhận chân được sức thiêng của sinh khí. Nó như tiếng sấm làm rung vang cả lòng
đất bao la, và hứa hẹn tất cả những gì đẹp đẽ cho vũ trụ và cho nhân quần, sau
những giờ phút đen tối, lạnh lùng của thời tiết và của lịch sử.
Chỉ có nơi quẻ Phục ta mới thấy các nhà
bình giải cao hứng làm thơ.
Đây là bài thơ của Thiệu Khang Tiết:
Đông chí Tý chi bán,
冬 至 子 之 半
Thiên tâm vô cải di;
天 心 無 改 移
Nhất Dương sơ động xứ,
一 陽 初 動 處
Vạn vật vị sinh thì.
萬 物 未 生 時
Huyền tửu vị phương đạm,
玄 酒 味 方 淡
Thái Âm thanh chính hi,
太 陰 聲 正 希
Thử ngôn như bất tín,
此 言 如 不 信
Cánh thỉnh vấn Bao Hi.
更 請 問 包 羲
Tạm dịch:
Đông Chí hàn băng, khí phục
qui,
Cơ trời vốn dĩ chẳng sai đi;
Nhất Dương vừa thoạt manh nha
động,
Vạn vật còn trong bão dựng thì.
Tiên tửu nếm qua nhường nhạt
nhẽo,
Thái Âm nghe thoạt tưởng li ti,
Ví như lời ấy chưa tin đủ,
Xim hãy tiềm tâm hỏi Phục Hi.
Đây là bài thơ của Chu Hi:
Hốt nhiên dạ bán nhất thanh lôi,
忽 然夜 半 一 聲 雷
Vạn hộ thiên môn thứ đệ khai,
萬 戶 千 門 次 第 開
Thức đắc vô trung hàm hữu xứ,
識 得 無 中 含 有 處
Hứa quân thân kiến Phục Hi lai.
許 君 親 見 伏 羲 來
Phỏng dịch:
Nửa đêm bỗng thấy sấm rền trời,
Cửa rã muôn nghìn lớp lớp khai,
Hiểu được trong không đầy dẫy có,
Khác nào thấy được Phục Hi lai.
Xem hai bài thơ ấy, đủ thấy rằng quẻ Phục
là một trong những quẻ đặc biệt của Dịch Kinh. Dịch Kinh đề cập đến quẻ Phục một
cách đơn giản:
+ Ở nơi Thoán thì dùng cho sự hồi phục
của Dương khí.
+ Ở nơi Tượng thì nói đến tục lệ thời xưa
đã theo trong ngày Đông Chí.
+ Ở nơi các hào thì bình luận các cung
cách con người trở về cùng đạo lý.
|