Trang Tử Nam Hoa Kinh
Lược dịch Nội Thiên
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Chương
1: Tìm Hiểu về Lão, Trang
Chương 2: Trang Tử và Nam Hoa Kinh
Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp...
Cách đây hơn một năm tôi đã có dịp thuyết trình
về: Lão Tử và Đạo đức kinh. Bài đó đã được đăng trong Cao Đài giáo lý, số Tân
niên, Ất Mẹo. Vì thế nên, ngày hôm nay, tôi tiếp tục bàn về Trang Tử với Nam Hoa
Kinh. Tôi sẽ không khai thác khía cạnh văn chương của Trang. Tôi cũng không lưu
tâm đến bút pháp của Trang, đến tài biện bác của Trang. Bình Trang, tôi thủy
chung chỉ muốn làm nổi bật lên những phương thức mà Trang đã dùng để đi lên siêu
việt, để giúp mọi người sau này nhìn thấy rõ con đường dưỡng sinh, tu thân, cầu
Đạo, đắc Đạo của Trang.
Trong bài này tôi lần lượt bàn những vấn đề sau:
I. LƯỢC SỬ TRANG TỬ
THEO TƯ MÃ THIÊN
Trang Tử
莊
子
là người xứ Mông
蒙
tên Chu
周.
Chu vốn làm chức lại, coi vườn sơn (Tất Viên
漆
園)
ở Mông, đồng thời với Huệ Vương nước Lương,
Tuyên Vương nước Tề
Trang Tử đa văn quảng kiến, học thức uyên thâm, nhưng căn cốt vẫn là lời Lão.
Cho nên sách ông viết hơn mười vạn chữ, đại để đều là ngụ ngôn.
Làm những bài Ngư phủ, Đạo chích, Khư khiếp
để chế giễu những người theo Khổng Tử, và làm sáng tỏ học thuật Lão Tử. Những
tên Úy Lũy, Hư Cang Trang Tử đều là chuyện bịa không có thực. Nhưng khéo viết
văn, xếp lời, chỉ việc, tả tình, để bài bác bọn nhà Nho, nhà Mặc. Dù những người
học rộng thời ấy, cũng không sao cãi, để gỡ lấy mình được. Lời Trang Tử mênh
mông phóng túng, cốt cho sướng ý mình, cho nên các bậc vương công, đại nhân
không thể dùng được.
Uy Vương nước Sở (339-328), nghe biết Trang Tử là
người hiền, sai sứ mang nhiều lễ vật sang mời, hứa cho làm tướng quốc. Trang Chu
cười nói với sứ giả nước Sở: «Nghìn vàng là lợi lớn, khanh tướng là ngôi tôn.
Ông chẳng thấy con trâu đem tế Trời (trong lễ Giáo) đó sao? Nuôi nấng trong vài
năm, cho mặc đồ gấm vóc, để cho vào Thái miếu. Lúc ấy, dù muốn làm con lợn con
côi cút cũng không được nữa. Ông đi ngay đi. Đừng làm bẩn tôi. Tôi thà chơi đùa
trong rạch bùn cho thích, chứ không để cho kẻ có nước buộc ràng. Chung thân tôi
không làm quan, để sống cuộc đời thoải mái như ý thích.»
II. KHÁI LƯỢC NAM HOA KINH
Trang Tử viết một bộ sách, sau này gọi là Nam Hoa
Kinh 南
華
經
hay Nam Hoa Chân Kinh
南
華
真
經.
Theo Hán thư nghệ văn chí, thì Nam Hoa Kinh
thoạt kỳ thủy có 52 thiên. Sau này Quách Tượng dồn lại còn có 33 thiên.
33 thiên lại chia làm 3 phần (theo bản Quách
Tượng): Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên.
NỘI THIÊN
內
篇
gồm bảy thiên: 1. Tiêu diêu du
逍
遙
游,
2. Tề vật luận
齊
物
論,
3. Dưỡng sinh chủ
養
生
主, 4. Nhân gian thế
人
間
世, 5. Đức sung phù
德
充
符, 6. Đại tông sư
大
宗
師, 7. Ứng đế vương
應
帝
王.
NGOẠI THIÊN
外
篇
gồm 15 thiên: 8. Biền mẫu
駢
拇, 9. Mã đề
馬
蹄, 10. Khư khiếp
胠
篋, 11. Tại hựu
在
宥, 12. Thiên địa
天
地, 13. Thiên đạo
天
道, 14. Thiên vận
天
運, 15. Khắc ý
刻
意, 16. Thiện tính
繕
性, 17. Thu thủy
秋
水, 18. Chí lạc
至
樂, 19. Đạt sinh
達
生, 20. Sơn mộc
山
木, 21. Điền tử Phương
田
子
方,
22. Trí bắc du
知
北
游.
TẠP THIÊN
雜
篇
gồm 11 thiên: 23. Canh tang Sở
庚
桑
楚, 24. Từ vô Quỉ
徐
無
鬼, 25. Tắc dương
則
陽, 26. Ngoại vật
外
物, 27. Ngụ ngôn
寓
言, 28. Nhượng vương
讓
王, 29. Đạo chích
盜
跖, 30. Duyệt kiếm
說
劍, 31. Ngư phụ
魚
父, 32. Liệt Ngự Khấu
列
禦
寇, 33. Thiên
天
下.
Các nhà bình giải thường cho rằng:
Nội thiên là của Trang Tử viết (có thể trừ ra một
vài đoạn như đoạn Tử Tang Hộ trong thiên Đại tông sư. Có người cho rằng Nhân
gian thế cũng không do Trang Tử viết.
Còn Ngoại thiên và Tạp thiên thì hoặc do môn đệ
Trang Tử viết ra, hoặc người sau viết ra mà mượn tên Trang Tử.
Lâm Tây Trọng, đời Thanh toát lược Nam Hoa Kinh
như sau: «Trong 33 thiên, nói đi nói lại hơn 10.000 chữ. Đại ý chẳng qua là: Tỏ
rõ đạo đức, rẻ rúng nhân nghĩa, coi sống chết là một, coi phải trái in nhau, hư
tĩnh điềm đạm, vắng lặng, không làm, thế đấy thôi. Xét ra thì: Bảy bài Nội thiên
là văn có đầu đề, do chính tay Trang Tử định lấy. Còn Ngoại thiên, Tạp thiên đều
lấy chữ trên đầu thiên mà đặt tên… Ấy là những văn không đầu đề. Người đời sau
lấy những bài vặt vãnh của Trang sắp đặt lại.»
Lâm Tây Trọng bình tiếp đại ý bảy chương Nội thiên
như sau: «Tiêu diêu du cốt nói lòng người quen thành tựu nhỏ nhen, nhưng
LỚN 大
mới là quí. Tề vật luận cốt nói lòng người thường quen câu nệ,
nhưng HƯ
虛 mới là hay.
Dưỡng sinh chủ cốt nói lòng người thường miệt mài đối phó với vật ngoài,
nhưng THUẬN
順
mới là phải. Nhân gian thế là phép vào đời. Đức sung phù
phép ra đời. Đại tông sư là phép trong có thể là thánh
內
聖.
Ứng đế vương là phép ngoài có thể là vua
外
王.
Ấy là nghĩa riêng của bảy bài Nội thiên. Thế nhưng lòng người có lớn mới có thể
hư, có hư thì mới có thể thuận… Vào được đời rồi mới ra
được đời… Trong làm nổi Thánh, thì ngoài mới làm nổi vua… Ấy là những lẽ đi theo
nhau của bày bài Nội thiên. Cứ thế thôi là cũng đã hết được ý chính…»
Từ xưa tới nay, đã có rất nhiều nhà bình giải
Trang, phiên dịch Trang. Mỗi người giải Trang theo một khía cạnh, một đường lối.
Người thì giải Trang theo Lão, người thì giải Trang theo Khổng, người thì giải
Trang theo Phật. Trong số các nhà bình giải Trang từ xưa đến nay, chúng ta ghi
nhận ít nhiều tên quen thuộc như Quách Tượng, Lâm Hi Dật, Lâm Tây Trọng, Chương
Bính Lân, Mã Tự Luân, Cao Hanh, Nghiêm Phục, v.v.
III. CHÂN TƯỚNG TRANG
TỬ
Muốn hiểu tư tưởng Trang, phải biết chân tướng của
Trang là gì. Xưa nay người ta thường cho rằng Trang Tử là một triết gia, thích
sống đời sống phóng khoáng. Có người lại nói cho Trang là một nhà biện luận có
tài như Công Tôn Long, hay Huệ Tử. Đánh giá Trang như vầy là rất thấp.
Vậy Trang Tử là ai? Từ lâu đọc Lão Trang,
tôi vẫn đinh ninh rằng các Ngài là:
- Những nhà Huyền học (Mystiques), nói theo
từ ngữ Âu Châu, Những bậc tiên thánh đã siêu phàm, thoát tục, nói theo từ
ngữ Á Châu.
- Những vì Thiên dân (Canh Tang Sở, 22-D)
hay Thiên tử (Nhân gian thế, IV, A) hay Chân nhân (Đại Tông sư,
6-A), hoặc Chí nhân, Thần nhân hay Thánh nhân (Tiêu diêu du, 1-C)
theo lời Trang tử. Trang Tử cũng là một nhà Huyền học, một bậc chí nhân như Lão
tử.
Chương Thiên hạ trong sách Nam Hoa Kinh
bình về Trang Tử như sau: «Trên thời vui chơi cùng đấng Tạo Hóa, dưới thời bè
bạn với những người đã thoát vòng sinh tử, thủy chung…»
Như vậy muốn hiểu Trang tử, phải hiểu thế nào là
một nhà Huyền học, thế nào là một bậc Chí nhân.
Huyền học (Mystique) hay Chí nhân hay Chân nhân là
những danh từ tặng cho những ai có một đời sống siêu nhân, mãnh liệt, y thức như
đã tiếp xúc được với luồng huyền lực vô biên của vũ trụ.
Nhà Huyền học là người:
- Có tâm thần rất thông minh, tinh tế,
- Nhìn thấy Đạo, thấy Trời nơi tâm khảm mình.
- Nhận thức được tấn tuồng biến thiên, ảo hóa của
vũ trụ cũng như của lịch sử nhân quần.
- Cố tu luyện, cố thanh lọc tâm thần để đi đến chỗ
cao minh, linh diệu.
- Sống phối hợp với Trời, coi mình như một hiện
thân của Thượng Đế.
Các nhà Huyền học Đông cũng như Tây, đều tin tưởng
rằng sau bức màn hiện tượng biến thiên, chất chưởng, còn có một bản thể siêu
việt tuyệt vời.
Các Ngài không biết dùng danh từ gì để mô tả Tuyệt
đối ấy cho hay, cho phải, cho nên hoặc là tuyên bố mình bất lực trước Tuyệt đối
vô biên ấy, hoặc là dùng những danh từ tiêu cực, mơ hồ để diễn tả, để đề cập đến
Tuyệt đối thể ấy.
Các Ngài cho rằng con người sinh ra phải tìm về
cho được tới nguồn mạch thiêng liêng, huyền diệu ấy, và tất cả các sự biến thiên
của vũ trụ lúc chung cuộc cũng kết thúc trong đại thể vô biên, vô tận ấy.
Mà nguồn mạch linh thiêng huyền diệu ấy đã tiềm ẩn
ngay trong lòng con người. Con người chỉ việc lắng lòng lại, chỉ việc thu thần
định trí nhìn sâu vào tâm khảm mình sẽ tìm ra được Bản thể siêu việt huyền nhiệm
ấy.
Khi đã đạt tới cõi tâm linh siêu vi huyền nhiệm
ấy, con người sẽ thoát được mọi trạng thái vong thân, và vươn lên bên trên cái
thế giới tương đối đầy mâu thuẫn như: Thị phi, thiện ác, sinh tử, và thoát ly
được hết những gì hữu hạn, nhân vi, kiềm tỏa con người.
Khi đã đạt tới cõi tâm linh ấy, thì lập tức cũng
sẽ thâm nhập, hòa đồng được với cõi vô biên man mác, và chính nhờ đó mà con
người lấy lại được cái phẩm giá vô song của mình. Vì nhận ra được chiều kích
mênh mông vô hạn, vì nhận ra được giá trị vô biên của mình, con người sẽ sống
hồn nhiên, tiêu sái, thảnh thơi, hạnh phúc…
Tóm lại, một con người đi trên con đường huyền học
lúc nào cũng lo trau chuốt nhân cách, cố sống sao cho tinh ròng viên mãn, để có
thể rung cảm, để có thể hòa nhịp, hòa đồng được với Đạo, với vũ trụ chi tâm.
Nếu một nghệ sĩ dùng tài nghệ mình, tâm linh mình
mà khám phá ra được và diễn tả ra được Thần linh hay Thái hòa tiềm ẩn trong đáy
lòng vũ trụ, trong đáy lòng vạn vật, khiến cho người khác cũng thưởng thức và
được cảm thông với nguồn mạch huyền linh ấy một phần nào, thì các nhà huyền học
có bổn phận khám phá ra và diễn tả lại Thần linh ngự trị nơi đáy lòng mình, bằng
lời lẽ, bằng đời sống, để những người bàng quan cũng được cùng mình chia sẻ sự
cảm thông, hòa hợp ấy…
Gần đây, có dịp đọc quyển Sáng tạo và Lão giáo
(Creativity and Taoism) của Trương Trung Viên (Chuang Chung Yuan), tôi thấy tác
giả cũng có những nhận định tương tự như vậy về Lão, Trang. Trương Trung Viên
viết: «Đối với Lão, Trang, đạt tới bản thể tuyệt đối là vào được lãnh vực siêu
việt vô cùng, vào được cảnh giới hư vô, nơi đó ta có thể cảm thông được với vạn
hữu…
«Chúng ta có thể đi vào cảnh giới hư vô bằng Điềm
hay bằng Trí. Điềm là Điềm đạm Hư vô, Phật gia gọi thế là Định. Trí là Huệ hay
Bát nhã…»
«Điềm tĩnh là phương pháp tiệm tu. Tuệ trí là
phương pháp đốn ngộ. Hai phương pháp này đều được đạo Lão mô tả, và cũng có một
mục đích là để vào được cảnh giới Hư vô…
«Hư vô có thể là Thiên quang, hay là Thuần phác
hỗn độn. Đó là hai phương diện của một Thực thể.»
«Cho nên muốn tiến vào được cảnh giới Hư vô, Vô
thức Đại đồng, vào tới Thiên chân Bản thể, phải có chân trí huệ. Trí huệ mới là
chiếc chìa khóa để mở cửa Đạo, để phanh phui ra được mọi kỳ bí của Hư vô, ở nơi
đó không còn phân biệt nhĩ ngả, ở nơi đó vạn sự, vạn hữu là một…»
Vào trong cảnh giới hư vô, vì cảm thông được với
vạn hữu, nên coi mọi sự như một, hòa hợp tuyệt đối, hết còn phân nhĩ ngã…
Như vậy, nhờ điềm đạm hư vô, nhờ trí huệ, con
người sẽ chuyển hóa được mình, sẽ cảm thông được với vạn hữu.
Trang Tử cũng chủ trương cần phải thoát ly mọi
ràng buộc của thế giới biến thiên, mọi giá trị tương đối của ngoại cảnh. Càng rũ
bỏ được cái phù du, hư ảo bao nhiêu, thì càng đạt được đời sống đích thực bấy
nhiêu…
Như vậy, đối với Trang tử, Chân nhân hay là con
người giác ngộ là con người đã phá vỡ được cái kén Tiểu ngã, để hòa mình với Đại
ngã…
Những nét trên tưởng đã phác họa được chân tướng
Trang tử.
IV. ĐẠI CƯƠNG HỌC
THUYẾT TRANG TỬ
Trang Tử là một nhà Huyền học, nên lời lẽ của Ông,
tư tưởng của Ông tuy là ẩn ước, bóng bảy, nhưng nếu chúng ta tìm được chốt then
đường hướng của Ông, cũng như của đời Ông, ta sẽ thấy chúng trở nên hết sức rõ
ràng.
Ông viết trong chương Ngoại vật:
«Có nơm là vì cá,
Được cá hãy quên nơm.
Có dò là vì thỏ,
Được thỏ hãy quên dò.
Có lời là vì ý,
Được ý hãy quên lời.
Ta tìm đâu được người biết quên lời
Hầu cùng nhau đàm luận.»
Thế tức là Ông muốn nhắn nhủ chúng ta đừng nên câu
nệ về những lời nói của Ông, và bút pháp của Ông, đừng bận tâm đến:
- Chi ngôn (gặp đâu nói đó)
- Trùng ngôn (Gán lời mình cho một
nhân vật lịch sử nào)
- Ngụ ngôn (Nói bằng thí dụ, sự
tích, bóng gió, như trong chương Thiên hạ, F) nhưng phải chú trọng đến
những tư tưởng của Ông, những chủ trương chính yếu của Ông.
Đại khái Trang Tử chủ trương:
- Vũ trụ này có hai phần:
1-
Một là Đạo. Mà Đạo thời vô sở bất tại, vô biên tế, duy nhất bất khả phân, vĩnh
cửu trường tồn. (ch. 6-f,g)
2-
Hai là Hình tướng biến thiên, luẩn quẩn trong vòng tương đối, sinh tử. (ch.
6-s,f)
Hai đàng tuy vô cùng khác biệt, nhưng lại liên lạc
hết sức chặt chẽ, hết sức mật thiết với nhau, đến nỗi có thể nói được là: Đâu có
hiện tượng, thời ấy có Đạo, và như vậy cái hữu hạn vừa nằm trong cái vô cùng,
lại vừa hàm chứa được cái vô cùng.
Từ trong lòng Đạo mà nhìn ra, thì muôn loài muôn
vật là một, hoàn toàn giống nhau, vô cùng vô tận như nhau.
Từ trong cảnh giới hiện tượng mà nhìn ra thì muôn
loài muôn vật hết sức khác nhau, biến thiên, phù du, ảo hóa. (ch. 5-a)
- Con người cũng như vũ trụ, có hai phần:
1-
Một là Đạo thể vô biên tế bên trong.
2-
Hai là con người phàm tục bên ngoài, với thất tình lục dục niệm lự biến thiên,
trí thức, phán đoán thường nhật, thông thường, tử sinh vô định.
Thiên Thu Thủy
秋
水
có một câu bất hủ, tóm tắt được quan niệm này, đó là: Thiên tại nội,
nhân tại ngoại.
天
在
內
人
在
外
(Thu thủy, A).
- Xã hội loài người, cũng có hai phần:
1. Một là Thiên nhiên. Thiên nhiên là cái gì thuộc
về Thiên chân, Thiên tính, và như vậy chắc chắn là hoàn mỹ.
2. Hai là Nhân tạo. Mà nhân tạo là tất cả những gì
do khối óc con người bày vẽ ra, cho nên dĩ nhiên là kém cõi, dĩ nhiên là vụng
về, không thể nào đem lại hạnh phúc thật cho con người được. (ch. 11-f; 6-a)
Và dĩ nhiên, Ông chủ trương rằng con người đạo
hạnh phải siêu xuất:
- Khỏi vòng hiện tượng có giới hạn, để vươn lên
tới Đạo thể vô biên, vô hạn (ch. 17-a; 6-g; 12-i, k; 16-b)
- Khỏi vòng niệm lự, tri thức, nhận định gian trần
để đạt tới siêu thức. (ch. 2-c)
- Khỏi vòng nhân vi, nhân tạo, để trở về với Thiên
nhiên, vì nhân vi nhân tạo không thể nào đem lại hạnh phúc thực sự cho con
người. (ch. 8-a,b,c,d; 9-a,b,c; 10-d; 11-a, 12-c; 13-b,c; 14-f; 17-a; 25-g)
Chính vì thế mà Ông đả kích tất cả những gì mà
con người đã vời ra, bất kỳ về phương diện gì:
. Kiến thức (ch. 25-h)
. Luân lý (ch. 8-a; 17-a; 25-h)
. Chính trị (ch. 9-c; 10-a; 29-b)
. Nghệ thuật (ch. 9-a)
. Kỹ thuật, cơ khí, văn minh (ch. 12-k)
Ông hoàn toàn thoát sáo, thoát hết mọi khuôn khổ
bên ngoài và cho rằng có vậy tâm thần mới được phiêu diêu khinh thoát.
Trang Tử không hề đả phá một cách tiêu cực, nhưng
thực ra Ông tích cực dạy con người phải đi tìm cái cao siêu, vĩnh cửu, cái lý
tưởng tinh hoa, dạy con người phải sống phối kết với Trời, với Đạo cùng trời đất
trường sinh bất tử. Có như vậy mới là biết được cái đại dụng, cái vô dụng của
cuộc đời. (ch.1)
Ông cũng chủ trương cái Tuyệt đối nằm sẵn trong
lòng cái tương đối, cũng như thường xuyên bao trùm, khỏa lấp cái tương đối cho
nên khi đã vươn lên tới cõi Đại nhất, Đại đồng, con người sẽ hóa giải được mọi
chuyện phân biệt lăng nhăng do khối óc con người tự tạo ra.
Cho nên chủ trương của Ông là coi thường mọi
chuyện đời tương đối, coi in một như nhau mọi cuộc biến thiên: Sống chết, vắn
dài, xa gần, cao thấp, quí tiện, hay dở, phải trái, yểu thọ v.v… (ch. 2)
Trang Tử đưa ra hai phương pháp chính yếu để đạt
tới Tuyệt đối. Đó là: Điềm và Trí (Thiện tính, 16-a)
Tư Mã Thừa Trinh (Ssu Ma Cheng Chen) một đạo sĩ
thế kỷ 10, đã cho rằng chữ Trí (nơi thiên Thiện tính, a) tương
đương với chữ Huệ (prajna); chữ Điềm (Thiện tính,
16-a) tương đương với chữ Định.
Trí (hoặc Minh) để
nhìn thấu Bản thể.
Điềm (hoặc Định): tức
là giữ Tâm bình tĩnh, tĩnh lãng.
Thế là từ Lão Trang với hai chữ Điềm, Trí
ta có thể bước sang lãnh vực Thiền tông dễ dàng, vì Thiền tông cũng đã được tóm
thâu trong hai chữ: Định (Dhyana) và Huệ (prajna).
Dẫu sao thì Trang cũng là người bàn về quan niệm
Phối Thiên rõ ràng nhất, trong sáng nhất.
Trang Tử khẳng định: Người xưa sống hợp nhất với
Trời.
Nơi chương Thiên hạ, Trang Tử viết: «Không
lìa xa gốc gác thời gọi là Thiên nhân; Không lìa xa tinh hoa thì gọi là Thần
nhân; Không lìa xa Chân thể hoàn hảo, thì gọi là Chí nhân… lấy Trời làm tông,
lấy Đức làm gốc, lấy Đạo là cửa… đó là Thánh thần… Thần, Minh, Thánh, Vương đều
cùng một nguồn mà ra…
Nơi chương Sơn Mộc, Trang Tử viết: Có người
hỏi tại sao nói được Người với Trời là một. Trọng Ni đáp: Đã là người, tức là
Trời… Sở dĩ người không là Trời, là do hành động riêng tư, cho nên thánh nhân
điềm tĩnh hòa mình với đại hóa…
Nơi chương Tri Bắc Du, Khiết Khuyết hỏi Bị Y về
Đạo. Bị Y bảo:
«Hãy giữ thân hình cho ngay ngắn,
Hãy tập trung tinh thần mà nhìn vào Duy nhất,
Trời sẽ hòa điệu với bạn.
Hãy thu nhiếp trí lự, hãy hợp nhất với Tuyệt đối,
Thần sẽ giáng trong lòng bạn,
Đức sẽ trở nên vẻ đẹp của bạn,
Đạo sẽ là nhà của bạn… Bạn hãy hồn nhiên, ngây thơ
như con nghé mới sinh, đừng tìm duyên cớ mà chi…»
Trang Tử có lẽ là một trong những người đầu tiên
trên thế giới mô tả được rõ ràng cái đạo Thánh nhân.
Nơi chương Canh Tang Sở, Ông viết: «Muốn được tĩnh
lãng, hãy giữ cho khí bình. Muốn có thần, hãy giữ cho tâm thuận. Muốn làm cho
phải, thì chỉ khi cần thiết, bất đắc dĩ mới làm. Chỉ bất đắc dĩ, mới chịu làm
làm mới chịu bỏ trạng thái tĩnh lãng tâm thần, đó là đường lối thánh nhân vậy.»
Ông viết: «Giữ cho thần toàn vẹn là đạo thánh
nhân.»
Ông để Khổng Tử
bình luận về những người theo đạo thánh nhân như sau: «Họ là những người theo
thuật của ông Hỗn Độn. Họ chỉ biết Tuyệt đối, mà không biết tương đối. Họ chuyên
trị tâm, mà không cần trị cảnh. Họ rõ được quang minh, về được với Thuần phác,
Duy nhất. Họ vô vi tĩnh lãng để trở về trạng thái thuần phác nguyên thủy. Họ hòa
đồng với Tính, ôm ấp lấy Thần…»
Trang Tử ngoài ra còn dạy chúng ta đừng để cho
ngoại cảnh, cho thất tình, lục dục điên đảo, làm hư hoại tâm thần (ch. 5-c, f;
23-f)
Mỗi xuyến xao tâm thần là một tai họa, vì nó vừa
làm giảm thọ con người, vừa làm cho chúng ta mất bình tĩnh trong sáng (23-g,f)
Trang Tử còn khuyên chúng ta nên an thời thuận xử
(ch. 23-g,f) đừng bon chen vào chỗ công danh lợi lộc, đừng có kình chống với
thiên nhiên, với tha nhân (ch.6-b; 33-b), có vậy mới được thảnh thơi hạnh phúc.
Lại nên sống thoát sáo (ch. 2; 3), có một đời sống
cao đại, một tâm hồn thoát tục (ch. 11-e). Hãy rũ bỏ hình tướng hữu hạn, tâm tư
hữu hạn mà băng lên sống trong lòng vô hạn, vô cùng (ch. 5-e; 11-e; 15-a,b;
16-b; 19-e; 22-e; 23-b,c; 24-h).
Ông ước mong cho muôn loài được phát triển theo
căn cơ, theo thiên tính của chúng. (ch.2-a)
Thiên Biền mẫu viết: «Cẳng le thì ngắn, cố mà nối
dài thì nó khổ. Chân hạc thì dài, chặt bớt thì nó đau, cho nên tính mà dài,
không phải là cái nên chặt bớt, tính mà ngắn không phải là cái nên nối thêm: thế
thì không có gì là lo.»
Tóm lại, thực đúng như trong Thiên hạ thiên đã
nói: «Trang Tử trên thì vui cùng Tạo hóa, dưới thì bè bạn với những người đã
thoát vòng sinh tử, thủy chung…»
Những lời nói của Trang Tử hết sức sắc bén, hết
sức linh động, biến hóa.
Lắm lúc ông có giọng châm biếm, như cợt, như đùa, nửa hư, nửa thực, nhưng chung
qui, Ông chỉ muốn cho người đọc Ông có cái nhìn rộng hơn, lối sống hay hơn, lý
tưởng hơn, nhất là bỏ được cái hữu hạn, để vươn lên tới vô cùng. (ch.6-j, g)
Lúc thì Ông vui miệng nói ngay (chi ngôn) lúc thì
ông làm sống động lại các nhân vật lịch sử, và cho họ nói những lời mà Ông muốn
(trùng ngôn), lúc thì Ông kể truyện ngụ ngôn (ngụ ngôn) (ch. Thiên hạ, 33-f),
lúc thì Ông tranh luận, so sánh, lúc thì đàm thoại, lúc thì vấn đáp, tất cả đều
có mục đích phá vỡ cái vỏ «ngã chấp» của ta, để chúng ta mở mắt ra nhìn thấy
được khung trời nội tâm, khung trời bản thể vô biên vô tận.
Bất kỳ một hoàn cảnh nào, bất kỳ một câu chuyện
gì, đối với Trang, cũng như là một chiếc bàn đạp, để tung mình lên cho tới cõi
siêu vi.
Nhờ đó mà Trang không xa lìa đời sống hằng ngày,
không xa lìa chúng nhân mà vẫn làm được công trình là giúp con người vươn lên
trên những cái nhỏ hẹp của đời sống hằng ngày, đó là băng lên cho tới cõi u
linh, huyền diệu.
Đọc Trang, ta thấy rằng nếu không thoát sáo, không
thể nào có một đời sống nội tâm phong phú đích thực…
Chung qui, Trang Tử chỉ ước muốn chúng ta sống
tiêu diêu, khinh thoát, trong cõi Tuyệt đối, vô cùng mà Ông gọi là:
. Cái nghề nghiệp vô vi (Vô vi chi nghiệp,
ch.6-g)
. Cái làng không ở nơi đâu (Vô hà hữu chi
hương, ch.I-f)
. Cánh đồng bao la rộng rãi (Khoáng mạc chi
dã, ch.I-f)
Trang Tử chỉ ước muốn chúng ta trở thành những:
. Thần nhân
. Thánh nhân
. Chí nhân (ch. I-c; 33-a)
. Chân nhân (ch. I-c; 2c, f)
. Những người đạt tới Chí đạo (ch. 11-c)
Mà chân nhân thì trên phải hòa mình được với Đại
thể, dưới thì vui sống được với mọi người, mọi loài, mọi vật, với cảnh trí thiên
nhiên, với mọi hoàn cảnh mình gặp (2h, 3abc, 5d v.v…)
Tâm hồn thì như làn nước lắng chiếu soi được trời
đất nhân quần một cánh hết sức vô tư và chân thật. (13 a)
Đọc Trang, trước hết phải hiểu tinh thần của
Trang, chủ trương của Trang.
Sách của Trang là một kho tàng châu báu, nhưng
thay vì để kho tàng ấy chất đống vào một nơi, ông đem nó vung vãi ra trong một
vùng lớn lao gồm 10.000 chữ, dấu chúng vào trong những ngụ ngôn, những huyền
thoại những câu chuyện bông lông…
Ta hãy quên lời quên chuyện của Trang kể mà chỉ
lưu tâm lượm lặt lấy những tư tưởng của Trang. Đó mới chính là những châu ngọc
mà Trang dành cho chúng ta vậy.
V. LƯỢC DỊCH 7 CHƯƠNG
TRONG NỘI THIÊN
I. TIÊU DIÊU DU
a. Hãy sống một cuộc đời huyền hóa với trời
đất (đoạn a,b)
Hồn ta hỡi, hãy tiêu diêu,
Tung đôi cánh rộng khinh phiêu chín tầng…
Hãy tung cánh chim bằng muôn dặm,
Cưỡi gió mây bay thẳng về Nam,
Bay về quê cũ giang san,
Hồ trời vùng vẫy miên man thỏa tình.
b. Mặc cho miệng thế dèm pha, chỉ trích
(đoạn a,b)
Mặc nhân thế rẻ khinh đàm tiếu,
Óc phàm phu sao hiểu chí nhân…
Vùi thân trong chốn hồng trần,
Họ như ve, sẻ qua lần tháng năm.
Tầm mắt hẹp mà thân ti tiểu,
Kiếp phù du nào hiểu chi đâu,
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Cốt sao cho khỏi cơ cầu thì thôi,
Phận sâu bọ, đành rồi sâu bọ,
Thân nấm rêu nào rõ tuần trăng.
Ve sầu nào biết thu xuân,
Minh linh ngoài mấy vạn năm hay gì?
Như Bành tổ có chi là thọ,
Mà chúng nhân quá cỡ tán dương.
c. Hãy sống thoát tục, vươn lên cao đại
(đoạn c)
Người vui tước phận lý hương,
Ngươi vui mũ áo xênh xang trị vì.
Kìa Liệt Tử thích đi mây gió,
Cưỡi gió mây đây đó thỏa lòng.
Còn ta khinh khoát vô cùng,
Sánh vai nhật nguyệt, vẫy vùng khinh phiêu.
Quên mình quên hết mọi điều,
Quên tên, quên hết bao nhiêu công trình.
Sống đời sống thần linh sảng khoái,
Như Hứa Do chẳng đoái công hầu.
Uống ăn nào có chi đâu,
Mà lo với lắng cho rầu lòng ai.
d. Đời sống thần linh không phải là chuyện
hoang đường (đoạn d)
Ta chẳng nói những lời phách lối,
Lời của ta đâu nỗi hoang đường.
Lời ta minh chính đường hoàng,
Vì người không hiểu, trách quàng trách xiên…
Kẻ mù tối sao xem mầu sắc,
Người điếc tai sao bắt âm thanh.
Cho nên những kẻ vô minh,
Tối tăm ù cạc, ngọn ngành hiểu chi,
Sao biết được uy nghi sang cả,
Của những người huyền hóa siêu linh.
Đất trời gồm tóm trong mình,
Lồng vào muôn vật sự tình nào hai.
Dẫu sóng cả ngất trời không đắm,
Dẫu nóng nung cũng chẳng làm sao.
Trời mây mặc sức tiêu dao,
Cho dù Nghiêu, Thuấn dễ nào sánh vai…
e. Phải biết lợi dùng hết tầm kích của đời
mình (đoạn e, f)
Kiếp sống nọ mấy ai biết dụng,
Biết cách dùng cho đúng, cho hay.
Có dưa năm thạch trong tay,
Bổ ra năm bảy, dưa này vứt đi.
Như nếu biết để y như trước,
Dùng làm phao, sông nước nó băng.
Đổi bất qui thủ lấy vàng,
Ngỡ là đã khéo tính toan lãi lời.
Ai ngờ nó giúp Ngô thắng Việt,
Giúp chủ nhân mãn kiếp vinh quang.
Biết dùng thời thực mênh mang,
Dùng sai, dùng dở oán than nỗi gì.
Nhưng hay nhất là khi vô dụng,
Thoát vòng đời tù túng lợi danh.
Sống trong Vô cực siêu linh,
Xa bề khổ ải, mặc tình nhởn nhơ…
2. TỀ VẬT LUẬN
Ta và trời đất cùng sinh,
Ta và muôn vật sự tình chẳng hai.
Ta nào biết vắn dài, nhĩ ngã,
Lòng muôn phương, muôn ngả tỉnh say.
Thênh thang chèo quế buồm mây,
Lòng trời lạc nẻo chốn này là đâu?
Nhạc trời tấu vui sầu muôn điệu,
Bóng quang huy phiêu diễu mung lung,
Nơi đây ta dứt lòng trần,
Bạn cùng thần thánh, muôn phần hân hoan.
Triều nổi sóng muôn vàn ta mặc,
Lửa ngất trời phần phật ta khinh.
Ta nay đã thoát điêu linh,
Thoát vòng sinh tử, tử sinh của đời.
Ta sống giữa lòng trời vĩnh cửu,
Ta sống trong khu nữu muôn loài.
Vời trông thế sự vần xoay,
Ta nào còn biết bên này bên kia.
Tranh chấp hết, thị phi cũng hết,
Thị với phi phân biệt uổng công.
Đã vài tới điểm đại đồng,
Trông ta trời đất mênh mông một màu.
Lớn với nhỏ in nhau một lứa,
Sống vắn dài cũng thủa phù sinh.
Sợi lông bát ngát mênh mông,
Mà xem non Thái như tình cỏn con.
Kẻ chết yểu sống hơn trăm kiếp,
Còn Lão Bành yếu triết, tảo vong,
Ta nay xếp mọi tơ lòng,
Hết niềm nhĩ ngã, sống trong lòng trời.
Nguồn mạch ấy chẳng vơi, chẳng cạn.
Mà tràn lan, lai láng rạt rào.
Kho trời đã rõ tiêu hao,
Tiêu sao cho hết, dùng sao cho cùng.
Mặc tôm cá sống cùng tôm cá,
Mặc hươu nai nghĩa gá hươu nai,
Mặc cho khỉ vượn sánh đôi,
Mặc cho trai gái tìm nơi tương phùng.
Ta tìm Đạo trong lòng vũ trụ,
Trong lòng ta ta cứ tìm Trời.
Thương cho nhân thế miệt mài,
Lao đao lận đận suốt đời uổng công.
Những bôn tẩu mơ mòng ảo ảnh,
Khiến cho đời hiu quạnh gian truân.
Nào hay ở giữa lòng trần,
Tấc thành đã sẵn muôn phần quang hoa.
Nơi chốn ấy chói lòa ánh sáng,
Cũng là nơi tĩnh lãng siêu nhiên.
Là nơi sực nức hương tiên,
Rườm rà ta bỏ, tần phiền ta quăng.
Đừng biện luận nói năng chi nữa,
Biết nói sao, biết tả làm sao?
Mênh mông bát ngát rạt rào,
Im hơi lặng tiếng mới cao, mới tài.
Ta quên hết hình hài ngôn ngữ,
Quên rằng ta còn có hay không.
Lạ thay phong thái huyền đồng,
Rũ sao cho sạch tơ lòng mới nghe.
Sống khinh khoát muôn bề khinh khoát,
Cùng trăng sao bát ngát xa chơi.
Lòng mang vũ trụ đất trời,
Cùng chư thần thánh muôn đời sống chung.
Sống mãi mãi vô cùng, vô tận,
Mặc trời mây chuyển vận quanh ta,
Mặc cho trần thế bôn ba,
Vì ta đã được tinh hoa đất Trời…
Thử ướm hỏi đâu nơi dừng gót,
Đâu là nơi cùng tột phải đi?
Ta nay truyền lẽ huyền vi,
Có Trời lập tức hết kỳ bôn ba.
Được Trời, Đạo ấy là đạt đích,
Hết lần mò tầm mịch lăng nhăng.
Được Trời là được Thiên chân,
Chân nhân phải có Thiên quân đáy lòng.
3. DƯỠNG SINH CHỦ
Muốn cho đời sống khinh phiêu,
Bớt điều háo hức, bớt điều bon chen.
Chớ lo mua chuốc lời khen,
Cũng đừng đọa lạc tội khiên gông cùm.
Sao cho trong ấm ngoài êm,
Đề huề gia đạo, chu tuyền tấm thân.
Chớ xông vào chỗ gian truân,
Tránh điều tranh chấp, giành phần hơn thua.
Kìa xem thủ thuật mổ bò,
Cố tìm khớp trống, mới lùa lưỡi dao.
Nơi không chống đối mới vào,
Chỗ nào cứng rắn đâm lao ích gì,
Lầu son gác tía mà chi,
Nếu lòng không được mọi bề khinh phiêu.
Sống đời khinh khoát tiêu diêu,
Buông tay, đắm mắt: cũng điều thiên nhiên.
Có chi mà sợ cùng phiền,
Chết là thoát tục, thành tiên ngại gì.
4. NHÂN GIAN THẾ (SỐNG
TRÊN ĐỜI)
Sống đời ở giữa thế gian,
Đừng đem dây rợ buộc ràng mà chi.
Đừng có ỷ sở tri, sở học,
Mà tính toan xoay cuộc cờ đời.
Trước khi muốn cảm hóa người,
Tâm linh trước phải tuyệt vời mới nên.
Tâm linh phải biết niềm chay tịnh.
Giữ cho lòng bình tĩnh hư vô,
Nhà không ánh sáng hiện ra,
Lòng không sẽ thấy chói lòa trời cao.
Kìa Vũ, Thuấn xưa nào có khác,
Nọ Phục Hi cũng trạc thế thôi.
Còn như đối đãi với đời,
Dẫu rằng quyền biến chớ sai tấc thành.
Đừng nóng nảy lo tranh lo chấp,
Đừng bon chen háo hức, say mê.
Trước sau trang trọng đề huề,
Đừng đem nóng giận hại bề giao du.
Với người chớ khư khư cố chấp,
Phải lựa chiều tùy bậc tùy nơi,
Dạy người không phải bẻ người,
Mà là uốn nắn lần hồi mới hay.
Muốn dại dụng chớ say tiểu dụng,
Đừng cho người thao túng đời ta.
«Thao quang, hối đức» mới là,
Thần minh sau trước khôn qua lẽ này.
5. ĐỨC SUNG PHÙ
Vương Bài nước Lỗ cụt chân,
Nhưng mà đệ tử đông bằng Trọng Ni.
Thường Quí lạ, mới đi ướm hỏi,
Hỏi Trọng Ni nông nổi trước sau.
Vương Bài nào lạ chi đâu,
Lại thêm tàn tật lẽ nào tiếng tăm.
Trọng Ni đáp: Thánh nhân là thế,
Ngay Khưu này hồ dễ sánh vai.
Ta còn muốn lấy làm thầy,
Hèn chi kẻ kém Khưu này theo chân.
Một nước Lỗ đã rằng chi lạ,
Ta muốn cùng thiên hạ đi theo.
Họ thường gạn hỏi đến điều,
Con người như thế cao siêu thế nào.
Trọng Ni đáp: Biết bao cao cả,
Sống chết kia đâu há quan tâm.
Trời long, đất lở rầm rầm,
Mà Ngài đâu có lộ phần xuyến xao.
Biết tính mạng, tiêu hao gốc ngọn,
Lòng lâng lâng nào bợn trần ai.
Mặc cho muôn vật vần xoay,
Bởi vì chủ chốt trong tay đã cầm.
Thường Quí nói xin phân giải rõ,
Nghĩa huyền vi soi tỏ một phen.
Đáp rằng: Vạn vật biến thiên,
Phải nhìn cho tỏ hai bên dị đồng.
Từ khác biệt mà trông vạn vật,
Thời chia phôi gan mật, Việt Ngô.
Nhưng từ đồng điểm nhìn ra,
Muôn loài là một, phôi pha chưa từng.
Vui sống cõi hòa đồng của Đức,
Xếp một bên nhận thức ngũ quan.
Sá chi mất một chân phàm,
Chẳng qua hòn đất ném tòm khác chi.
Dùng trí tuệ để suy tâm khảm,
Dùng tâm cơ nhàn lấm thường tâm.
Đã tìm ra được Thiên quân,
Như hồ trong vắt chiếu cùng trời mây.
Như tùng bách tháng ngày tươi tốt,
Như Thuấn Vương đạo cốt Tiên phong.
Thảnh thơi, điềm tĩnh ung dung,
Oai phong hùng dũng giữa vòng biến thiên.
Vì lòng họ gồm kiêm trời đất,
Lại cưu mang vạn vật sinh linh.
Cũng là tai mắt thân hình,
Mà trong rực rỡ tâm linh huy hoàng.
Họ hiểu biết mênh mông vô tận,
Sống vô cùng, vô hạn từ bao.
Ai theo nào khiến ai nào,
Con người thế ấy, nói sao cho cùng.
Thiên chân ví ở cõi lòng,
Sá chi lành sất, hình dung bề ngoài.
Tâm linh đường đã vạch rồi,
Sá chi mũ mãng, hán hài, công danh.
Mở lòng rộng rãi mông mênh,
Trời kia đất nọ há dành riêng ai.
Đừng nên đày đọa hình hài,
Đừng vì danh hão phí hoài tấm thân.
Tại sao tù túng tinh thần,
Hãy nên khôn khéo gỡ lần vấn vương.
Thái Hòa giữ vẹn «Tâm thường»,
Thất tình chớ để tổn thương tâm thần.
Sự đời chất chưởng thăng trầm,
Lẽ trời đã thế bận tâm làm gì.
Cùng người hoan lạc sầu bi,
Dung nhan ta đổi tùy nghi, tùy thời.
Giữ sao cho vẹn lòng trời,
Đừng cho gió cuốn, sóng trôi tâm hồn.
Thế là giữ được «tài toàn»,
Thế là đức hạnh chứa chan tuyệt vời.
Dừng chân lòng dạ có nơi,
Ngoại thân nào quản hình hài nhỏ nhen.
Hình người, lòng đã thành tiên,
Tình đời phải trái tần phiền sạch không.
Với người tuy vẫn lộn sòng,
Với Trời kỳ thật hòa đồng từ bao.
6. ĐẠI TÔNG SƯ
Bài Đại Tông sư này gồm ba đề mục chính:
a. Chân nhân.
b. Đạo.
c. Nghệ thuật sống.
Vậy chương này sẽ có ba tiết bàn về những vấn đề
trên.
a. Chân Nhân
Biết trời mà biết cả người,
Đó là cái biết tuyệt vời thâm uyên.
Biết trời mới biết căn nguyên,
Biết người mới biết chu tuyền tấm thân.
Chân tri là bậc chân nhân,
Chân nhân mới được thông phần chân tri.
Chân nhân khinh khoát huyền vi,
Há lo tranh chấp, há vì công danh.
Trèo cao lòng cũng chẳng kinh,
Nước trào, lửa cháy, tâm linh chẳng sờn.
Một lòng sau trước sắt son,
Lòng mang Đạo cả nào còn sợ chi.
Chân nhân nằm ngủ chẳng mê,
Còn khi tỉnh thức muôn bề thảnh thơi.
Chân nhân khác biệt người đời,
Niềm tràn phất phới, niềm trời sâu xa.
Tử sinh nào khác chi là,
Đi vào chẳng thích, đi ra chẳng cần.
Nhân tâm chẳng phá đạo tâm,
Ý trời há để lòng trần cản ngang.
Cho nên dáng dấp đàng hoàng,
Tâm hồn bình thản dung quang sáng ngời.
Vui buồn hợp nhất với Trời,
Mênh mông bát ngát, ai người dám so.
Kinh quyền tùy tiện đẩy đưa,
Trời chiều, vả lại người ưa mới là.
b. Đạo
Đạo trời hữu tính hữu hình,
Vô vi vả lại vô hình mới hay.
Dễ truyền, khó bắt lạ thay,
Giữ thời giữ được, trông rày hẳn không.
Tự sinh, tự bản vô cùng,
Có từ trời đất còn không có gì.
Sinh trời sinh đất ra uy,
Quỉ thần âu cũng là tùy sở do.
Cao cao vô tận, khôn dò,
Cao hơn Thái Cực vẫn cho là thường.
Thẳm sâu sâu mấy ngàn muôn,
Sâu hơn vũ trụ mà nhường không hay.
Lâu lai nào kể tháng ngày,
Trước trời, trước đất, lâu này lâu chi.
Sống từ muôn thuở vẫn y,
Ngàn muôn tuổi thọ, đã gì già nua.
Hi Di, Hoàng đế, Kiên Ngô,
Kham Phi, Chuyên Húc đã nhờ thần thông.
Đạo trời soi sáng cõi lòng,
Mới thành Thần Thánh sống cùng trời mây.
Lão Bành, Phó Duyệt nhờ tay,
Ngung Cường, Vương Mẫu may thay được người.
Mới nên Thần Thánh tuyệt vời,
Ngự nơi Thiếu Quảng, chơi nơi Ngân Hà.
Biết bao thỏ lặn, ác tà,
Hai vầng nhật nguyệt khôn qua Đạo Trời.
Kìa như Bắc Đẩu thảnh thơi,
Cũng nhờ Đạo cả mới ngôi cửu trùng.
Đạo Trời ngẫm thực vô cùng,
Biết bao quyền phép thần thông nhiệm mầu.
c. Nghệ thuật sống
Ta nên sống thuận mệnh Trời,
Vấn đề sinh tử nên coi là thường.
Hình hài chẳng vấn vương tấc dạ,
Vẻ bên ngoài biến hóa quản chi.
Tồn vong sinh tử cũng y,
Chẳng qua máy tạo huyền vi an bài.
Đời trần thế là đời mộng ảo,
Tỉnh với mơ lộn lạo khác chi,
Tử sinh như ở với đi,
Như thay hình tướng có chi bận lòng.
Dù Nam, Bắc, Tây, Đông cũng vậy,
Trời bảo sao, ta hãy vui theo.
Mặc cho ngoại cảnh xoay chiều,
Giữa lòng Tạo Hóa khinh phiêu thỏa tình.
Đem tâm gởi mênh mông bát ngát,
Thời tâm này mất mát làm sao?
Muốn tìm ra Đạo chí cao,
Nếu không suy tưởng nhẽ nào tìm ra.
Hãy thâu lượm tinh hoa sử sách,
Hãy khơi tung nguồn mạch đáy lòng.
Hư vô khi đã khai thông,
Rồi ra sẽ được huyền đồng chẳng sai.
Tìm Trời phải quên đời, quên cảnh,
Quên phù sinh, ảo ảnh bên ngoài,
Tâm hồn khi hết pha phôi.
Mới mong rực rỡ ánh trời hiện ra.
Đã thấy Đạo, đâu là kim cổ,
Hết cổ kim vào chỗ trường sinh.
Ham sinh thời lại điêu linh,
Phù sinh chẳng chuộng, thần linh ấy là.
Hãy cố gắng vượt qua nhân nghĩa,
Hãy quên đi nghi lễ của đời.
Quên mình, quên cả hình hài,
Thông minh trí huệ, gác ngoài tâm linh.
Hãy hợp với vô hình, vô tượng,
Cùng Đại thông vô lượng sánh đôi.
Thế là được Đạo được Trời,
Thoát vòng biến hóa muôn đời trường sinh…
Ai chỉ vẽ sự tình sau trước,
Ấy thầy ta đại lược cho ta.
Thầy ta muôn vật điều hòa,
Mà nào kể nghĩa với là kể ơn.
Ban ân trạch cho muôn thế hệ,
Mà chưa hề lấy thế làm nhân.
Trường tồn đã mấy muôn năm,
Mà chưa hề thấy có phần già nua.
Thầy ta chở cùng che trời đất,
Lại ra tay điêu khắc muôn loài,
Thế mà một mực thảnh thơi,
Chưa hề có bảo là tài, là hay.
7. ỨNG ĐẾ VƯƠNG (Nghệ
thuật trị dân)
Trị dân nước thế nào cho phải,
Làm sao cho quốc thái dân an.
Bên ngoài lo lắng sửa sang,
Hay lo cảm hóa tâm can con người.
Sửa sang nghi thức bên ngoài,
Thực là tính chuyện vá trời đào sông.
Lấy lòng dân nước làm lòng,
Nhu hòa điềm đạm, như không mới là.
Đừng nên lận đận bôn ba,
Lao tâm khổ tứ cho ra thân tàn.
Phải cho phong độ đàng hoàng,
Rồi ra mới đáng nêu gương cho người.
Minh vương nghệ thuật tuyệt vời,
Công trùm thiên hạ mà coi như thường.
Đức trời cảm hóa muôn phương,
Há cần dân phải lo lường nài van.
Âm thầm gây dựng mối giường,
Để cho muôn vật an khương thái hòa.
Riêng mình rũ bỏ phù hoa.
Vui trong Đạo cả cao xa tuyệt vời.
Sống trong Vị thủy chơi vơi.
Cỡi chim «Khinh
khoát» ra ngoài lục hư.
Làng Vô hà hữu ngao du,
Sống trong «Vô hữu» lặng tờ tịch liêu.
Vô vi như thể trời cao,
Vô vi trác tuyệt nói sao cho cùng.
Bao trùm vô tận thinh không,
Mịt mù tông tích ai lùng cho ra.
Tâm hồn gương sáng sáng lòa,
Chiếu soi muôn vật đâu là riêng tây.
Vô vi hỗn độn ai hay,
Phẩm tiên chớ để lọt tay phàm trần…
CHÚ THÍCH
Mông 蒙 theo Địa lý chí thì thuộc nước Lương; theo Lưu Hướng biệt
lục thì thuộc nước Tống. Phùng Hữu Lan cũng cho rằng Trang Tử là người
nước Tống.
Lương Huệ Vương nguyên niên và khoảng năm 6 đời Chu Liệt vương (370).
Tề
Tuyên Vương (332-313). Trang Tử đồng thời với Mạnh tử (372-289). Huệ Tử
(380-300), Công Tôn Long (320-250). Như vậy, Trang Tử sống vào những
khoảng năm (360-286).
Sử Ký Tư mã Thiên, Lão, Trang, Thân, Hàn liệt truyện.
[5]
«Thượng dữ Tạo vật giả du, nhi hạ dữ ngoại tử sinh, vô chung thủy giả vi
hữu…» 上
與 造 物 者 游 而 下 與 外 死 生,無
終 始 者 為 友 (Thiên hạ,
F).
|