TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ

» MỤC LỤC  |  NGUYÊN  |  HANH  |  LỢI  |  TRINH

HANH TẬP

1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16


ĐỆ NHẤT TIẾT KHẨU QUYẾT

HÀM DƯỠNG BẢN NGUYÊN, CỨU HỘ MỆNH BẢO

第 一 節 口 訣 : 涵 養 本 原 救 護 命 寶

 

Muốn trường sinh, phải tìm cho được Chân Tâm

Muốn tu Trường sinh, phải biết gốc của sở sinh. Muốn cầu bất tử, phải biết thế nào là con người bất tử. Cho nên nói: Có biết được Bất tử nhân, mới có thể trở nên Bất tử.

Con người bất tử ấy, Đạo gia kêu là «Thiết Hán», Phật Gia gọi là «Kim Cương». Tức là Chân Tâm, bản lai diệu giác của con người. Tâm này vốn Linh minh bất muội, Thường tri, thường minh, về Thể, vốn dĩ không sinh, không diệt, về Tướng, vốn vô khứ, vô lai. Không biết có tự bao giờ, trước đất trời nó đã có. Không biết nó kết cuộc ra sao, sau đất trời nó vẫn còn. Cao thì vô thượng, rộng thì vô cùng, thẳm sâu vô đáy. Trời đất chở che là nhờ nó, nhật nguyệt sáng soi là do nó, hư không nhờ nò mà rộng rãi, bao la, vạn loài nhờ nó mà biến hoá. Tam giáo Thánh Nhân tu Đạo là tu cái đó, thành Tiên, thành Phật là do đó, mang lông, đội sừng cũng do đó.

Thánh phàm hai nẻo, do nó (Tâm đó) phân ra. Xuất sinh tử cũng do nó, lên Niết Bàn cũng chỉ có Phép này (phép tu tâm này). Vạn vật trong thế gian đều bị vô thường thôn tính. Duy có cái đó không sinh, không diệt,  duy cái tâm đó không có gì trói buộc nổi, nó vô hình tướng, nên không gì thấy được. Nó đoan đoan, chính chính, đình đình, đáng đáng, rất đâu ra đấy, nhưng con người không hiểu được Bản Lai của nó.

Chân tâm và Vọng Tâm

Tại sao không giác ngộ? Tại vì có vọng tâm. Vọng tâm là gì?  Chúng sinh từ vô thuỷ dĩ lai, không biết Chân Tâm, chẳng tự hiểu biết, nên bị luân chuyển, uổng nhập các nẻo luân hồi

Đầu hết Chân Tâm thời vô vọng, tính trí bản minh. Nguyên tinh thời thanh tịnh thâm diệu, nhưng vì vọng tâm đột khởi, nên Chân Tâm bị mờ tối, Nguyên tinh cũng mất bản chất, bị trần ai làm dơ nhớp, và cái Biết phát sinh. Cho nên chuyển Tri Giác thành Thức. Vọng tâm trong ta chính là Thức vậy. Tâm vốn vô tri, nhờ Thức mới biết, Tính vốn vô sinh, nhờ Thức mới sinh. Chủng tử sinh thân này, do đó phát sinh. Nhân đó sinh ra các loại hoa ô nhiễm, và tất nhiên sẽ sinh ra các quả luân hồi sinh tử.

Thức Thần là Vọng Tâm, là Căn Nguyên sinh tử

Ngày nay, người ta nhận lầm rằng trong tâm ta có một vật chiêu chiêu Linh Linh, hồn nhiên cùng vật đồng thể, nên gọi nó là Nguyên Thần. Có biết đâu đó chỉ là Thức Thần sinh sinh tử tử, chỉ là chủng tử kiếp kiếp luân hồi.

Cho nên Cảnh Sầm nói:

Học Đạo chi nhân bất ngộ chân,

 道 之 人 不 悟 真,

Chỉ vị tùng tiền nhận Thức Thần.

 為 從 前 認 識 神 .

Vô lượng kiếp lai sinh tử bản,

 量 劫  來 生死本,

Si nhân hoán tác bản lai nhân.

 痴 人 喚 作 本 來 人 .

Người nay, học Đạo chẳng biết Chân,

Chỉ vị xưa nay nhận Thức Thần.

Thức thần vốn dĩ sinh tử bản,

Người khờ tưởng ấy Bản Lai Nhân.

Than ôi! người đời nhận tớ làm chủ, nhận giặc làm con (nhận ngọn làm gốc) mà chẳng hay. Cho nên đức Thế Tôn mới dạy: Tiên đoạn vô thuỷ luân hồi căn bản 先 斷 無 始 輪 回 根 本 (Trước hết phải chặt đứt căn bản Luân Hồi). Căn này đã chặt, thì các Thức lấy đâu mà nương. Và ta sẽ phục hồi được Bản Thể nguyên sơ thường minh của chúng ta.

Nhưng Đại Đạo mênh mang, mù mịt, biết làm sao mà đi vào? Muốn cho áo xống tề chỉnh, phải xốc lại cổ áo, muốn cho lưới cá tề chỉnh, phải xem lại giường mối lưới.

Xưa Doãn Chân Nhân dạy ta con đường tu đạo chân chính, đó là phải bắt đầu cho hay, cho đẹp. Nếu đầu mà tinh khiết, thì Thiên Lý sẽ hiện tiền, Thức niệm không thể ô nhiễm được. Ví như, khi mặt trời sáng láng từng không, thì quỉ ma đều tuyệt tích.

Muốn tu, phải biết đâu là Linh Đài

Cái «Tâm địa pháp môn» này, đó là đạo bất biến của muôn thần, vạn thánh xưa nay. Cho nên Lão tử nói: «Muốn tu đạo, phải nhìn vào Tâm (nội quan). Muốn nhìn vào tâm, cái hay là phải biết Linh Quan Nhất Khiếu (Nê Hoàn Cung, Linh Đài). Con người từ khi thụ sinh, đã bẩm thụ được «một điểm Nguyên Dương», nên sinh ra Khiếu này, để tàng trữ «Nguyên Thần».

Khiếu này rỗng không, chí hư, chí linh, là chủ tể con người chúng ta. Cho nên có nó thì sống,  không có nó thì chết. Sinh tử thịnh suy đều do nó định đoạt.

Nho gọi «Linh Đài», Đạo gọi «Linh Quan», Phật gọi «Linh Sơn». Tam giáo đều có cùng một pháp môn, đó là cái «Khiếu Linh minh» này vậy.                                                         

Phật giáo nói:

Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu,

 在 靈 山 莫 遠 求,

Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.

 山 只 在 汝 心 頭 .

Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp,

 人 人 有 個 靈 山 塔,

Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu.

 向 靈 山 塔 下 修 .

Phật tại Linh Sơn, khỏi tìm đâu,

Linh Sơn ở tại nhữ Tâm Đầu,

Ai ai cũng có Linh Sơn tháp,

Hãy hướng Linh Sơn tháp mà tu.

Đó là luận cho biết Linh Sơn Tháp ở đâu.

Lão Giáo dạy:

Đại Đạo căn kinh, thức giả hi,

大道 根 莖 識 者 稀,

Thường nhân nhật dụng thục năng tri.

 常人 日 用 孰 能 知 .

Vi quân chỉ xuất thần tiên quật,

 為君 指 出 神 仙 窟,

Nhất khiếu loan loan tự nguyệt mi.

 一 竅 彎 彎 似 月 眉 .

Đại đạo căn cơ ít kẻ hay,

Hằng ngày dùng nó vẫn không hay,

Vì ngươi, chỉ rõ «Thần Tiên Quật»,

Cong cong một khiếu tựa lông mày.

Đó là mô tả về hình dáng Huyệt đó.

Khiếu này là Đài của Thần Linh, là phủ bí mật. Nó rất thanh tịnh, minh diệu, hư triệt, Linh thông, một mình đứng vững. Nó là Căn bản chúng sinh, nên gọi là Tâm Địa, là Sở đắc của chư Phật cho nên gọi Bồ Đề.

Giao  triệt dung dung, nên gọi là Pháp Giới (tức vũ trụ hiện tượng giới).

Tịch tĩnh, thường lạc nên gọi Niết Bàn.

Không ô trọc, không tẩu lậu nên gọi Thanh Tịnh.

Chân thật bất biến nên gọi là Chân Như.

Không lỗi lầm, không sai quấy nên gọi Phật Tính Giúp lành, lánh dữ nên gọi Tổng Trì.

Ẩn phú, hàm nhiếp (thu tàng mọi sự) nên gọi Như Lai Tạng.

Siêu việt, huyền bí nên gọi Mật Nghiêm Quốc (Tịnh Thổ của Đức Đại Nhật Như Lai), Gồm thâu mọi đức, chỉ điểm quần mê, một mình chiếu sáng, nên gọi Viên giác. Kỳ thật, chỉ là một khiếu. Đi ngược nó sẽ là phàm phu, thuận theo nó làTiên Thánh. Không biết nó sẽ bị Sinh Tử, Luân Hồi; hiểu biết nó, Luân Hồi sẽ dứt.

Muốn Thể hợp Chí đạo phải biết quán chiếu Bản Tâm

 Muốn dứt Luân Hồi, không gì bằng thể hợp Chí Đạo. Muốn thể hợp Chí Đạo, không gì bằng Quán Chiếu Bản Tâm. Muốn quán chiếu Bản Tâm, phải biết hư tâm quảng thị, nội quan quán chiếu, lúc nào cũng như vầng nguyệt giữa trời, lúc nào cũng phải định tĩnh tuệ chiếu, lúc nào cũng giữ không để thất tình manh nha (ai, cụ, hỉ, nộ, ái, ố, dục),[1] lúc nào cũng giữ cho Bát thức không hoen ố. Ngoài tuyệt chư duyên, trong tuyệt chư vọng .Phải biết phản quan, nội thính, điều hoà hơi thở, ngậm miệng không nói, tứ chi bất động, để cho Ngũ Thức đều phản kỳ căn, cho Ngũ Linh phản an kỳ vị.

Suốt 24 giờ, mắt luôn nhìn vào khiếu đó, tai thường «nghịch thính» khiếu đó, lưỡi thường qui hướng về khiếu đó, vận, dụng, thi, vi, niệm niệm không ngoài khiếu đó, Đi, đứng, nằm, ngồi, tâm thường không rời khiếu đó. Không lúc nào được quên «quan chiếu khíếu đó». Nếu làm sai nguyên tắc này, thì làm sao thần quang xuất ra lại tự phản hồi được, luôn luôn không lìa xa khiếu này, như Tử Tư nói: Bất khả tu du ly 不 可 須 臾 離  vậy.[2]

Trước thời tồn dưỡng để hư cái Tâm, sau phải quên đi để mở lượng cái Tâm. Tuỳ xứ, tuỳ thời, luôn luôn tự tại, vô ngại. Đúng như Hổ Long Kinh đã nói: «Chí diệu chi yếu, tiên tồn, hậu vong.» 至 妙 之 要, 先 存 後 忘  (Cái cốt yếu của điều huyền diệu này là Tiên Tồn, Hậu vong). Đó là khẩu quyết rốt ráo vậy.

Phải biết giữ đôi mắt

Muốn trừ Lục Thức, cần biết trước sau: Tuy ý là chủ soái Lục Thức, nhưng thật ra đôi mắt là Tiên Phong của Ngũ Tặc. Cho nên Cổ Đức nói: «Tâm thị khu cơ, mục vi đạo tặc, dục phục kỳ Tâm, tiên nhiếp kỳ mục.» 心 是 樞 機, 目 為 盜 賊, 欲 伏 其 心 先 攝 其 目 (Tâm là then chốt, mắt là giặc trộm, muốn hàng phục Tâm, trước phải nhắm mắt). Cho nên cung muốn bắn, phải động nỏ. Nỏ không động thì cung không bắn, mắt không động, thì Tâm đứng yên.

Âm Phù Kinh viết: «Cơ tại mục.» 機 在 目 (Nỏ ở mắt). Đạo Đức kinh viết: «Bất kiến khả dục, nhi Tâm bất loạn.» [3] 不 見 可 欲, 而 心 不 亂 .

Mọi vẻ đẹp bên ngoài chẳng thiết,

Cho lòng dân cao khiết trong veo.

Luận Ngữ viết: «Phi Lễ vật thị.» 非禮 勿 視 (Không nhìn điều phi lễ.)[4]

Chu Tử nói: «Chế vu ngoại, sở dĩ dưỡng kỳ trung dã.» 制 于 外, 所 以 養 其 中 也 (Không nhìn cái đáng mê bên ngoài, để dưỡng cái Tâm.)

Sách Kim Tư Bửu Lục nói: «Nhãn nãi thần du Huyền Tẫn môn, ức chi lệnh nhãn sử qui tâm.» 眼 乃 神 游 玄 牝 門, 抑 之 令 眼 使 歸 心  (Mắt nhìn là Thần đi chơi nơi Huyền Tẫn Môn, hạn chế để cho Mắt quay về Tâm.)

Mắt thủ khiếu này không rời, tức là Như Lai Tạng Pháp Nhãn, đúng bí chỉ của Kinh Niết Bàn. Cho nên Lăng Già Kinh viết: «Tác thị quán giả, danh vi Chính quán; Nhược tha quán giả, danh vi tà quán.» 作 是 觀 者, 名 為 正 觀. 若 他 觀 者, 名 為 邪 觀  (Có cái nhìn này là cái nhìn đúng, nếu có cái nhìn khác, là cái nhìn sai.)

Sách Quán Kinh, phẩm Quán Tâm viết: «Tam giới chi trung, dĩ Tâm vi chủ. Năng quán Tâm giả, cứu cánh giải thoát, bất năng quán giả, tất cảnh trầm luân.» 三 界 之 中, 以 心 為 主. 能 觀 心 者, 究 竟 解 脫, 不能 觀 者, 畢 竟 沉 淪 (Tâm là chủ Tam Giới, biết quán Tâm [nội quan] sẽ được  giải thoát. Không biết quán tâm, cuối cùng sẽ bị trầm luân.)

Chương đầu Đạo Đức Kinh viết: Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu 常 有 欲 以 觀 其 徼 (từ Hữu sẽ thấy đầu đuôi vạn vật), là thấy được khiếu này. Thường vô dục dĩ quan kỳ Diệu 常 有 欲 以 觀 其 妙 (từ Vô, sẽ thấy được điều áo diệu của Đạo) là thấy được vi diệu của khiếu này. Xưa kia Hoàng Đế đã nội quán 3 tháng, là quán chiếu cái khiếu này.

Phải biết Quán Tâm, Chỉ Niệm

Đức Thái Thượng Lão Quân cũng nói: «Ngô tòng vô lượng kiếp lai, nội quan đắc đạo, nãi chí hư vô.» 吾 從 無 量 劫 來, 內 觀 得 道, 乃 至虛 無 (Ta từ vô lượng kiếp tới nay, dùng nội quan mà đắc đạo, mà tới được Hư Vô.)

Quán Tâm không dễ, chỉ niệm khó hơn. Cho nên chỗ niệm khởi đầu, là căn cơ sinh tử.

Cổ Tiên viết:

Đại Đạo giáo nhân tiên chỉ niệm,

 大 道 教 人 先 止 念,

Niệm đầu bất trú, diệc đồ nhiên.

 念 頭 不 住 亦 徒 然 .

Đại đạo dạy người tiên chỉ niệm,

Niệm đầu chẳng trụ mới là hay.

Kinh Viên Giác nói: Tất cả thời gian rảnh rỗi, không khởi Vọng Niệm, nếu còn Vọng Tâm, Vọng niệm sẽ không diệt. Sống trong cảnh Vọng tưởng, đừng có tìm hiểu. Nếu cứ tìm hiểu, sẽ không biết đâu là chân thật.

Khởi Tín Luận viết: Nếu Tâm tán loạn, lập tức thu nhiếp lại, khiến cho Tâm được Chính Niệm. Niệm khởi, biết ngay, biết tức là vô (niệm). Tu hành diệu môn, chính tại nơi đây.

Hư Tịnh Thiên sư viết: Không sợ niệm khởi, chỉ lo biết muộn. Niệm khởi là bệnh, dứt niệm là thuốc.

Niệm là Vọng Niệm

Nên biết Vọng Niệm khởi lên từ Thức Căn. Đấu tranh thị phi biến thành hư vọng, chứ không có Thực Thể.

Ở nơi chúng sinh, thì Trí Liệt, Thức cường. Cho nên gọi là Thức.

Ở nơi chư Phật, thì Trí cường thức Liệt, cho nên gọi là Trí.

Chỉ đổi tên, không đổi Bản Thể.

Lúc ban sơ, Tâm Nguyên khuếch nhiên, vi diệu, trừng triệt, nhưng vì tri kiến sinh, vọng trần khởi, nên có Vọng Niệm.  Nếu không có Tri Kiến, thì Trí Tính chân tịnh, phục hồi diệu trạm, động triệt tinh vi, và ý niệm sẽ tự tiêu.

Ý niệm đã tiêu, thì Lục Thức cũng sẽ tiêu ma. Cho nên Văn Thù Bồ Tát nói: Nhất căn (Tâm) ký qui nguyên, Lục căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý) thành giải thoát.

Không có Lục căn, thì không có Lục Trần (Sắc, thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp). Không có Lục Trần thỉ không có Lục Thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tị thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức). Không có Lục Thức sẽ không có luân hồi chủng tử. Thì nhất điểm Chân Tâm của ta sẽ độc lập, không y cứ vào đâu, và sẽ Không, Không, Đãng, Đãng, Quang, Quang, Tịnh, Tịnh, VẠN THẾ THƯỜNG TỒN, KHÔNG CÒN SINH DIỆT NỮA.

Tu là Tu Tâm, là Bồi dưỡng Bản Nguyên

Phép này trực chỉ Nhân Tâm, Tâm mà tu thì vạn sự thành, thật là giản dị, thẳng suốt: Chỉ cần Bồi dưỡng Bản Nguyên, quán chiếu Bản Khiếu (Bản Tâm). Lâu ngày Tâm sẽ như đổi mới, khí Hạo Nhiên (Chân Khí) sẽ thông sướng, ngưng nhiên bất động, sẽ tịch nhiên vô tư, biết rõ Cái Không, hiểu được Tính mình. Cho nên nói: «Bì phu bác lạc tận, Nhất Chân tương thứ hiện.» 皮 膚 剝 落 盡, 一 真 將 次 現 (Bì phu khi lóc hết, Chân Linh sẽ  hiện ra.)

Công phu được như vậy, tự nhiên tinh thần sẽ rạng rỡ, trí tuệ ngày một sinh, Tâm Tính Linh thông, cái gì ẩn hiện cũng rõ hết, tuỳ ý biết được cơ đóng mở của trời đất, tha hồ bay nhảy. Tự nhiên Nguyên Dương Chân Khí từ trong phát ra, từ đầu đi xuống Huỳnh Đình (Trung Đan Điền), xuyên thấu Vĩ Lư, lên tới huyệt Giáp Tích. Trên thì lên tới Thiên Cốc (Nê Hoàn), dưới xuống tới Khúc Giang (Hạ đơn điền). Làm cho bách mạch lưu thông, Tam điền khái quán, xua đuổi âm tà ra khỏi trăm khiếu trong thân, rửa sạch uế tạp trong Ngũ Tạng, y như được uống thuốc của Thiện Kiến Vương (của Đế Thích là vua của thành Thiện Kiến Vương, trên đỉnh núi Tu Di), các bệnh đều tiêu. Như tấu khúc đàn Sư Tử (Sư Tử là vua Bách Lỗ, Phật Giáo kêu Như Lai là Sư Tử), mọi thanh âm khác đều đình chỉ. Nên nói:

Nhất Tâm Liệu vạn bệnh, 一 心 療 萬 病

Bất giả dược phương đa. 不 假 藥 方 多

Một Tâm chữa muôn bệnh,

Đơn thuốc chẳng cần nhiều.

Mới biết xưa nay, chư thánh đều lấy Tâm này làm phương tiện mà vào cửa, cuối cùng tu thành Tiên, Phật, Thánh, Tổ, thành Thầy dạy đời.

Phàm phu không thành chứng quả, là vì chẳng biết Tâm này. Cho nên có lời nói: «Hải khô chung kiến để, Nhân tử bất tri tâm.» 海 枯 終見 底, 人 死 不 知 心 (Biển khô còn thấy đáy, Người chết chưa biết Tâm.)

Lục Đạo[5] quần mông (mê muội) đều do cửa này mà sinh ra (không biết Tu Tâm).

Băng qua nghìn đời vẫn không biết đàng trở lại. Thật đáng buồn thay!

Cho nên chư Phật mới vào nhà lửa cửu người, Tổ Sư mới dạy Tây lai. Sở dĩ chư thánh phải buồn than, chỉ là vì người không đạt được Cái Duy Tâm Yếu Đạo ấy,

Như sách Bửu Tạng nói: Trong trời đất, vũ trụ này, có một báu vật (Tâm Chân Như, Linh Tri), dấu tại con người (hình sơn = hình dạng con người), gặp vật thì chói sáng, trong, ngoài trống rỗng, tịch mịch khó thấy, gọi là Huyền Huyền. Nó hiện ra phía ngoài cung Tử Vi (Thượng đan điền). Diệu dụng nó là tại nôi Hư Vô, đoan hoá bất động, độc nhất, vô song, thanh có âm hưởng nhiệm màu, sắc nở hoa dung, không thấy sở cư, như là Không Không. Chỉ để lại âm thanh, không thấy hình tượng. Chỉ để lại công phu, không thấy được dung mạo. Nó chói rọi u minh, quán thông mọi sự lýù. Nó là Chủ tể muôn loài, là Chân Tông vạn sự. Nó thi công nơi người thì như có hình, lúc nó tĩnh định thì minh minh, hư vô. Bản tính nó vốn tĩnh minh, bắt chước theo nó thì công đức sẽ viên thành. Nó sáng soi nhật nguyệt, đức nó vượt Thiên Không. Vạn vật bất động, nhất thiết vô danh. Chuyển hoá Thiên Địa, tự tại tung hoành. Tinh vi diệu dụng, hỗn độn nhi thành. Có ai thấy mà không mừng, có ai nghe mà không sợ. Sao lại để cho hòn ngọc vô giá đó, lọt vào Âm Nhập chi khanh? Thật là đáng buồn. Chỉ vì con không biết Tự Trọng. Buồn thay! Buồn thay! Như vậy tối sao thành sáng?

Bảo vật đó, sáng láng rực rỡ, rạng chiếu mười phương. Tịch nhiên như không có gì, nhưng công dụng vô biên.

Ứng thành thanh sắc, thành Âm Dương. Nó không có căn, nhưng diệu dụng thì vô cùng. Mắt nhìn không thấy, tai nghe không ra, Bản Nguyên nó thì mù mịt, biến hoá thành vật, thành thánh thần, công dụng nó thật Linh diệu. Nó là Chân Tinh của Đại Đạo, Chân Tinh này rất Linh diệu, sinh ra vạn vật, ngưng nhiên thường trụ, trường tồn, đồng thể với Đạo.

Vạn sự trong thiên hạ, Tâm là quan trọng nhất. Bách tính dùng nó hằng ngày, mà không biết nó, Như cá trong biển, mà không biết nước. Cho nên kinh Phật nói: Nhất thiết chúng sinh, từ vạn kiếp lai, không biết bản tâm, không tự giác ngộ, nhận lầm tứ đại[6] là thân, duyên lự là Tâm. Ví như trăm nghìn biển cả thì không nhận, chỉ nhận một cái  bèo, cái bọt. Cứ thế, đã mê, càng mê, đã lầm càng lầm, tâm tuỳ cảnh đổi, mắt tuỳ vật sinh tình, thủ xả trăm mối, không lúc nào rảnh, cho nên lầm lạc, tạo nghiệp. Tuần hoàn trong lục đạo, như lưới dày bao vây khắp mình, không sao thoát ra được. Suy cho cùng chỉ tại lúc đầu đã bị vọng niệm làm mê hoặc bản tâm mà thôi.

Cho nên Linh Nhuận thiền sư nói:

Vọng tình khiên dẫn hà thời liễu,

 情 牽 引 何 時 了,

Cô phụ Linh Đài nhất điểm quang.

 辜 負 靈 臺 一 點 光 .

Vọng tình dẫn dắt khi nào hết,

Uổng thay ánh sáng của Linh Đài.

Linh đài nhất điểm quang chính là Chân Như Linh Tri Tâm vậy. Nó tối huyền, tối diệu, thông thánh, thông Linh, cực cao minh, cực quảng đại, nó sinh ra mọi biến hoá, là bản thể quần sinh, vạn hữu, hoành quán vạn phương. Từ khi chưa có trời đất tới nay, nó vốn hằng hữu. Khi trời đất đã huỷ hoại, nó vẫn còn đó. Nhất thiết cảnh giới, đều là tâm quang. Nếu người ta biết được Tâm, thì Đại Địa không còn một tấc đất. Nên nói: Tam giới duy Tâm.

Người mê cầu Pháp ngoài Tâm, bậc Chí Nhân, thấy Cảnh là Tâm. Cảnh là Cảnh của Tâm, Tâm là Tâm của Cảnh. Đối cảnh không mê, gặp duyên không động. Hỗ thành một Thể không khác. Nếu biết cảnh tượng bên ngoài đều do Tâm biến hiện, thì sẽ Ngộ Tâm, thành Đạo.

Thấy được Vọng Niệm từ vô thuỷ, sẽ thu nhiếp được Cảnh về Tâm, thoát triền phược, đạt tới Chân Như, lìa trần cấu, mà đạt giải thoát, vĩnh viễn hoà hiệp với Thanh Tĩnh, Tự Nhiên, sẽ không còn thấy các tướng hữu vi của trần cảnh. Như vàng lìa khoáng, không còn bao giờ bị nhiễm bùn nhơ, như cây đã thành than, không còn bao giờ sinh cành lá. Đã được là được luôn, cùng tận cõi bờ của vị lai, siêu thoát hết mọi gông cùm, sống mãi cùng thần thánh.

Tuy nhiên, cái Đại Đạo tối thượng nhất thừa này, nếu ai có căn cơ linh lợi, thì vào ngay được cõi Như Lai, ai mà có căn cơ cùn nhụt, thì sẽ phải làm sao? Thưa phải đi từ thấp tới cao, dần dà đi vào: Một bước tiến là một bước hiệu nghiệm; lên một cấp là có qui mô của một cấp. Lại nữa muốn đi xa la phải tự chỗ gần, muốn lên cao phải từ chỗ thấp.[7] Nếu chẳng biết nhập môn hạ thủ, thì làm sao lên được cảnh giới tối cao? Nếu không tận tâm, làm sao biết tính. Nếu không Minh Tâm, làm sao Kiến Tính? Cái yếu quyết để Minh Tâm, Tu Tâm, là phải lấy Thiện Đạo, phù trợ bản tâm, phải luôn luôn lấy máu nhuận trạch kỳ tâm, luôn luôn phải tĩnh trị cõi lòng, luôn luôn phải tinh tiến kiên cố bản tâm, luôn luôn phải lấy nhẫn nhục làm cho tâm thản đãng, luôn luôn phải lấy Linh giác minh chiếu khiết tịng tự tâm, luôn luôn phải lấy trí tuệ mở mang cõi lòng, luôn luôn phải lấy Phật tri kiến khải phát tự tâm, lấy Phật pháp bình đẳng mở rộng Tâm Hồn.

Cho nên, Minh Tâm là cái bơi chèo trí huệ đẩy đưa ta trong biển sinh tử của ta, Tận Tâm là lương y chữa mọi bệnh phiền não. Nếu không biết Tâm này, sẽ vĩnh kiếp luân hồi, đánh mất Chân Tính. Nếu biết rõ Tâm này, thì sẽ thoát vòng sinh tử, chứng đắc Niết Bàn. Sau trước không bao giờ ra khỏi Tâm này. Lìa khỏi Tâm này không còn diệu pháp nào khác, chẳng qua chỉ là thành tựu cái Tâm này mà thôi.

Ôi! Chẳng nên coi thường. Thánh nhân khó gặp. Cho nên Trương Bình Thúc nói:

Chỉ vị Đan Kinh vô khẩu quyết,

 只 為 丹 經 無 口 訣,

Giáo quân hà xứ kết Linh Thai.

 教 君 何 處 結 靈 胎 .

Chỉ vị Đan Kinh không khẩu quyết,

Khiến ông không cách kết Linh Thai.        

Có biết đâu rằng:

Các khẩu quyết Đan Kinh, rất là ẩn áo, rất là khó hiểu. Khíến người không hiểu nổi. Toàn là ẩn ngữ, bí từ, khiến người hoa mắt, loạn tâm, đến nỗi giữa đường phải rút lui.

Ta rất thương họ. Nay đem Đơn Kinh, Phạn điển, khẩu quyết nhất nhất nêu ra, cho đời sau biết. Nó sẽ như ngọn đèn phá tan âm tối chỉ rõ con đường, cho mọi người biết được giả chân, phân rành vàng đá.

Khẩu quyết

Thái Huyền Chân Nhân nói:

Phụ mẫu sinh tiền nhất điểm Linh,

 父 母 生 前 一 點 靈,

Bất Linh chỉ vị kết thành hình.

 不 靈 只 為 結 成 形 .

Thành hình tráo khước quang minh chủng,

 成 形 罩 卻 光 明 種,

Phóng hạ y nhiên triệt để thanh.

 放 下 依 然 徹 底 清 .

Phụ mẫu sinh tiền một điểm Limh,

Không Linh chỉ tại kết thành hình.

Thành hình, khuất lấp quang minh chủng,

Nếu thoát hình hài, triệt để thanh.

Không Chiếu Thiền Sư nói:

Giá cá phân minh, cá cá đồng,

 這 個 分 明 個 個 同,

Năng bao thiên địa, vận hư không.

 能 包 天 地 運 虛 空 .

Ngã kim chỉ xuất Chân Tâm địa,

 我  今 指 出 真 心 地,

Không tịch Linh Tri thị Bản Tông.

 空 寂 靈 知 是 本 宗 .

Chân Như tính ấy thế nhân  đồng,

Bao trùm trời đất, chuyển Hư Không.

Nay ta chỉ thẳng Chân Tâm địa,

Vắng lặng Linh Tri, ấy Bản Tông.

Tự Nhiên Cư Sĩ nói:

Tâm như minh kính Liên thiên tịnh,

 心 如 明 鏡 連 天 淨,

Tính tự hàn đàm chỉ thuỷ đồng.

 性 似 寒 潭 止 水 同 .

Nhị thập thời trung thường giác chiếu,

 二 十 時 中 常 覺 照,

Hưu giáo muội Liễu Chủ Nhân Ông.

 休 教 昧 了 主 人 翁 .

Tâm sáng như gương, trong tựa trời,

Tính như Hồ lắng, nước lặng ngôi,

Ngày đêm tĩnh tịch, thướng Giác Chiếu.

Chiếu soi tỏ rõ Chủ Nhân soi.

Trí Giác Thiền Sư vân:

Bồ tát tòng lai bất Ly Chân,

 菩 薩 從 來 不 離 真,

Tự gia muội Liễu, bất tương thân.

 自 家 昧 了 不 相 親 .

Nhược năng tĩnh toạ hồi quang chiếu,

 若 能 靜 坐 回 光 照,

Tiện kiến sinh tiền cựu chủ nhân.

 便 見 生 前 舊 主 人 .

Bồ tát từ xưa chẳng lìa Chân,

Tại mình mê muội chẳng thân gần,

Nếu hay tĩnh toạ, hồi quang chiếu

Liền thấy sinh tiền Cựu Chủ Nhân.

Tam Mao Chân Quân viết:

Linh Đài trạm trạm tự Băng hồ,

 靈 臺 湛 湛 似 冰 壺,

Chỉ hứa Nguyên Thần tại lý cư.

 只 許 元 神 在 里 居 .

Nhược hướng thử trung lưu nhất vật,

 若 向 此 中 留 一 物,

Khởi năng chứng Đạo hợp Thanh Hư?

 豈 能 証 道 合 清 虛 ?

Linh Đài trong vắt tựa Băng hồ,

Chỉ có Nguyên Thần được Trung Cư.

Nếu để vật chi vào trong đó,

Sẽ không chứng đạo, hợp Thanh Hư.

Thiên Nhiên Thiền Sư nói:

Tâm bản tuyệt trần hà dụng tẩy,

 心 本 絕 塵 何 用 洗,

Thân Trung vô bệnh khởi cầu y?

 身 中 無 病 豈 求 醫 .

Dục tri thị Phật, phi thân xứ,

 欲 知 是 佛 非 身 處,

Minh giám cao huyền, vị chiếu thời.

 明 鑒 高 玄 未 照 時 .

Tâm vốn không dơ, cần gì tắm,

Trong mình không bệnh, khỏi cầu Thày.

Mới biết thân ta chính là Phật,

Như Đài gương sáng chiếu đó đây.

Chủ Kính Đạo Nhân nói:

Vị phát chi tiền, Tâm thị Tính,

 未 發 之 前 心 是 性,

Dĩ phát chi hậu, Tính thị Tâm.

 已 發 之 後 性 是 心,

Tâm, Tính nguyên đầu, tham bất thấu,

 心 性 源 頭 參 不 透,

Không tòng vãng tích, phí sưu tầm.[8]

 空 從 往 跡 費 搜 尋 .

Tâm khi chưa phát, Tâm là Tính,

Khi đã phát rồi, Tính là Tâm.

Chỗ Tâm Tính khởi, suy chẳng thấu,

Dấu vết tìm chi, uổng sưu tầm.

Vô Tâm chân nhân nói:

Vọng niệm tài hưng, Thần tức thiên,

 妄 念 才 興 神 即 遷,

Thần thiên, lục tặc loạn tâm điền.

 神 遷 六 賊 亂 心 田 .

Tâm điền ký loạn, thân vô chủ,

 心 田 既 亂 身 無 主,

Lục đạo luân hồi tại mục tiền.

 六 道 輪 回 在 目 前 .

Vọng niệm dấy lên, Thần tự thiên,

Thần thiên, lục tặc loạn tâm điền.

Tâm Điền đã loạn, Thân vô chủ,

Sáu nẻo luân hồi thấy nhãn tiền.

Cao tăng Diệu Hư vân:

Tinh tinh nhất cá Chủ Nhân Ông,

 惺 惺 一 個 主 人 翁,

Tịch nhiên bất động tại Linh Cung.

 寂 然 不 動 在 靈 宮 .

Đãn đắc thử trung vô quải ngại,

 但 得 此 中 無 挂 礙,

Thiên Nhiên Bản Thể tự Hư Không.

 天 然 本 體 自 虛 空 .

Tỉnh tao một vị Chủ Nhân Ông,

Tịch Nhiên bất động tại Linh Cung.

Chỉ cốt Linh Cung không vướng mắc,

Thiên Nhiên Bản Thể hiện Hư Không.

Thái Ất Chân Nhân nói:

Nhất điểm viên minh đẳng Thái Hư,

 一 點 圓 明 等 太 虛,

Chỉ nhân niệm khởi kết thành khu.

 只 因 念 起 結 成 軀 .

Nhược năng phóng hạ hồi quang chiếu,

 若 能 放 下 回 光 照,

Y cựu thanh hư, nhất vật vô.

 依 舊 清 虛 一 物 無 .

Một điểm viên minh tựa Thái Hư,

Chỉ vì niệm khởi, kết thành khu.

Nếu biết bỏ Thân, hồi quang chiếu,

Sẽ thấy bên trong vẫn thanh hư.

Hoa Nghiêm kinh vân:

Hữu số, vô số nhất thiết kiếp,

 有 數 無 數 一 切 劫,

Bồ tát liễu tri tức nhất niệm.

 菩 薩 了 知 即 一 念 .

Vu thử thiện nhân bồ đề hạnh,

 于 此 善 人 菩 提 行,

Thường cần tu tập bất thoái chuyển.

 常 勤 修 習 不 退 轉 .

Nhất thiết kiếp nạn con người,

Đều do tạp niệm trong đời nảy sinh.

Bồ tát thấy được rõ rành,

Cho nên tu luyện Liên canh chẳng rời.

Hải Nguyệt Thiền Sư nói:

Lục cá (lục thức) môn đầu nhất cá quan,[9]

 六 個 門 頭 一 個 關,

Ngũ môn bất tất tiện già lan.

 五 門 不 必 便 遮 攔 .

Tòng tha thế sự phân phân loạn,

 從 他 世 事 紛 紛 亂,

Đường thượng gia tôn (tâm) trấn nhật an.

 堂 上 家 尊 鎮 日 安 .

Lục thức môn đầu phong toả một,

Ngũ quan bất tất phải cài then.

Chỉ do lục thức, nên đời loạn,

Trong nhà gia chủ vẫn bình an.

(Tu là già toả, là phong bế ý thức).

Thuỷ Am Thiền sư vân:

Bất khởi nhất niệm, Tu Di Sơn,[10]

 不 起 一 念 須 彌 山,

Đãi lập đương đầu, trước nhỡn khan.

 待 立 當 頭 著 眼 看 .

Niêm nhất lũ ti, khinh bán đảo,

 拈 一 縷 絲 輕 絆 倒,

Gia gia môn để thấu Trường An (Thánh giới).

 家 家 門 底 透 長 安 .

Nê Hoàn vắng lặng, không một niệm,

Để ngay trước mặt, mắt ngó xem.

Lòng vốn khinh thanh, không ô nhiễm,

Lòng không vọng niệm, đạt tiên ban.

Đại Vi Trí Tụng vân:

Chân Phật vô vi tại ngã thân,

 佛 無 為 在 我 身,

Tam hô, tam ứng, thái tinh tinh.

 三 呼 三 應 太 惺 惺 .

Nhược nhân bất ngộ nguyên do giả,

 人 不 悟 原 由 者,

Trần kiếp mang mang, nhận Thức Thần.

 塵 劫 茫 茫 認 識 神 .

Chân Phật vô vi, tại ngã thân.

Hễ gọi là thưa, rất ân cần.

Nếu người không biết sao như vậy,

Chỉ tại xưa nay, nhận Thức Thần.

Vô Cấu tử kệ vân:

Ngũ Uẩn[11] sơn đầu nhất đoạn không,

 蘊 山 頭 一 斷 空,

Đồng môn xuất nhập bất tương phùng.

 同 門 出 入 不 相 逢 .

Vô lượng kiếp lai, nhẫm ốc trú,

 量 劫 來 賃 屋 住,

Đáo đầu bất thức Chủ Nhân Ông (Bản Tâm).

 到 頭 不 識 主 人 翁 .

Đầu non Ngũ Uẩn một vừng không,

Vào ra cùng cửa, chẳng tương phùng,

Từ bao nhiêu kiếp, thuê nhà ở,

Tới nay, nào biết Chủ Nhân Ông.

Duy Khoan thiền sư vân:

Khuyến quân học Đạo mạc tham cầu,

 勸 君 學 道 莫 貪 求,

Vạn sự vô tâm Đạo hợp đầu.

 萬 事 無 心 道 合 頭 .

Vô Tâm thuỷ thể Vô Tâm Đạo,

 無 心 始 體 無 心 道,

Thể đắc vô tâm, Đạo dã hưu.

 得 無 心 道 也 休 .

Khuyên ai học Đạo chớ tham cầu,

Đem tâm vô sự hợp Đạo mầu.

Vô tâm hợp với Vô Tâm Đạo,

Hợp Đạo vô tâm, Đạo mới sâu.

Chí Công Hoà Thượng vân:

Đốn ngộ Tâm nguyên khai bảo tạng,

 悟 心 原 開 寶 藏,

n hiện Linh Tông, hiện Chân Tượng.

 現 靈 蹤 現 真 象 .

Độc hành, độc toạ, thường nguy nguy,

 行 獨 坐 常 巍 巍,

Bách ức hoá thân, vô số lượng.

 億 化 身 無 數 量 .

Tâm nguyên đốn ngộ, bảo tạng khai,

Linh Tông ẩn hiện xuất sinh ra.

Một mình đi đứng oai phong quá,

Bách ức hoá thân, vô số mà.[12]

Ngốc Đường Thiền Sư vân:

Ưng vô sở trụ sinh kỳ Tâm,

 無 所 住 生 其 心,

Khuếch triệt, viên minh xứ xứ chân.

 廓 徹 圓 明 處 處 真 .

Trực hạ đỉnh môn, khai Chính Nhãn,

 下 頂 門 開 正 眼,

Đại thiên sa giới hiện toàn thân.

 千 沙 界 現 全 身 .

Ưng vô sở trụ, sinh kỳ tâm,

Tâm sẽ viên minh, xứ xứ chân.

Ngay dưới Nê Hoàn khai Chính Nhãn,

Hằng hà sa số hiện toàn thân.[13]

Sách Chỉ Huyền Thiên viết:

Nhược đắc Tâm không, khổ tiện vô,

 得 心 空 苦 便 無,

Hữu hà Sinh Tử, hữu hà câu.

 何 生 死 有 何 拘 .

Nhất chiêu thoát hạ thai châu áo,

 朝 脫 下 胎 州 襖 ,

Tác cá tiêu diêu đại trượng phu.

 作 個 逍 遙 大 丈 夫 .

Tâm mà không tịch, khổ còn đâu,

Không còn sinh tử, không vướng mắc.

Một ngày nào đó, buông áo xác,

Sẽ sống tiêu diêu đời trượng phu.

Đoàn Chân Nhân vân:

Tâm nội quan tâm, mịch bản Tâm,

 內 觀 心 覓 本 心,

Tâm Tâm câu tuyệt, kiến Chân Tâm.

 心 俱 絕 見 真 心 .

Chân Tâm minh triệt thông tam giới,

 真 心 明 徹 通 三 界,

Ngoại đạo, thiên ma bất cảm xâm.

 外 道 天 魔 不 敢 侵 .

Quán chiếu nội tâm, tìm Bản Tâm,

Vọng Tâm mà biến, hiện Chân Tâm.

Chân Tâm rạng rỡ, thông Tam Giới,

Thiên ma ngoại đạo chẳng dám xâm.

Trương Viễn Tiêu nói:

Bất sinh, bất diệt bản lai chân,

 生 不 滅 本 來 真,

Vô giá dạ quang nhân bất thức.

 價 夜 光 人 不 識 .

Phàm phu hư độ kỷ thiên sinh,

 夫 虛 度 幾 千 生,

Tạp tại khoáng trung bất năng xuất.

 雜 在 礦 中 不 能 出 .

Chân Tâm nguyên thị vốn là Chân,

Như ngọc dạ quang, người không biết,

Phàm phu uổng sống qua nhiều kiếp,

Ngọc nằm trong khoáng, chẳng sao ra.

Tiết đạo Quang nói:

Diệu quyết ngũ thiên xưng Đạo Đức,

 訣 千 稱 道 德,

Chân thiên tam bách tụng Âm Phù.

 真 詮 三 百 頌 陰 符 .

Đãn đắc Tâm trung vô nhất tự,

 但 得 心 中 無 一 字,

Bất tham thiền diệc thị công phu.

 參 禪 亦 是 工 夫 .

Đạo Đức năm nghìn xưng Diệu Quyết,

Âm Phù tam bách ấy Chân Thiên.

Chĩ cần Tâm Lý không một chữ,

Chẳng cứ tham thiền, vẫn công phu.

Vô Cấu Tử nói:

Học Đạo tiên tu thức tự Tâm,

 道 先 須 識 自 心,

Tự Tâm thâm xứ, tối nan tầm.

 自 心 深 處 最 難 尋 .

Nhược hoàn tầm đáo vô tầm xứ,

 若 還 尋 到 無 尋 處,

Phương ngộ Phàm Tâm tức Phật Tâm.

 方 悟 凡 心 即 佛  心 .

Học đạo trước tiên phải biết tâm,

Tự Tâm thâm kín khó mà tầm.

Nếu mà tìm tới Vô tầm xứ,

Sẽ thấy Phàm Tâm giống Phật Tâm.

Tiêu Diêu Ông nói:

Tảo trừ Lục tặc tịnh tâm cơ,

 除 六 賊 淨 心 基,

Vinh nhục, bi hoan sự vật truy.

 辱 悲 歡 事 勿 追 .

Chuyên khí trí nhu khuy Nội Cảnh,

 氣 至 柔 窺 內 景

Tự nhiên thần thất sản Ma Ni.

 然 神 室 產 摩 尼 .

Trừ xong Lục tặc, thấy Tâm Cơ,

Vinh nhục, bi hoan dạ chẳng lo.

Dùng Thần ngự Khí qui Nội Cảnh,

Tự nhiên tâm địa có Ma Ni.

Lộng Phàm Tập nói:

Thiên cơ áo diệu nan khinh thổ,

 機 奧 妙 難 輕 吐,

Nhan Thị như ngu, Tăng Thị lỗ,

 氏 如 愚 曾 氏 魯 .

Vấn cừ hà xứ dụng công phu,

 渠 何 處 用 工 夫,

Chỉ tại bất văn, dữ bất đổ.

 在 不 聞 與 不 睹 .

Thiên cơ yếu diệu khó nên lời,

Nhan Hồi, Tăng Tử như si ngốc.

Công phu, hỏi họ dùng sao vậy?

Không nghe, không thấy, có thế thôi.

Trương Tam Phong nói:

Chân Tâm hạo hạo vô cùng cực,

 心 浩 浩 無 窮 極,

Vô hạn Thần Tiên tòng lý xuất.

 限 神 仙 從 里 出 .

Thế nhân đam chước tiểu hình hài,

 人 耽 著 小 形 骸,

Nhất khoả huyền châu, mê bất thức.

 一 顆 玄 珠 迷 不 識 .

Vô Cực Chân Tâm chẳng bến bờ,

Muôn vàn Thần Tháng phát sinh ra,

Thế nhân mê mẩn hình hài tạm,

Chân Thể ngọc châu lại bỏ lơ.

Giải Mê Ca nói:

Nhược yếu Chân Tinh vô lậu tiết,

 要 真 精 無 漏 泄,

Tu tịnh Linh Đài như lãng nguyệt.

 淨 靈 臺 如 朗 月 .

Linh Đài bất tịnh Thần bất thanh,

 臺 不 淨 神 不 清,

Trú dạ công phu hưu đoạn tuyệt.

 晝 夜 功 夫 休 斷 絕 .

Nếu muốn Chân Tinh không lậu Tiết,

Hãy giữ Linh Đài như minh nguyệt.

Linh Đài không sạch, Thần bất thanh,

Công phu Liên tục, đừng đoạn tuyệt.

Bắc Tháp Tộ nói:

Thiết kỵ tuỳ tha bất hội tha,

 忌 隨 他 不 會 他,

Đại tuỳ thử ngữ, bá thiên nhai.

 大 隨 此 語 播 天 涯 .

Chân tịnh Tính trung tài nhất niệm,

 淨 性 中 才 一 念,

Tảo thị thiên sai dữ vạn sai.

 早 是 千 差 與 萬 差 .

Tối kỵ tuỳ Tâm chẳng biết Tâm,

Chỉ một chữ Tuỳ, bao thế giới.

Chân tâm thanh tịnh mà khởi niệm,

Sẽ thấy nghìn sai với vạn lầm.

Hoành Xuyên Củng vân:

Duyên thuỷ vô duyên hội nghịch lưu,

 沿 水 無 緣 會 逆 流,

Kiến tha khổ thiết cố tương thù.

 他 苦 切 故 相 酬 .

Tây lai tổ ý, thực vô ý,

 西 來 祖 意 實 無 意,

Vọng niệm cuồng tâm, hiết tiện hưu.

 想 狂 心 歇 便 休 .

Dòng nước nương theo, bị ngược dòng

Thấy người khổ cực cũng thương tâm,

Đạt Ma, Trung thổ vô ý tới,

Vọng niệm, cuồng tâm hãy bỏ dần.

Thảo Đường Thiền Sư vân:

Đoạn tí mịch Tâm, Tâm bất đắc,

 臂 覓 心 心 不 得,

Mịch Tâm vô đắc, thuỷ an tâm,

 心 無 得 始 安 心,

An tâm hậu dạ, tuyết đình tế,

 心 後 夜 雪 庭 際,

Mãn mục diêu hoa, vô xứ tầm.

 滿 目 瑤 花 無 處 尋 .

Tuệ Khả cắt tay để tìm Tâm,

Tìm Tâm không được mới an tâm.

An tâm, trong một sân đầy tuyết,

Vọng niệm triệt tiêu khỏi phải tầm.

Phật Quốc Thiền Sư vân:

Tâm Tâm tức Phật, Phật Tâm Tâm,

 心 即 佛 佛 心 心,

Phật Phật Tâm Tâm, tức Phật Tâm.

 佛 心 心 即 佛 心 .

Tâm Phật ngộ lai, vô nhất vật,

 佛 悟 來 無 一 物,

Tướng quân chỉ khát vọng mai lâm.

 將 軍 止 渴 望 梅 林 .

Tâm Tâm là Phật, Phật là Tâm,

Phật Phật, Tâm Tâm tức Phật Tâm,

Tâm Phật hiểu rồi không gì cả,

Tướng quân đang khát chỉ mai lâm.

Hoa Nghiêm kinh kệ vân:

Nhược nhân dục thức Phật cảnh giới,

 人 欲 識 佛 境 界,

Đương tịnh kỳ ý như hư không.

 淨 其 意 如 虛 空 .

Viễn ly vọng tưởng cập chư vật,

 遠 離 妄 想 及 諸 物,

Lệnh tâm sở hướng giai vô ngại.

 心 所 向 皆 無 礙 .

Con người như muốn tìm cảnh Phật,

Phải tĩnh kỳ ý, như hư không.

Viễn Ly vọng tưởng, cùng vạn sự,

Cho tâm sở hướng được thong dong,

Bảo Tích Kinh kệ vân:

Chư Phật tòng tâm đắc giải thoát,

 佛 從 心 得 解 脫,

Tâm giả thanh tịnh danh vô cấu,

 者 清 淨 名 無 垢 .

Ngũ Đạo [14] tiên khiết bất thụ nhiễm,

 道 鮮 潔 不 受 染,

Hữu giải thử giả thành Đại Đạo.

 解 此 者 成 大 道 .

Chư Phật Tâm không, nên giải thoát,

Tâm mà thanh tịnh, là Vô Cấu.

Ngũ Đạo tịnh khiết không ô nhiễm,

Người hiểu biết ra thành Đại Đạo.[15]

Viên Ngộ Thiền Sư vân:

Phật phật Đạo đồng, đồng chí đạo,

 佛 道 同 同 至 道,

Tâm tâm chân khế, khế Chân Tâm.

 心 真 契 契 真 心 .

Khuếch nhiên thấu xuất Uy Âm ngoại,

 廓 然 透 出 威 音 外,

Địa cửu thiên trường hải cánh thâm.

 久 天 長 海 更 深 .

Phật Phật Đạo đồng, đồng chí đạo,

Tâm Tâm chân khế, khế Chân Tâm.

Chân tâm siêu xuất Uy Âm ngoại,

Địa cửu, Thiên trường biển càng thâm.

Thế Kỳ Thủ Toạ nói:

Chư Pháp không, cố ngã tâm không,

 法 空 故 我 心 空,

Ngã Tâm không, cố chư pháp đồng.

 心 空 故 諸 法 同 .

Chư Pháp, ngã Tâm vô biệt thể,

 法 我 心 無 別 體,

Chỉ tại nhi kim, nhất niệm trung.

 只 在 而 今 一 念 中 .

Chư Pháp không, nên tâm ta không,

Tâm ta không, nên với Chư Pháp đồng.

Chư pháp, Ngã Tâm, cùng một thể,

Một Thể vì đều: Chính Niệm chung.

Trương Chuyết Tú tài nói:

Quang minh tịch chiếu biến hà sa,

 明 寂 照 遍 河 沙,

Phàm thánh nguyên lai cộng nhất gia.

 凡 聖 元 來 共 一 家 .

Nhất niệm bất sinh, toàn thể hiện,

 念 不 生 全 體 現,

Lục căn tài động, bị vân già.

 六  根 才 動 被 雲 遮 .

Phật quang lặng chiếu khắp trần ai,

Phàm Thánh xưa nay, vốn không hai.

Một niệm chẳng sinh, toàn thể hiện,

Lục căn vừa động bị vân già.

Trung Phong Thiền Sư nói:

Tòng lai chí Đạo dữ Tâm thân,

 來 至 道 與 心 親,

Học đáo vô tâm Đạo tức chân.

 到 無 心 道 即 真 .

Tâm đạo hữu vô câu dẫn tuyệt,

 道 有 無 俱 泯 絕,

Đại thiên thế giới nhất nhàn thân.

 大 千 世 界 一 閑 身 .

Xưa nay Chí Đạo với Tâm gần,

Học tới vô tâm Đạo mới chân.

Tâm Đạo hữu vô đều mất hết,

Đại Thiên thế giới một thân nhàn.

Trương Vô Mộng nói:

Tâm tại Linh Quan thâân hữu chủ,

 在 靈 關 身 有 主,

Khí qui Nguyên Hải thọ vô cùng.

 氣 歸 元  海 壽 無 窮 .

Tâm ở Linh Quan thân có chủ,

Khí về Nguyên Hải thọ vô cùng.

Bạch Sa tiên sinh thuyết:

Thiên hưu thiên xứ đắc,

 休 千 處 得,

Nhất niệm nhất sinh trì.

 一  念 一 生 持 .

Vọng niệm không sinh, thiên xứ đắc,

Suốt đời Chính Niệm phải tu trì.

Bành Hạc Lâm nói:

Thần Thất tức thị thử Linh Đài,

 神室 即 是 此 靈 臺,

Trung hữu trường sinh bất tử thai.

 中 有 長 生 不 死 胎 .

Linh Đài, Thần Thất vốn in nhau,

Trong có Kim Đơn, bất tử thai.

Vĩnh Minh Diên Thọ vân:

Hữu niệm tức Sinh Tử,

 念 即 生 死,

Vô niệm tức Niết Bàn.

 念 即 泥 洹 .

Có niệm là Sinh Tử,

Không niệm là Niết Bàn.

Hồ Kính Trai vân:

Vô sự thời bất giáo Tâm không,

 事 時 不 教 心 空,

Hữu sự thời bất giáo Tâm loạn.

 有 事 時 不 教 心 亂 .

Khi vô sự đừng để Tâm không,

Khi hữu sự đừng khiến tâm loạn.

Đạo Huyền Cư Sĩ vân:

Nhất xuất tiện thu lai, Tức qui tu phóng hạ.

 出 便 收 來,  即 歸 須 放 下 .

Nguyên Thần vừa xuất khiếu,

Lập tức phải thu hồi.

Đã về, phải phóng hạ,

Cho nó tĩnh định thôi.

La Niệm Am nói:

Vô dĩ vọng niệm tường kỳ Tâm,

 以 妄 念 戕 其 心,

Vô dĩ khách khí thương Nguyên Khí.

 以 客 氣 傷 元 氣 .

Đừng cho Vọng Niệm diệt Chân Tâm,

Đừng cho Khách Khí thương Nguyên Khí.

Sa Y Đạo Nhân nói:

Tâm nhược tại xoang tử lý.

 心 若 在 腔 子 里,

Niệm bất xuất Tổng trì môn.

 念 不 出 總 持 門

Tâm chớ ra ngoài  Xoang Tử Lý (Đan Điền),

Niệm không nên xuất Tổng Trì Môn (Đan Điền).

Bạch Lạc Thiên nói:

Tự tòng khổ học Không Môn pháp,

 從 苦 學 空 門 法,

Tiêu tận bình sinh chủng chủng Tâm.

 消 盡 平 生 種 子 心 .

Vất vả học theo Phật Pháp Môn,

Lục thức trong ngưới tiêu tận hết.

Tịnh Nghiệp Thiền Sư nói:

Động bất vong vu quan chiếu,

 不 忘 于 觀 照,

Tĩnh bất vong vu chỉ tức.

 靜 不 忘 于 止 息 .

Hành động không quên quán chiếu Tâm,

Nhàn tĩnh không quên ngưng chỉ tức (Ngừng thở) .

Thao Quang tập vân:

Tâm tại thị, niệm diệc tại thị,

 在 是 念  亦 在是,

Động như tư, tĩnh diệc như tư.

 如 斯 靜 亦 如 斯 .

Tâm ở đó, niệm cũng ở đó,

Động như đây, tĩnh cũng như đây

(Chỉ Không tịnh Bản Tâm).

Xung Diệu nói:

Thân bất động, nhi tâm tự an,

 不 動 而 心 自 安,

Tâm bất động, nhi thần tự thủ.

 心 不 動 而 神 自 守 .

Thân bất động, Tâm sẽ tự an,

Tâm bất động, Thần sẽ tự thủ.

Từ Vô Cực nói:

Tính tùng thiên xứ khắc tương khứ,

 從 偏 處 克 將 去,

Tâm tự phóng thời thu thập lai.

 心 自 方 時 收 拾 來 .

Tính từ Thiên vọng, thắng Bản Chân,

Tâm do tĩnh định, thu thập lại.

Phật Ấn vân:

Nhất niệm động thời giai thị hoả,

 念 動 時 皆 是 火,

Vạn duyên tịch xứ, tức sinh Xuân.

 緣 寂 處 即 生 春 .

Một niệm vừa sinh như lửa cháy.[16]

Vạn duyên khi lặng, sẽ sinh Xuân (Bản Tâm).

Đào Hoằng Cảnh nói:

Tu tâm yêu tác trường sinh khách,

 心 要 作 長 生  客,

Luyện Tính đương như Hoạt tử Nhân.

 煉 性 當 如 活 死 人 .

Tu Tâm cốt làm Khách Sống Lâu,

Luyện Tính phải như Kẻ Chết Rồi.

Vô Chước thiền sư nói:

Minh tức Minh Tâm không tịch,

 即 明 心 空 寂,

Kiến tức Kiến Tính vô sinh.

 即 見 性 無 生 .

Minh là Giữ được Tâm không tịch,

Kiến là thấy Tính tựa Hư Vô.

Hoa Nghiêm kinh vân:

Nhược năng đế quan tâm bất nhị,

 能 諦 觀 心 不 二,

Phương Kiến Tì Lô thanh tĩnh tâm.

 見 毗 盧 清 靜 心 .

Nếu nhìn rõ được Tâm Bất Nhị,

Sẽ thấy Tì Lô thanh Tĩnh Tâm.

Hoa Nghiêm kinh tụng vân:

Thuỷ tòng nhất niệm, chung thành kiếp,

 從 一 念 終 成 劫,

Tất y chúng sinh tâm tưởng sinh.

 悉 依 眾 生 心 想 生 .

Đầu là một niệm sau thành kiếp,

Luân hồi bất quá hư tưởng sinh.

Mã Đơn Dương nói:

Nhược năng thường thủ loan loan khiếu,

 能 常 守 彎 彎 竅,

Thận tự Linh minh, Khí tự sung.

 神 自 靈 明 氣 自 充 .

Nếu ai luôn giữ Linh Đài Huyệt,

Thần sẽ Linh minh, Khí sẽ đầy.

Khưu Trường Xuân nói:

Đương thời nhất cú sư biên đắc,

 時 一 句 師 邊 得,

Mặc mặc thuỳ Liêm tử tế khan.

 默 默 垂 帘 仔 細 看 .

Câu xưa nghe được bên thày,

Nay ngồi hư tĩnh suy ngay tận tường.

Tuệ Nhật Thiền Sư nói:

Nhất niệm chiếu Liễu, nhất niệm chi Bồ Đề dã,

 念 照 了 一 念 之 菩 提 也,

Nhất niệm yến tức, nhất niệm chi Niết Bàn dã.

 念 宴 息 一 念 之 涅 槃 也 .

Một niệm chiếu minh, là một niệm Bồ Đề giác ngộ,

Một niệm ngưng hưu, là một niệm Niết Bàn.

Những lời nói trên, đều dạy người thành Tiên, tác thánh, vào cửa Đạo Đức.

Xưa A Nan chỉ nghe lời Phật mà nhiều năm cũng không thành chính quả, sau biết tức tâm nội quan quán chiếu, mới  hay vạn vật vẫn vô sinh, vô diệt, vô hữu, vô vô, mà đắc thành chính quả.

Cái Tâm của kẻ phàm phu, suốt ngày phóng ngoại, càng xa càng xoay lưng lại với Thiên Chân. Chỉ có kẻ biết hồi quan quán chiếu, mới biết kiểm tình, nhiếp niệm.

Thu nhiếp được niệm mới an Tâm. An tâm, thần mới dưỡng. Thần dưỡng, Tính mới qui.

Nên Nguỵ Bá Dương nói: Kim lai qui Tính sơ, Nãi đắc xưng hoàn đơn.[17]

Ôi:

Luyện khoáng thành kim đắc bảo trân,

  礦 成 金 得 寶 珍,

Luyện Tình qui Tính hợp Thiên Chân.

 煉 情 歸 性 合 天 真 .

Tương phùng thử lý giao đàm giả,

  逢 此 理 交 談 者,

Thiên vạn nhân trung vô nhất nhân.

 千 萬 人 中 無 一 人 .

Luyện khoáng thành kim được bửu chân,

Luyện Tình qui Tính hợp Thiên Chân.

Gặp người đồng điệu mà bàn bạc,

Trăm vạn con người cũng khó tầm.


[1] Xem Trung Dung, chương I.

[2] Xem Trrung Dung, Chương I.

[3] Đạo Đức Kinh, chương 3.

[4] Luận Ngữ, XII, 1.

[5] Thiên Đạo, Nhân Đạo, A Tu La đạo (Thần), Địa Ngục Đạo, Ngạ Quỉ Đạo, Súc Sinh Đạo.

[6] Đất, nước, gió, lửa.

[7] Đạo Đức Kinh, ch. 63, 64. Kinh Thư, Thái Giáp hạ.

[8] Trung Dung chương I.

[9] Quan bế đệ lục thức tức ý thức, vì ý thức là đầu đảng ngũ tặc, là chủ soái của lục thức.

[10] Diệu Quang, Diệu Cao, Nê Hoàn Cung.

[11] Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức.

[12] Nhận thức được rằng trong ta có Phật tính, rồi lo tiêu trừ vọng niệm, sẽ đạt Phật quả.

[13] Bất kỳ lúc nào cũng lo tu dưỡng bản thân, sẽ hợp cùng Đại Thể vũ trụ, thấy mình là Tất Cả.

[14] Địa Ngục đạo, Ngạ quỉ đạo, Súc sinh đạo, Nhân đạo, Thiên Đạo.

[15] Chư Phật nhờ Tâm Không nên giải thoát, Tâm mà thanh tịnh là Vô Cấu, Ngũ Đạo nhờ Ngũ Quan [Nhãn, Thính, Xú, Vị, Xúc] thanh tịnh nên được giải thoát. Hiểu được sẽ thành Đại Đạo.

[16] Thiêu huỷ bản chân.

[17] Khi đã nhiếp tình, qui Tính được rồi, khi Thần Khí đã dung hợp rồi,  sẽ sinh hoàn đơn, hay Kim Đơn, Nội đơn.


1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16