TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ

» MỤC LỤC  |  NGUYÊN  |  HANH  |  LỢI  |  TRINH

HANH TẬP

1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16


PHÁP LUÂN TỰ CHUYỂN CÔNG PHU

Pháp môn của Tam Giáo tuy cùng đường nhưng khác vết, tuy chia ba, nhưng Lý là Một. Công phu này, nhà Phật gọi là Pháp Luân 法 輪,  Đạo gia gọi là Chu Thiên 周 天,  Đạo Nho gọi là Hành Đình 行 庭 .

Dịch Kinh viết: Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân. Vô cữu.

艮 其 背, 不 獲 其 身, 行 其 庭, 不 見 其 人. 無 咎 .

Cấn là ngừng lại sau lưng,

Dừng nơi chí thiện, quên thân, quên người.

Bản thân mà đã quên rồi,

Trong sân đi lại, quên người, lỗi chi.

Đi trong sân là Thiên hành kiện vậy. Trời đi mỗi ngày một vòng trời. Còn gì mạnh hơn? Thân ta cũng là một tiểu thiên địa, đi được một vòng chu thiên cũng là hành kiện vậy. Dịch kinh viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức 天 行 健, 君 子 以 自 強 不 息 .

Tượng rằng:

Trời cao mạnh mẽ xoay vần,

Nên người quân tử quyết tâm tự cường.

Trong Thân ta, thì trung tâm là Huỳnh Đình, là Thái Cực, còn trời đất thì vận chuyển bên ngoài, và qua lại vô cùng.

Quẻ Cấn viết: Thời chỉ tắc chỉ 時 止 則 止,  là Thái Cực định vị; Thời hành tắc hành 時 行 則 行 là chu thiên vận chuyển, Sao chẳng xem nơi Hệ Từ? Hệ từ viết: Nhật Nguyệt tương thôi, nhi minh sinh yên 日 月 相推 而 明 生 焉 .[1]

Mặt Trời cùng với mặt trăng,

Luân phiên đắp đổi, nên hằng sáng soi.

Lại viết: Hàn thử tương thôi nhi tuế thành yên. 寒 暑 相 推 而 歲 成 焉 .

Hàn ôn đắp đổi thường xuyên,

Cho nên năm tháng miên triền sinh ra.

Lại viết: Khuất thân tương cảm nhi lợi sinh yên. 屈 伸 相 感 而 利 生 焉 .

Khuất thân, lai vãng thời thường,

Đôi bên cảm ứng mở đường lợi sinh.

Đó là Tâm Pháp của hành đình 行 庭  vậy.

Thế nào là Lập Cực 立 極  ?

Như trên đã nói: Lập Cực là đem chữ Nhân   để vào chính giữa, chỗ đó gọi là Trung Thổ, để mà Đôn Dưỡng nó, và sẽ thấy Chân Cơ Tiêu tức của nó là Tính Mệnh hồn dung ở trong.

Một co, một duỗi, một đi, một lại, giống như mặt Trời, mặt Trăng sáng soi; như Nóng Lạnh vận hành, theo đúng sự vận hành tự nhiên của trời đất. Thế là trong ta cũng có một Đất Trời vậy.

Lúc mới đầu thì Có Ý, sau sẽ Vô Ý.

Thoạt đầu dùng Ý dẫn Khí, từ nhỏ đến lớn,  miệng niệm khẩu quyết 12 chữ: Bạch Hổ ẩn vu Đông Phương, Thanh Long tiềm vu Tây Phương 白 虎 隱于 東 方, 青 龍 潛 于 西 方 . Mỗi câu như vậy là dẫn Khí đi một vòng Chu Thiên, đến 36 lần sẽ nghỉ.

Rồi đến thâu hồi, từ ngoài quay vào trong, từ lớn đến nhỏ, cũng dùng khẩu quyết: Thanh Long tiềm vu Tây Phương, Bạch hổ ẩn vu Đông Phương 青 龍 潛 于 西 方, 白 虎 隱 于 東 方 . Cũng tính đủ 36 lần, trở về tới Thái Cực thì ngừng. Như vậy là đủ một chu thiên vậy. Lâu ngày sẽ không phải chú ý tới nưã. Tự nhiên Tuyền Ky sẽ không ngừng, và Pháp Luân sẽ tự chuyển .

Toàn Dương Tử nói: Dữ nhật nguyệt nhi chu hồi, Đồng Thiên Hà chi luân chuyển, Luân Chuyển vô cùng, Thọ Mệnh vô cùng. 與 日 月  而 周 回, 同 天 河 而 輪 轉, 輪 轉 無 , 壽 命 無 窮 .

Vãng lai cùng Nhật Nguyệt,

Xoay chuyển với Thiên Hà.

Luân chuyển vô cùng,

Thọ mệnh vô cùng.

Minh Đạo Tập nói:

An nhàn tự đắc Trường sinh đạo,

 安 閑 自 得 長 生 道,

Trú dạ vô thanh chuyển Pháp Luân.

 晝 夜 無 聲 轉 法 輪 .

An nhàn sẽ được Trường sinh Đạo,

Ngày đêm chuyển Pháp chẳng tăm hơi.

Hàn Tiêu Diêu nói:

Pháp Luân yếu chuyển thường tu chuyển,

 法 輪 要 轉 常 須 轉,

Chỉ tại thân trung nhân bất kiến.

 只 在 身 中 仁 不 見 .

Giá động chi thời tự Nhật luân,

 駕 動 之 時 似  日 輪 .

Nhật luân hướng ngã thân trung chuyển.

 日 輪 向  我 身 中 轉 .

Pháp Luân cần chuyển thường đã chuyển,

Chuyển vận trong thân, người chẳng thấy,

Khi nó  chuyển vần tựa mặt Trời,

Mặt Trời chuyển vận cũng trong ta.

Lại nói:

Pháp luân chuyển đắc mạc đình lưu,

 法 輪 轉 得 莫 停 留,

Niệm niêm bất ly, luân tự chuyển.

 念 念 不 離 輪 自 轉 .

Pháp luân chuyển vận chẳng lưu đình,

Chẳng lìa thân ý, nó xoay quanh.

Trong lúc vận chuyển phơi phới như vân vụ phủ trùm bốn bên, táp nhiên như gió mưa cùng đến, hoảng nhiên như vừa tỉnh mộng lúc ban ngày, thư thái như bệnh lâu ngày vưà mới thoát. Tinh thần mờ hiệp, như nam nữ lúc giao hoan, thịt xương gắn bó, y như vừa tắm rửa xong.

Dịch Kinh viết: Hoàng trung thông lý, Chính vị cư thể, Mỹ tại kỳ trung nhi sướng ư tứ chi. 黃 中 通 理, 正 位 居 體, 美 在 其 中 而 暢 於 四 肢 .

Hiền nhân thông Lý Trung Hoàng,

Tìm nơi Chính Vị mà an thân mình.

Đẹp từ tâm khảm xuất sinh,

Làm cho cơ thể xương vinh mỹ miều,

Phát ra sự nghiệp cao siêu,

Thế là đẹp đẽ đến điều còn chi.[2]

Lời đó thật đáng tin.

Lời bàn của Dịch giả:

Chương này là một chương khó hiểu. Chúng ta nắm được ý chính là phải giữ cho huyết mạch lưu thông thì mới tránh được bệnh tật. Còn như vận chuyển thế nào, thì lời dạy thật mơ hồ. Có lẽ phải vận chuyển theo hình vẽ.

____________________

[1] Hệ Từ  hạ, ch. V, B.

[2] Văn Ngôn hào Lục Ngũ quẻ Khôn.


1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16