TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ

» MỤC LỤC  |  NGUYÊN  |  HANH  |  LỢI  |  TRINH

HANH TẬP

1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16


ĐỆ TAM TIẾT KHẨU QUYẾT

TRẬP TÀNG KHÍ HUYỆT, CHÚNG DIỆU QUI CĂN

第 三 節 口 訣 : 蟄 藏 氣 穴 , 眾 妙 歸 根

Tiết trước nói về Hấp Tụ, nói về công phu Thủ Trung Bão Nhất, tiết này nói về Trập tàng, tức là nói về khẩu quyết Thâm Căn Cố Đế.

Hấp Tụ, Trập Tàng là hai phương diện Trong Ngoài. Không có Hấp tụ, thì không thể phát tán, Không Trập tàng cũng không thể phát sinh, hai tiết này nhất quán làm một, không thể chia lìa nhau.

Khẩu quyết chỉ là đem một điểm Dương Thần nơi Tổ Khiếu xuống tàng nạp vào Khí Huyệt, gọi là Tống qui Thổ Phủ lao phong cố 送 歸 土 釜 牢 封 固 (đem về Tổ Phủ giam cho kỹ), hay còn gọi là Ngưng Thần nhập Khí Huyệt 凝 神 入 氣 穴.

Huyệt này trong ngoài có hai khiếu. Ngoại khiếu như là quả đào, quả hạnh. Nội Khiếu như là Nhân trong quả. Cổ Nhân có nói:

Hỗn độn sinh tiền, hỗn độn viên,

 混 沌 生 前 混 沌 圓,

Cá trung tiêu tức, bất dung truyền.

 個 中 消 息 不 容 傳.

Phách khai khiếu nội, khiếu trung khiếu,

 劈 開 竅 內 竅 中 竅,

Đạp phá Thiên Trung, Thiên ngoại Thiên.

 踏 破 天 中 天 外 天.

Khiếu này vốn có tự xa xưa,

Tin tức bên trong chẳng lộ ra.

Mở rộng khiếu này vào trong tận,

Bên trong sẽ thấy đất trời xa.

Cái khiếu trong đây, Phật tôn xưng là Không bất Không, là Như Lai Tạng, Lão xưng là Huyền hựu Huyền, Chúng Diệu Môn. Bạch Hải Thiềm cũng nói:

Vô để viết Thác,                        無 底 曰 橐

Hữu khổng viết Thược.            有 孔 曰 龠

Trung gian nhất khiếu,             中 間 一 竅

Vô nhân mô trướùc.                 無 人 摸 著

Không đáy là Thác,

Có lỗ là Thược.

Trong có một khiếu,

Không ai mò được.

Tất cả nói về cái Khiếu trong Khiếu này.

Khiếu này là nguồn Âm Dương, là nhà của Thần Khí, là căn của Thai Tức, là Tổ của Hô Hấp.

Thai là phủ để tàng Thần, Tức là nguồn của Hoá Thai, Thai sinh Tức (hơi thở), Tức nương Thai mà trụ.

Cái khiếu này chính là cơ sở của Thần tiên dùng làm nơi Trừơng Thai, Trụ Tức.

Trời Đất tuy lớn cũng chỉ như một cái thai. Nhật Nguyệt vãng lai, Đẩu Bính tuyền chuyển, chính là Chân Tức vậy. Sao chẳng xem kinh sách của Tam Giáo?

Dịch kinh viết: Thành Tính tồn tồn, đạo nghĩa chi môn 成 性 存 存 道 義 之 門.[1]

Tính Trời cố giữ chính trung,

Mở đường Đạo Nghĩa, dặm chừng vân du.

Đạo Đức Kinh viết: Huyền chi hựu huyền, Chúng diệu chi môn 玄 之 又 玄 眾 妙 之 門.[2]

Huyền Linh khôn xiết, huyền vi khôn lường,

Ấy là Chúng Diệu chi môn,

Cửa Thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi.

Di Giáo Kinh nhà Phật viết: Chế chi nhất xứ, vô sự bất biện 制 之 一 處 無 事 不 辨 (Tâm chế biện mọi sự, Mọi sự sẽ nên công).

Tất cả đều chỉ về cái cơ hô hấp của các bậc Chân Nhân. Nhưng cơ hô hấp của Chân Nhân là ở chỗ nào?

Xưa ta nghe Thầy nói: Dấu Chân Tinh trong Phủ yểu minh. Kết Thai Tức trong Đơn Nguyên Cung. Trên Đỏ, dưới Đen. Tả Xanh, Hữu Bạch. Trung ương là Huỳnh Đình. Đó chính là Chân Nhân Hô Hấp chi xứ.[3] Nó nằm sau Rốn, trước Thận, dưới Huỳnh Đình, trên Quan Nguyên.

Tức như Huỳnh Đình Kinh viết:

Thượng hữu Huỳnh Đình, hạ Quan Nguyên,

Hậu hữu U Khuyết, tiền Mệnh Môn.[4]

上 有 黃 庭 下 關 元, 後 有 幽 闕 前 命 門.

Đó là như vậy.[5]

Liêu Thiềm Huy viết:

Tiền đối tễ môn, hậu đối thận,

 前 對 臍 輪 後 對 腎,

Trung gian hữu cá chân Kim Đỉnh.

 中 間 有 個 真 金 鼎.

Phía trước là Rốn, phía sau Thận,

Trung gian sẽ có Chân Kim Đỉnh.

Khi đã biết được nơi đó, sẽ an Thần nơi Khiếu đó. Như rùa ẩn mình, như rắn đi núp, như trai ngậm ngọc, như cóc nhịn thở, miên miên, liên tục, hết sức tự nhiên, như không xen vào, tưởng có mà không có, tưởng không mà không không. Thu dẫn đến làng Vô hà Hữu, vận tàng đến chốn Hạp Tịch xứ.

Sau đó ít lâu, hô hấp sẽ hòa hài, Thần Khí sẽ ôm nhau, kết thành Đơn Mẫu, ở tại Đơn Điền. Ngoài sẽ cảm chiêu được Thiên Địa Linh Dương chính khí, trong sẽ cầm chế được anh hoa của Diên Hống trong người.

Nếu Bắc thần đã cư kỳ sở, thì chúng tinh sẽ chầu về.[6] Lâu dần, Thần Khí sẽ qui căn, Tính Mệnh sẽ hợp nhất, và đại dược đã thai dựng bên trong.

Nhưng ngưng Thần, điều Tức đều có khẩu quyết, nếu không, sợ Tư Lự chi Thần sẽ giao nhầm với Khí Hô hấp, mà kết thành Ảo Đơn, phản hại Dược Vật. Cho nên Tiên Ông nói:

Điều tức yêu điều Chân Tức Tức,

 調 息 要 調 真 息 息,

Luyện Thần tu luyện bất Thần Thần.

 煉 神 須 煉 不 神 神.

Điều tức phải điều Chân Tức Tức,

Luyện Thần phải luyện Bất Thần Thần.

Hoàng Đế Âm Phù Kinh viết:

Nhân tri kỳ Thần chi Thần,

 人 知 其 神 之 神,

Bất tri Bất Thần chi sở dĩ Thần.

 不 知 不 神 之 所 以 神.

Bất Thần là Tính. Vì Tính là Căn của Thần. Thần gốc nơi Tính, Tính là Thần chưa sinh. Thần mà trong sáng, hư Linh bất muội là Chân Tính vậy

Tiên Cô (Đại Đạo ca) viết:

Ngã vị chư quân thuyết đoan đích,

 我 為 諸 君 說 端 的,

Mệnh Đế tòng lai tại Chân Tức.

 命 蒂 從 來 在 真 息.

Ta vì chư quân nói đầu đuôi,

Gốc gác Mệnh kia là Chân Tức.

Chân Tức là Mệnh. Vì Mệnh là gốc của Khí, Khí gốc nơi Mệnh. Mệnh là Khí chưa sinh. Nhân uân trong Khí, không hề ngừng nghỉ, là Chân Mệnh vậy.[7]

Cái Thần không phải Thần ấy, với cái Chân Tức chi Tức, hai cái đó chính là Chân Phu Thê, Chân Âm Dương, Chân Long Hổ, Chân Tính           Mệnh, nữu kết thành một vật, dung hợp ở một nơi, đả thành nhất phiến, đem về đoàn luyện tại một lò, hay gọi là Ngưu Nữ tương phùng, Huyền Tẫn tương hợp, Ô Thố đồng huyệt, Nhật Nguyệt đồng cung, Hồn Phách tương đầu, Kim Hỏa Hồn Dung. Tóm lại, chỉ là phép Ngưng Thần hợp Khí mà thôi.

Chỉ vì Thần không ly Khí, Khí không ly Thần, Thần Khí trong thân ta kết hợp, thì Tính Mệnh trong ta sẽ thấy vậy. Tính không ly Mệnh, Mệnh không ly Tính. Tính Mệnh trong thân ta mà hợp, thì cái Vị Thủy Tính chi Thính và cái Vị Thủy Mệnh chi Mệnh đã hiện ra.

Thôi Công (Nhập Dược Kính) viết: Thị Tính Mệnh, phi Thần Khí. Quyền nhi ngôn chi tắc nhị, Thật nhi ngôn chi tắc nhất 是 性 命 非 神 氣 權 而 言 之
則 二 實 而 言 之 則 一 (Tính Mệnh hay Thần Khí tưởng là hai, nhưng kỳ thật là một).

Thần Khí đã không phải nhị vật, thì Tính Mệnh cũng phải song tu. Nhưng tôn chỉ của phép Song Tu, từ lâu đã thất truyền. Hai phái Huyền (Đạo gia), Thiền (Phật gia) lại còn tranh nhau cao thấp.

Lưu Hải Thiềm nói:

Chân cá Phật pháp tiện thị Đạo,

 真 個 佛 法 便 是 道,

Nhất cá hài nhi, lưỡng cá bão.

 一 個 孩 兒 兩 個 抱.

Phật pháp chân thuyên chính là Đạo,

Y như một trẻ có hai áo.

Thanh Hoà Ông viết:

Tính Mệnh song tu giáo ngoại truyền,

 性 命 雙 修 教 外 傳,

Kỳ trung huyền diệu, diệu nhi huyền.

 其 中 玄 妙 妙 兒 玄.

Thốc tương Nguyên Thuỷ qui Vô Thủy,

 簇 將 元 始 歸 無 始,

Nghịch chuyển Tiên Thiên tác Hậu Thiên.

 逆 轉 先 天 作 後 天.

Tính Mệnh Song Tu khó mà truyền,

Thật là huyền diệu, lại diệu huyền.

Quyết đem Nguyên Thủy về Vô Thủy,

Nghịch chuyển Tiên Thiên hoá Hậu Thiên.

Đầu mối này áo diệu, không Thầy không hiểu, Khẩu quyết lại huyền vi, xin trình bày ra sau đây. Và đem lời chư tiên ấn chứng để nói ra, để những người sơ cơ hiểu được mà vào Đạo.

Chú: Bạch Ngọc Thiềm nói:

Tích nhật ngộ sư thân khẩu quyết,

 昔 日 遇 師 親 口 訣,

Chỉ yếu ngưng Thần nhập khí huyệt.

 只 要 凝 神 入 氣 穴.

Ngày trước gặp Thầy truyền Khẩu Quyết,

Muốn nhập Khí Huyệt phải ngưng Thần.

Khí huyệt là Nội Khiếu. Đem Thần Khí giấu vào nơi đó. Dùng Tâm không không của Như Lai, hợp với hơi thở sâu sâu của Chân Nhân, thì Tâm Tức sẽ tương y, tức đều và Tâm tịnh, đem một điểm Chân Tâm giấu vào trong Khí, như vậy là phép Ngưng Thần nhập khí huyệt vậy.

Thần đã ngưng định nơi Khí Huyệt, thì phải thường Hồi Quang Nội Chiếu, chiếu cố không rời, thì Chân Khí tự nhiên sẽ vần xoay, Chân tức sẽ lên lên, xuống xuống, Thủy, Hoả, Mộc, Kim sẽ tự nhiên tiến thoái vậy.

Lời ngạn ngữ của Tiên xưa nói: Dục đắc trường sinh, tiên tu cửu thị 欲 得 長 生 先 須 久 視 (Muốn được trường sinh, trước phải cửu thị).

Nếu nhìn lâu vào Thượng Đan Điền, thì Thần sẽ trường sinh, nếu nhìn lâu vào Trung Đan Điền thì Khí sẽ trường sinh; Nếu nhìn lâu vào Hạ Đan Điền thì Hình sẽ trường sinh.

Kìa nhật Nguyệt chiếu soi giữa khung trời, trai ốc hấp thụ mà có châu, ngoan thạch tàng chi mà có ngọc; huống chi Con Người, trong thân sẵn có nhật nguyệt, sao không biết hồi quang nội chiếu, để kết thành trân châu, mỹ ngọc hay sao?

Vả Thần là lửa, Khí là nước; nước nhiều thì lửa tắt, lửa nhiều thì nước cạn. Một người trung niên, đa số là Nước không thắng Lửa, chính vì vậy mà Mệnh phải sớm tiếp, dầu phải sớm thêm.

Phép Thiêm Du đã chép nơi cuối bài: Cứu Hộ Mệnh Bảo trên đây, nay lại chép lại, để làm tỏ rõ ra cái phép Thiên Nhân Nhất Khí.

Trong khoảng Trời Người, chỉ có một khí đóng, mở, quan thuộc với nhau, chứ không phải có hai, Khi ta hít vào, thì thiên địa chi khí từ đó phát tán, khi ta thở ra, thì thiên địa chi khí từ đó thu tụ. Cái vi diệu của trời đất chính là cái cảm thông của một khí vậy.

Trời đất có thể trường cửu, chính vì trong có Hô Hấp, con người mà bắt chước được trời đất mà có hô hấp bên trong, thì sẽ có thể trường cửu như Trời Đất vậy.

Tào Tiên Cô nói:

Nguyên Hòa nội vận, tức thành chân,[8]

 元 和 內 運 即 成 真,

Hô hấp ngoại thi, chung vị liễu.

 呼 吸 外 施 終 未 了.

Biết Thở bên trong sẽ thành tiên,

Hô hấp bên ngoài chẳng đến đâu

Cái đó là Nội Hô Hấp.[9]

Tiêu Liễu Chân viết:

Lão Tử minh khai Chúng Diệu Môn,

 老 子 明 開 眾 妙 門,

Nhất khai, nhất hạp ứng Kiền Khôn.

 一 開 一 闔 應 乾 坤.

Quả vu võng tượng vô hình trú,

 果 無 罔 象 無 形 住

Hữu cá trường sinh bất tử côn.

 有 個 長 生 不 死 根.

Lão Tử chỉ bày Chúng Diệu Môn,

Mở ra, đóng lại, ứng Kiền khôn

Quả thật từ trong Vô Hình Xứ,

Đã có Trường Sinh Bất Tử Côn.

Cái đó chỉ Nội Hô Hấp vậy.

Trương Bình Thúc viết:

Huyền Tẫn chi môn thế hãn tri,

 玄 牝 之 門 世 罕 知,

Hưu tương khẩu tị vọng thi vi.

 休 將 口 鼻 妄 施 為.

Nhiêu quân thổ nạp kinh thiên tải,

 饒 君 吐 納 經 千 載,

Tranh đắc Kim Ô, nạch Thố Nhi.

 爭 得 金 烏 搦 兔 兒

Đan điền Huyền Tẫn ít ai hay,

Đừng đem mồm mũi để phô bày.

Dẫu Anh hít thở ngàn muôn kiếp,

Kim Ô, Ngọc Thố chẳng cùng quay.

Đó là chỉ nội Hô Hấp vậy.

Ngoại Hô Hấp là chuyện của Sắc Thân, tiếp tế Hậu Thiên để Dưỡng Hình; Nội Hô Hấp là chuyện của Pháp Thân, nó tài bồi Tiên Thiên để Dưỡng Cốc Thần.

Hơi thở Nội Hô Hấp là do Thiên Mệnh (Tiên Thiên) mà tới, không là đồng loại không thể tương thân. Cho nên thánh Nhân dùng phép Phục Khí (Phục Khí là Tụ Khí tại Đan Điền), đoạt khí Trung Hoà của trời đất, nghịch thượng Song Quan, trước đổi thàng sau, đạt tới Bản Căn (Đan Điền) khiến Mẫu Khí (Tiên Thiên Khí, Tổ Khí) hợp hội Tử Khí (Hậu Thiên Khí), hai khí Tử Mẫu quyến luyến nhau, và Tức Túc để qui căn, để thành mẹ Kim Đơn.

Người xưa nói:

Phục Khí bất phục Khí,            伏 氣 不 服 氣

Phục khí tu phục khí.                服 氣 須 伏 氣

Phục Khí bất Trường Sinh,      服 氣 不 長 生

Trường sinh tu phục khí.          長 生 須 服 氣

Tụ Khí không thực khí,

Thực Khí phải TụKhí.

Thực khí không trường sinh,

Trường sinh cần Tụ Khí,

Khí tích tụ ở dưới, không có lối để thoát, tự nhiên sẽ đi lên tới Tủy Hải (Óc); Khí tích tự ở trên không biềt đi đến đâu, tự nhiên sẽ đi xuống Khí Hải (Hạ Đan Điền). Nhị khí tiếp nhau, tuần hoàn vô đoan. Tiên thánh xưa nay sở dĩ được trường sinh, chính là nhờ vào phép Nghịch Dụng này.

Phép này từ đầu đến cuối đều không thể bỏ.

Trước hết là có công dụng Cứu Hộ Bổ Ích.

Thứ hai là công phu đưa Mậu tới Kỷ.[10]

Thứ ba là công phu Thiêm Du tiếp Mệnh.[11]

Thứ bốn là công phu Trợ Hỏa tải Kim.[12]

Thứ năm là tuy lửa cháy rực nhưng có công phu: Thủy Hỏa Ký Tế.[13]

Thứ sáu là Thai Thành và có công phu Mộc Dục.[14]

Thứ bày là Ôn Dưỡng và công phu Nhũ bộ. (Ôn Dưỡng là Ôn Dưỡng Nội Đơn. Nhũ bộ là Dương Thần vừa ra khỏi thóp, hãy còn yếu ớt, phải vào ra nhiều lần mới được thuần thục.

Thế là cứu anh nhi ra khỏi khổ hải. Lúc này là lúc đã đến bờ chẳng còn cần thuyền. Lúc ấy không còn cần Phục Khí nữa (Tụ Khí nữa).

Vả khi con người mới sinh, ít ai có được Tính Mệnh (Nguyên Thần, Nguyên Khí) trụ ngay vào Nê Hoàn Tổ Khiếu, nhưng lại trụ vào trong trời đất, trong tâm huyết nhục, rồi tán ra ngũ quan, tứ chi bá hài. Rồi Thần Khí càng ngày càng hao tán, và con người sẽ chết.

Cho nên Thần Tiên đem phép Qui Phục dạy người Phản Bản. Thế nào là Phản Bản?

Phản Bản là đem cái gì đã phát tán ra ngũ quan, tứ chi, bá hài, thu nhiếp về Tim.[15] Cái đó gọi là Hàm Dưỡng Bản Nguyên,

Sau lại đem chúng thu nạp về giữa Đất Trời. Cái đó gọi là An Thần Tổ Khiếu

Sau lại đem những gì đã hấp tụ được từ giữa Trời Đất đem Chân Nhân Hô Hấp Xứ. Cái đó gọi là Trập Tàng Khí Huyệt.

Ngày lại một ngày, Thần Ngưng Khí Tụ. Và con người sẽ sống. Cổ Tiên viết:

Ốc phá tu dung dị,[16]                 屋 破 修 容 易

Dược [17] khô sinh bất nan.       藥 枯 生 不 難

Đãn tri Qui Phục Pháp.              但 知 歸 伏 法

Kim Bảo tích như sơn.                金 寶 積 如 山

Nhà nát dễ dàng sửa,

Thuốc hết, có lại thường.

Cần biết Qui Phục Pháp,

Châu báu tựa núi non.

Lúc ấy, Kiền Thể sẽ bổ hoàn, Khí Số sẽ tiếp tục, sẽ chu toàn được cái gì cha mẹ đã cho, cái gì Trời Đất đã phú, và Chân Hống sẽ được tám lạng, Chân Diên sẽ vừa nửa cân, Khí như trẻ nít, Tâm như trẻ con, Âm Dương sẽ hợp nhất, bất tương phân.

Hơi thở ra sẽ nhè nhẹ, hơi thở vào sẽ dài dài, càng ngày càng sâu, càng ngày càng đều, càng ngày càng định. Lâu sau, hơi thở tự nhiên sẽ ngừng. Nội khí không ra, ngoại khí phản tiến. Thế là Thai tức qui nguyên, thế là Chúng Diệu Qui Căn vậy.

Lã Tri Thiên nói: Nhất Tức tạm đình, phương khả đoạt Thiên Địa tạo hóa 一 息 暫 停 方 可 奪 天 地 造
(Hơi thở mà ngưng, mới có thể đoạt Thiên Địa Tạo Hóa).

Trình Y Xuyên nói: Nhược phi khuy Tạo hóa chi cơ, an năng trường sinh? 若 非 窺 造 化 之 機 安 能 長 生
(Nếu không thấy được cơ vi áo diệu của Hoá Công, thì làm sao mà trường Sinh?).

Ông Bảo Quang nói: Nhất khắc chi Công Phu, khả đoạt Thiên Địa nhất niên chi Khí Số 一 刻 之 功 夫
可 奪 天 地 一 年 之 氣 數 (Biết công phu một khắc, là lấy được khí số một năm của Trời Đất).

Lời ba lão trượng trên chẳng lẽ sai sao?

Vì lúc Chân Tức vừa ngưng, thở vào không Tích Tụ, thở ra không Phân Tán, thể như Hư Không, tự nhiên nhập định. Khi đã nhập định, trong ngoài sẽ hợp nhất, động tĩnh sẽ không còn, tuyền ky dừng bánh, nhật nguyệt hợp bích.

Vạn Lý âm trầm xuân khí hợp,

 萬 里 陰 沉 春 氣 合,

Cửu tiêu thanh triệt lộ hoa ngưng.

 九 霄 清 徹 露 華 凝.

Thật là vi diệu thay! Đó là Chân Cảnh của Âm Dương Giao Cảm. Lúc ấy Nguyên Tinh sẽ trổ hoa, Kiền Kim sẽ lìa tạp khoáng vậy.

Lúc ấy Hỗn Độn sẽ trùng tân khai mở, nhập lại vào bào thai, sẽ nở ra hoa Vô Lậu, sẽ sinh ra quả Bồ Đề, Nếu không phải là những người vốn có Tiên Cốt, thì sẽ không hiểu được vi diệu của Đạo Lý này.

Lão Tử có khẩu quyết:

Hậu hữu mật hộ, tiền hữu môn,

 後 有 密 戶 前 有 門,

Xuất nhật nhập nguyệt hô hấp tồn.[18]

 出 日 入 月 呼 吸 存.

Đó cũng là khẩu quyết trong Huỳnh Đình Nội Cảnh.

Khẩu tựu Chân Nhân hô hấp xứ,

 口 就 真 人 呼 吸 處,

Phóng giáo Xá Nữ vãng lai phi.

 放 教 奼 女 往 來 飛.

Chỉ tại Chân Nhân hô hấp xứ,

Mới để Chân Thần được vãng lai.

Đó là khẩu quyết của Lý Trường Nguyên (Hỗn Nguyên Bảo Chương)

Nội giao Chân Khí tồn hô hấp,

 內 交 真 氣 存 呼 吸,

Tự nhiên Tạo Hóa phản đồng nhan.

 自 然 造 化 返 童 顏.

Thần Khí nội giao, ngừng hô hấp,

Tự nhiên trẻ lại tựa trẻ con.

Đó là khẩu quyết của Hứa Tinh Nhật (Túy Tư Tiên ca).

Tây phương Kim Mẫu tối kiên cương,

 西 方 金 母 最 堅 剛,

Tẩu nhập Nhâm gia Thủy Lý tàng.

 走 入 壬 家 水 里 藏.

Phế Khí nhập Đan Điền, Cùng với Tổ Khí giao.

Đó là khẩu quyết của Thạch Hạnh Lâm (Hoàn Nguyên Thiên).

Yếu tri Đại Đạo Hi Di lý,

 要 知 大 道 希 夷 理,

Thái Dương di tại Nguyệt minh trung.

 太 陽 移 在 月 明 中.

Nên biết Huyền Vi của Đại Đạo,

Nhật Nguyệt kề vai tại Trung Cung.

Đó là khẩu quyết của Tiết Tử Hiền (Phục Mệnh Thiên).

Tiên hiền minh lộ Đan Điền chỉ,

 先 賢 明 露 丹 田 旨,

Kỷ độ Linh Ô túc Quế Kha.

 幾 度 靈 烏 宿 桂 柯.

Hiền Thánh chỉ bày đan điền rõ,

Mấy độ Nguyên Thần trọ Quế Gia.

Đó là khẩu quyết của Lưu Hải Thiềm (Hoàn Kim Thiên).

Lưỡng ban Linh vật Thiên Nhiên hợp,

 兩 般 靈 物 天 然 合,

Ta tử thần cơ giá lý cầu.

 些 子 神 機 這 里 求.

Nguyên Thần, Tổ Khí thiên nhiên hợp,

Thiên cơ diệu lý chính là đây.

Đó là khẩu quyết của Trần Mặc Nhiên (Sùng Chính thiên).

Cổ Phật chi âm siêu động tĩnh,

 古 佛 之 音 超 動 靜,

Chân Nhân chi tức tự du ti.

 真 人 之 息 似 游 絲.

Cổ Phật âm thanh siêu động tĩnh,

Chân nhân thai tức nhẹ như không.

Đó là khẩu quyết của Thích Giám Nhiên (Thanh Liên Kinh).

Nhất tức tiệm tùy vô niệm yểu,

 一 息 漸 隨 無 念 窅,

Bán tỉnh vi giác hữu thân phù.

 半 醒 微 覺 有 身 浮.

Niệm lự không còn, thở cũng không,

Chập chờn, thân xác nhẹ như bông.

Đó là khẩu quyết của La Niệm Am (Thai tức thiên).

Xuất tức bất tùy vạn duyên,

 出 息 不 隨 萬 緣,

Nhập tức bất cư uẩn giới.

 入 息 不 居 蘊 界.

Xuất tức bất tùy thân ngoại sự,

Nhập tức không nương Ngũ Uẩn trung.

Đó là khẩu quyết của Bát Nhã tôn giả để đáp Đông Ấn Độ Quốc Vương.

Thủy Ngân thật mãn hồ lô lý,

 水 銀 實 滿 葫 蘆 里,

Phong cố kỳ khẩu trí thâm thủy.

 封 固 其 口 置 深 水.

Nguyên Thần, Tổ Khí tụ Đan Điền.

Cẩn thận ngậm miệng để gây rượu.

Đó là khẩu quyết của Ngạc Duyên Hoa (Khí huyệt đồ).

Vạn vật sinh giai tử,                  萬 物 皆 生 死

Nguyên Thần tử phục sinh.    元 神 死 復 生

Dĩ Thần qui Khí huyệt,             以 神 歸 氣 穴

Đơn Đạo tự nhiên thành.         丹 道 自 然 成

Vạn vật sinh đều chết,

Nguyên Thần chết lại sống.

Để Thần về Khí huyệt,

Đơn Đạo tự nhiên thành.

Đó là khẩu quyết của Thạch Hạnh Lâm.

Qui căn tự hữu Qui Căn Khiếu,

 歸 根 自 有 歸 根 竅,

Phục Mệnh ninh vô Phục Mệnh Quan,

 復 命 寧 無 復 命 關.

Đạp phá lưỡng trùng tiêu tức tử,

 踏 破 兩 重 消 息 子,

Siêu phàm nhập thánh thí như nhàn.

 超 凡 入 聖 譬 如 閑.

Qui Căn đã có Qui Căn Khiếu,

Phục Mệnh sao không Phục Mệnh Quan.

Nếu ai nhận rõ hai lẽ ấy,

Siêu phàm nhập thánh chẳng khó khăn.

Đó là khẩu quyết của Lý thanh Am.

Tâm tư diệu, ý tư huyền,

 心 思 妙 意 思 玄,

Tề gian Nguyên Khí kết thành Đan.

 臍 間 元 氣 結 成 丹.

Cốc Thần bất tử nhân thai tức,

 谷 神 不 死 因 胎 息,

Trường sinh môn hộ yếu miên miên.

 長 生 門 戶 要 綿 綿.

Tâm ý suy tư lẽ diệu huyền,

Nơi Rốn Nguyên Thần kết thành Đan.

Cốc Thần bất tử nhờ thai tức,

Cánh cửa Trường Sinh mở rộng luôn.

Đó là khẩu quyết trong Quần Tiên Châu Ngọc.

Chuyên Khí chí nhu thần cửu lưu,

 專 氣 致 柔 神 久 留,

Vãng lai chân tức tự du du.

 往 來 真 息 自 悠 悠.

Miên miên di lị qui nguyên mệnh,

 綿 綿 迤 邐 歸 元 命,

Bất cấp Linh Tuyền thường tự lưu.

 不 汲 靈 泉 常 自 流.

Dùng Thần ngự Khí, Thần cửu lưu,

Chân tức lại qua nhẹ như tơ.

Quanh co lui tới qui Tổ Khiếu,

Kết thành Thai Tức thường tự lưu.

Đó là khẩu quyết của Lưu Hải Thiềm.

Nhất Thân thượng hạ định Trung Ương,

 一 身 上 下 定 中 央,

Thận tiền tề hậu hiệu Huỳnh Phòng,

 腎 前 臍 後 號 黃 房.

Lưu Mậu tác môi tương tựu Kỷ,

 流 戊 作 媒 將 就 己,

Kim lai qui Tính hạ Tân Lang.

 金 來 歸 性 賀 新 郎.

Con người trên dưới định Trung Ương,

Rốn sau, Thận trước ấy Đan Điền.

Nguyên Thần, Nguyên Khí Đơn Điền tụ,

Thần Khí giao bôi, nhạc êm êm.

Đó là khẩu quyết của Thượng Dương tử.

Nhất điều trực lộ thiểu nhân tầm,

 一 條 直 路 少 人 尋,

Phong Hổ, Vân Long tự khiếu ngâm.

 風 虎 雲 龍 自 嘯 吟.

Tọa định cánh tri hành khí chủ,

 坐 定 更 知 行 氣 主,

Chân Nhân chi tức hựu thâm thâm.

 真 人 之 息 又 深 深.

Một con đường thẳng ít người tầm,

Nguyên Thần, Nguyên Khí giao phối thân.

Tu thiền nhập định cần Chính niệm.

Thai tức miên miên lại thâm thâm.

Đó là khẩu quyết của Trần Chí Hư.

Viên bất viên lai, phương bất phương,

 圓 不 圓 來 方 不 方,

Sâm la thiên địa ám bao tàng.

 森 羅 天 地 暗 包 藏.

Như kim nội ngoại lưỡng tầng bạch,

 如 今 內 外 兩 層 白,

Thể tại Trung Ương nhất điểm hoàng.

 體 在 中 央 一 點 黃.

Tròn chẳng ra tròn, vuông chằng vuông,

Trời đất bao la vốn thâu gồm.

Nội ngoại đôi bên hai tầng trắng,

Thể tại Trung Ương một điểm vàng.

Đó là khẩu quyết của Đại Thành Tập.

Tức điều tâm tịnh thủ Huỳnh Đình,

 息 調 心 淨 守 黃 庭,

Nhất bộ hồn toàn Viên Giác Kinh.

 一 部 渾 全 圓 覺 經,

Ngộ khước thử thân do thị ảo,

 悟 卻 此 身 猶 夢 幻,

Bồ đoàn tọa thượng yếu tinh tinh.

 蒲 團 坐 上 要 惺 惺.

Điều tức, tịnh tâm giữ Huỳnh Đình,

Khiến cho Linh Giác được mãn viên.

Biết được thân này là aỏ ảnh,

Bồ đoàn ngồi vững ấy tu thiền.

Đó là khẩu quyết của Bão Phác Tử.

Kinh doanh Ngân Ngạc ngộ Hư Vô,

 經 營 鄞 鄂 體 虛 無,

Tiện bả Nguyên Thần Lý diện cư,

 便 把 元 神 里 面 居.

Tức vãng, tức lai vô gián đoạn,

 息 往 息 來 無 間 斷.

Thánh thai thành tựu hợp Nguyên Sơ.[19]

 聖 胎 成 就 合 元 初.

Luyện chế Nội đơn, hiểu Hư Vô,

Nguyên Thần tự tại Đan Điền cư.

Tức vãng, Tức lai vô gián đoạn,

Kim đơn thành tựu hợp Nguyên Sơ.

Đó là khẩu quyết của Lý Hư Bạch.

Đế quan Tam Giáo thánh nhân thư,

 諦 觀 三 教 聖 人 書,

Tức chi nhất tự tối giản trực.

 息 之 一 家 最 簡 直.

Nhược vu Tức thượng tố công phu,

 若 于 息 上 做 功 夫,

Vi Phật vi Tiên bất lao lực,

 為 佛 為 仙 不 勞 力.

Tức duyên đạt bản THIỀN chi cơ.

 息 緣 達 本 禪 之 機.

Tức Tâm minh lý, NHO chi cực,

 息 心 明 理 儒 之 極,

Tức Khí ngưng Thần ĐẠO chi huyền.

 息 氣 凝 神 道 之 玄,

Tam Tức tương tu vô bất khắc.

 三 息 相 須 無 不 克.

Đọc kỹ tam giáo thánh nhân sách,

Chỉ một chữ Tức rất giản trực.

Nếu trên chữ Tức biết công phu,

Thành Phật, thành Tiên không phí sức.

Tức Duyên Đạt Bản là THIỀN cơ,

Tức Tâm Minh lý, là NHO tột.

Tức Khí Ngưng Thần là ĐẠO huyền.

Biết hợp Tam Gia chuyện sẽ thành.

Đó là khẩu quyết của Lý Đạo Thành (Trung Hòa Tập).

____________________________

[1] Hệ Từ Thượng, ch.VII, Tiết 2.

[2] Đạo Đức Kinh, ch. 1.

[3] Như vậy đó chính là Thái Cực.

[4] Huỳnh Đình Ngoại Cảnh, ch. 1.

[5] Trong Quyển Huỳnh Đình Nội Cảnh của tôi, nơi chương 2, 3, 4, 6, của phần Tham Luận, và nơi chương 2 của Chính Kinh, tôi đã dùng Huỳnh Đình Kinh của nhiều tác giả xưa để chứng minh Huỳnh Đình, hay Thái Cực phải ở trên đầu nơi Nê Hoàn Cung hay Não Thất Ba. (Nguyễn Văn Thọ chú)

[6] Luận Ngữ. Vi chính, chương 2, tiết 1.

[7] Như vậy, Tính là Thần, Mệnh là Khí.

[8] Nguyên Hòa = Nguyên Khí, Nguyên Thần hòa hợp.

[9] Xem Tiên Học Từ Điển, tr. 49. Thở bằng Mũi, mồm cho khí tuần hoàn vận chuyền, là Ngoại Hô Hấp, Dùng Đan Điền cho khí khai hợp lưu chuyển, đó là Kiền Khôn hạp Tịch, đó là nội Hô Hấp. Xem Tính Mệnh Khuê Chỉ, tr. 233.

[10] Giúp Nguyên Thần, Nguyên Khí hoà hợp.

[11] Thiêm Du tiếp Mệnh là đem Ngoại Khí và Tổ Khí cho tụ hợp sinh thành, bồi bổ Tiên Thiên Nhất Khí, cũng còn gọi là Thiêm Du Tục Mệnh.

[12] Dĩ Ý dẫn Khí.

[13] Nguyên Thần, Nguyên Khí tương dung, hòa hợp.

[14] Thai thành là Nguyên Thần, Nguyên Khí tự nhiên giao hợp. Mộc Dục là công trình Tẩy Tâm, Địch Lự.

[15] Thế là bỏ Ngũ Thức.

[16] Hình thể.

[17] Nguyên Thần, Nguyên Khí.

[18] Huỳnh Đình Ngoại cảnh Kinh.

[19] Khuê Chỉ viết: Mộc trung sinh Hồn, Kim trung sinh Phách, hồn phách ngưng nhiên, vị chi Ngân Ngạc.


1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16