TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ

» MỤC LỤC  |  NGUYÊN  |  HANH  |  LỢI  |  TRINH

HANH TẬP

1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16


HÀNH LẬP TỌA NGỌA TỨ THIỀN ĐỒ

HÀNH THIỀN ĐỒ

Hành diệc năng thiền, tọa diệc thiền,

 行 亦 能 禪 坐 亦 禪,

Thánh khả như tư, phàm bất nhiên.

 聖 可 如 斯 凡 不 然,

Hành cũng là Thiền, tọa cũng Thiền.

Thánh nhân như vậy, phàm chẳng vậy.

Bước đi của người hành thiền, không nên vội vã. Vội vã sẽ Động Túc, Thương Thai, phải đi chậm. Nếu đi chậm chạp, sẽ tâm bình, khí hòa, lúc đi, lúc lại, lúc đứng, lúc đi, mắt nhìn xuống dưới, tâm tàng nơi vực.

Vương Trùng Dương nói:

Lưỡng cước nhiệm tòng hành xứ khứ,

 兩 腳 任 從 行 處 去,

Nhất Linh thường dữ khí tương tùy.

 一 靈 常 與 氣 相 隨,

Hữu thời tứ đại huân huân túy,

 有 時 四 大 醺 醺 醉,

Tá vấn Thanh Thiên Ngã thị thùy?

 借 問 青 天 我 是 誰 ?

Đi đâu, hai chân cứ việc tiến,

Còn Thần với Khí sẽ tương tùy,

Con người ngây ngất như say rượu,

Dám hỏi Trời cao: Ta ấy ai?

Vạn pháp qui Nhất,                      萬 法 歸 一

Nhất qui hà xứ?                            一 歸 何 處

Hữu giả cá tại,                              有 者 個 在

Hựu nhẫm ma khứ.                       又 恁 麼 去

Vạn Pháp qui Nhất,

Nhất qui về đâu?

Có Đan Điền đây,

Há phải đi đâu?

Bạch Lạc Thiên (Bạch Cư Dị) vân:

Tâm bất trạch thời thích,                心 不 擇 時 適

Túc bất trạch địa an.                     足 不 擇 地 安

Cùng thông dữ viễn cận,               窮 通 與 遠 近

Nhất quán vô lưỡng đoan.             一 貫 無 兩 端

Tâm ý tùy thời đều an thích,

Hai chân, tùy xứ rất an nhiên,

Chẳng ngại cùng thông hay viễn cận,

Chỉ việc trừng tâm, trú đan điền.

Bảo Chí Công nói:

Nhược năng phóng hạ không vô vật,

 若 能 放 下 空 無 物,

Tiện thị Như Lai tạng Lý hành.

 便 是 如 來 藏 裡 行.

Trần ai nếu biết không vật nhiễm,

Thế là Đơn Đạo ắt đã thành.

Duy Ma Cật kinh thuyết: Cử túc hạ túc, giai tòng đạo trường lai 舉 足 下 足 皆 從 道 場 來 (Bước xuống, bước lên đều do kim đơn chỉ đạo).

Pháp Tạng Tập vân: Trú tâm, dạ tâm thường du pháp uyển khứ 晝 心 夜 心 常 遊 法 苑 去 (Tâm địa ngày đêm, chỉ lo Tu Thiền, nhập tĩnh).

TOẠ THIỀN ĐỒ

Tọa cửu vong sở tri,                      坐 久 忘 所 知

Hốt giác nguyệt tại địa.                  忽 覺 月 在 地

Lãnh lãnh thiên phong lai,              冷 冷 天 風 來

Mạch nhiên liệt can phế.                驀 然 列 肝 肺

Phủ thị nhất hoằng thủy,                俯 視 一 泓 水

Trừng trạm vô vật tế.                    澄 湛 無 物 蔽

Trung hữu tiêm lân du,                  中 有 纖 鱗 遊

Mặc mặc tự tương khế.                默 默 自 相 契

Ngồi lâu, biết quên hết,

Bỗng thấy trăng trên đất.

Lành lạnh gió trời thổi,

Lạnh buốt thấu gan phổi,

Cúi xuống, nước mênh mang,

Trong vắt không vật che.

Trong có cá tung tăng,

Cùng ta tâm đầu khế.

Đế Nghiêu chi an an,                     帝 堯 之 安 安

Văn Vương chi ung ung.                文 王 之 雝 雝

Khổng Tử chi thân thân,                孔 子 之 申 申

Trang Châu chi chỉ chỉ.                  莊 周 之 止 止

Đế Nghiêu dạy ôn hoà,

Văn Vương chủ hòa hài.

Khổng Tử xưng thư sướng.

Trang Châu muốn tĩnh chỉ.

Vô sự thử tĩnh tọa,                        無 事 此 靜 坐

Nhất nhật như lưỡng nhật,             一 日 如 兩 日

Nhược hoạt thất thập niên,            若 活 七 十 年

Cánh thị bách tứ thập.                   更 視 百 四 十

Tĩnh tọa là vô sự,

Một ngày tưởng chừng hai,

Nếu sống bảy mươi tuổi,

Sẽ như trăm bốn mươi.

Tĩnh tọa thiểu tư, quả dục,                 靜 坐 少 思 寡 欲

Minh tâm dưỡng khí, tồn Thần.          明 心 養 氣 存 神

Thử thị tu chân yếu quyết,                  此 是 修 真 要 訣

Học giả khả dĩ thư thân.                     學 者 可 以 書 紳

Tĩnh tọa: thiểu tư, quả dục,

Minh tâm, dưỡng khí, tồn Thần.

Đó là Tu Chân yếu quyết,

Mong học giả sẽ ghi lòng.

Tọa thiền không cần phải ngồi kiết già. Cứ ngồi như thường. Tuy ngồi như thường, nhưng giữ Khổng Môn Tâm Pháp, là vẫn khác người thường vậy.

Khổng Môn Tâm Pháp là chỉ cần giữ cho tâm thần ở vị trí chân chính nhất. Khiếu của tai mắt là cửa ngõ thân ta, Tâm Linh phương thốn là nhà của ta. Lập Mạng chi khiếu là buồng của ta.

Vì tâm con người là ở nơi phương thốn, cũng như người ở trong nhà, cho nên thanh sắc có cửa mà vào quấy động bên trong.

Còn bậc Chí Nhân thì tâm tàng ư lập Mệnh chi khiếu, cũng như con người ở tận trong buồng. Cho nên thanh sắc không biết nẻo vào, để mà dòm ngó trong đó.

Cho nên người khéo giữ Tâm, sẽ ở trong mật thất nên tai mắt như không nghe thấy gì.

Bao giờ ra ngoài nhà để xử sự thì tai mắt sẽ như là công cụ vậy. Nếu mà lúc ngồi không theo Khổng môn Tâm Pháp thì sẽ gọi là “Toạ trì”, là “PhóngTâm”. Đàn Kinh nói: Không khởi niệm là Tọa, Tự tính bất động gọi là Thiền.

LẬP THIỀN ĐỒ

Tùy thời, tùy xứ, thung dung, tự tại, tiêu diêu nơi lành Vô Hà Hữu (Đem khí nạp Đan Điền).

Không quan tâm gì đến ngoại cảnh, luôn sống trong Đại Tịch Diệt cảnh giới của Như Lai (Đem khí nạp Đan Điền).

Nếu gặp lúc trời quang mây tạnh, sẽ dùng phép Lập Thiền nạp khí, để tăng tuổi thọ. Phép đó là:

Cước cân trước địa, tị liêu thiên,

 腳 跟 著 地 鼻 遼 天,

Lưỡng thủ tương huyền, tại huyệt biên.

 兩 手 相 懸 在 穴 邊.

Nhất khí dẫn tòng thiên thượng giáng,

 一 氣 引 從 天 上 降,

Thôn thời mịch mịch, đáo Đan Điền.

 吞 時 汨 汨 到 丹 田.

Hai chân đứng vững, mũi hướng Trời,

Hai tay buông thõng xuống bên người.

Một Khí dẫn từ thinh không tới,

Từ từ nuốt xuống thấu Đan Điền.

Tâm vô sở trụ,                             心 無 所 住

Trạm nhiên Kiến Tính.                湛 然 見 性

Thể dụng như như,                     體 用 如 如

Khuếch nhiên vô thánh.             廓 然 無 聖

Tâm không vướng mắc,

Tự nhiên Kiến Tính.

Thần Khí tương giao,

Chẳng cầu trí huệ

Lập Thiền chủ yếu là mắt phải trinh, Tâm phải trong, biết quản thúc tình tự và ý niệm, đình chỉ ngôn ngữ, tư tưởng, hành động để dưỡng Thần.

Việc dĩ vãng chẳng nhớ đến, việc tương lai chẳng tưởng trông, việc hiện tại không để ý. Muốn có Bảo Thân Đạo Quyết, thì phải quả dục, an tĩnh, Liêm khiết. Muốn có Xuất Thế Thiền Công phải biết thu thần, ngưng thần.

Xưa Quảng Thành Tử nói với Hoàng Đế: Mắt không thấy gì, tai không nghe gì, tâm không nghĩ gì, dùng Nguyên Thần bảo hộ hình thể, sẽ được trường sinh. Ý cũng như vậy, và thật là thắm thiết vậy.
 

NGOẠ THIỀN ĐỒ

Giác ngộ thời, thiết bất khả vọng tưởng, tắc Tâm tiện hư minh.

覺 悟 時 切 不 可 妄 想 則 心 便 虛 明.

Khi giác ngộ, thời không thể vọng tưởng, như vậy Tâm sẽ hư minh.

Phấn nhiễu thời diệc chỉ như thử, thường tắc sự tự thuận toại.

紛 擾 時 亦 只 如 此 常 則 事 自 順 遂.

Khi gặp rắc rối, thì cứ làm việc như thường, chắc mọi sự sẽ thuận lợi.

Tảo thạch, phàn hương, tại ý miên,

 掃 石 樊 香 在 意 念,

Tỉnh lai thời, hữu khách đàm huyền.

 醒 來 時 有 客 談 玄.

Tùng phong, bất dụng bồ quì phiến,

 松 風 不 用 蒲 葵 扇,

Toạ đối thanh nhai, bách trượng tuyền.

 坐 對 青 崖 百 丈 泉.

Quét đá, đốt hương ngủ giấc say,

Tỉnh thời khách lại, nói chuyện huyền.

Gió tùng, không dụng Bồ Quì Phiến,

Ngồi trông vách đá, suối cao tuôn.

*

Cổ động u thâm tuyệt thế nhân,

 古 洞 幽 深 絕 世 人,

Thạch sàng, phong tế, bất sinh trần.

 石 床 風 細 不 生 塵.

Nhật trường nhất giác, Hi Hoàng thụy,

 日 長 一 覺 羲 皇 睡,

Hựu kiến phong đầu, thượng nguyệt luân.

 又 見 風 頭 上 月 輪.

Động vắng thâm u, chẳng tiếp ai,

Gió vờn giường đá, bụi chẳng lai.

Ngày dài, chợt tỉnh Hi Hoàng giấc,

Lại thấy đầu non, bóng nguyệt cài.

*

Khai tâm tông chi Tính,            開 心 宗 之 性

Thị bất động chi thể.                 示 不 動 之 體

Ngộ mộng giác chi chân,          悟 夢 覺 之 真

Nhập văn tư chi tịch.                入 聞 思 之 寂

Khai Thiền tông bản tính,

Thấy bản thể an nhiên.

Hiểu hai bề Mộng Tỉnh,

Vào cảnh giới Không Huyền.

*

Nhân gian bạch nhật, tỉnh do thụy,

 人 間 白 日 醒 猶 睡,

Lão Tử sơn trung thụy khước tỉnh.

 老 子 山 中 睡 卻 醒.

Tỉnh thụy lưỡng phi, toại lưỡng thị,

 醒 睡 兩 非 遂 兩 是,

Khê vân mịch mịch, thủy Linh Linh.

 溪 雲 漠 漠 水 泠 泠.

Với người Mộng Tỉnh cũng một vành,

Lão Tử trong rừng, ngủ vẫn tỉnh.

Mộng Tỉnh không này, không thế nọ,

Mờ mịt mây khe, nước long lanh.

*

Nguyên Thần dạ dạ túc Đan Điền,

 元 神 夜 夜 宿 丹 田,

Vân mãn Huỳnh Đình, Nguyệt mãn Thiên.

 雲 滿 黃 庭 月 滿 天.

Lưỡng cá uyên ương phù lục thủy,

 兩 個 鴛 鴦 浮 綠 水,

Thủy tâm nhất đóa Tử Kim Liên.

 水 心 一 朵 紫 金 蓮.

Nguyên Thần đêm tới, trú Đan Điền,

Huỳnh Đình mây tỏa, Nguyệt đầy trời.

Uyên ương một cặp, trôi nước biếc,

Trong lòng nước hiện Tử Kim Liên.

Người xưa có nói: Tu Đạo dễ, luyện Ma khó. Lời đó thật chí lý. Nhưng ma sắc dục, ma ăn uống thì dễ trị, còn ma ngủ thì khó luyện, nên Thiền gia có phép Trường Toạ Bất Ngọa.

Vì Chân Nguyên con người thường tẩu thất ban đêm, nên nếu ngủ nghỉ không cẩn thận, thì Tinh xuất phía dưới, Khí mất bên trên. Nguyên Thần không nơi nương tựa, cũng sẽ bỏ thân mà ra. Tam bảo trì tán, con người làm sao trường tồn.

Bậc chí nhân lúc ngủ sẽ thu thần về Đan Điền, hoà hợp với Khí. Thủy hỏa (Thần Khí) sẽ kiềm chế nhau, nên Thần sẽ không ra ngoài, và Khí sẽ an định.

Nay nói theo người thường, thì ban ngày thần gửi tại đôi mắt. Ban đêm khi đã ngủ say, thì Thần tàng tại Thận. Sáng ra, mà Thần nơi mắt không được sảng khoái là tại sao? Thưa vì ban đêm không an định, nên Thần đã không thanh sảng.

Nói theo Thiên Đạo, thì ban ngày, mặt trời nương vào Trời; Đến đêm thì như lặn xuống biển. Sáng ra, mà thiên khí không thanh sảng là tại làm sao? Thưa là vì ban đêm không an định, nên hải Khí đã không thanh sảng.

Chính vì vậy mà Thôi Công (Nhập Dược Kính) nói: Thuỷ hỏa giao, vĩnh bất lão 水 火 交 永 不 老 (Thần khí giao, mãi không già).

Ngày nay, người ta buồn ngủ thì ngủ, tự nhiên lại tỉnh dậy, thì cái gì làm chủ khiến người ta tỉnh dậy?

Vả Thần, Hồn mà hợp thì tỉnh; phách với thi thể mà hợp sẽ hôn mê. Hôn mê là gốc của sự chết. Tỉnh giác là triệu chứng sống. Hồn thuộc Dương, nên thích Thanh Hư, Phách thuộc Âm nên thích ruổi rong. Phách là Quỉ, Hồn là Thần.

Thần thì ngày tiếp vật, đêm thì dệt mộng, một giấc Huỳnh Lương chưa chín, một giấc Nam Kha chưa tỉnh, một đời phú quí, vinh nhục, trăm năm buồn vui, thích, sướng, chẳng qua chỉ như một giấc mộng, khiến người trong mộng đi chẳng biết về. Đi sai một bước, là sẽ đi vào con đường u ám vậy.

Do đó mà xem, con người không thể tự mình sống, mà sống như là ở trong mộng. Con người không thể tự mình chết, mà chết như là ở trong mộng. Đã không biết tại sao mình mộng, thì cũng không biết tại sao mình chết. Đã không biết tại sao mình tỉnh, thì cũng không biết tại sao mình sống. Trong mộng mà có tỉnh, thế là Chân Giác, trong chết mà có sống, đó là trong chết vẫn có Trường sinh. Thế là biết rằng Tỉnh là Sống, Mộng là Chết. Hiểu được hai điều đó là có thể Nhập Đạo vậy.

Con người lúc tỉnh, tai há chẳng nghe thấy sao? Mắt há chẳng nhìn thấy sao? Tay há chẳng cầm được sao? chân hà chẳng đi được sao? Tâm há chẳng biết hỉ nộ sao?

Còn khi con người ngủ, thì tai vẫn còn đó, sao không nghe được? Mắt vẫn còn đó, sao không thấy được? Tay vẫn còn đó, sao không cầm được? Chân vẫn còn đó, sao không đi được? Tim vẫn còn đó, sao không còn biết hỉ nộ?

Do đó suy ra, thì đây cũng là một thứ chết, tuy vẫn còn hữu tri, hữu giác vậy.

Vả sống chết liên quan đến ngày và đêm, đến Mộng và Tỉnh. Các bậc Chân Nhân lúc tỉnh không lo, lúc ngủ không mộng. Ngủ mà không mộng, thì phải thành đạo rồi mới được như vậy.

Sơ cơ chi sĩ, luyện tâm chưa thuần, nên mê nhiều, tỉnh ít. Mắt vừa nhắm, thì nguyên thần đã lìa xác, và Ma Ngủ đã nhập vào, làm cho hồn mộng phân phân, đâu cũng đến được. Chẳng những thần xuất, khí lìa, mà đỉnh lô cũng còn bị nghiêng ngả.

Nếu muốn chống lại Ma Ngủ, phài dùng phép Ngũ Long Bàn Thể. Khẩu quyết là:

Đông thủ nhi tẩm,                                 東 首 而 寢

Trắc thân nhi ngoạ.                              側 身 而 臥

Như Long chi bàn,                                如 龍 之 蟠

Như khuyển chi khúc.                          如 犬 之 曲

Nhất thủ trực ma tề phúc,                   一 手 直 摩 臍 腹

Nhất thủ khúc quăng chẩm đầu.       一 手 曲 肱 枕 頭

Nhất chỉ cước thân,                             一 只 腳 伸

Nhất chỉ cước súc.                               一 只 腳 縮

Ngủ đầu hướng Đông,

Người phải nằm nghiêng.

Như rồng cuộn khúc,

Như chó thu hình.

Một tay xoa rốn bụng,

Một tay co gối đầu.

Một chân duỗi ra,

Một chân co lại (Xem hình vẽ).

Tâm không ngủ trước, mắt phải ngủ trước.

Phải: Trí hư cực, Thủ tĩnh đốc 致 虛 極 守 靜 篤.

Thần Khí tự nhiên qui căn, hô hấp tự nhiên sẽ hàm dục. Không điều tức mà tức tự điều, không phục khí mà khí tự phục. Y như thế mà tu hành, thì thất tổ cũng được phúc.

Trần Hi Di đã lưu hình tại núi Hoa Sơn, Tưởng Thanh Hà đã thoát xác nơi vương thất. Đó là cách chỉ dẫn về phép ngoạ thiền. Nó khác với phương pháp đạo dẫn. Công phu mà thành tựu, thì tự nhiên Thần thức ngủ sẽ quấn quít nhau, lúc tỉnh sẽ biết giữ được tồn vong, sẽ thoát được điên đảo mộng tưởng. Như Tất Viên Công đã nói: Cổ chi chân nhân, kỳ giác dã vô ưu, kỳ tẩm dã vô mộng 古 之 真 人, 其 覺 也 無 憂, 其 寢 也 無 夢 (Chân nhân xưa, lúc tỉnh không lo, lúc ngủ không mộng) chính là vì vậy.

Nhưng tuy ngủ say, mà vẫn tỉnh táo (sáng suốt). Đến khi tỉnh lại, sẽ từ từ trở mình, tâm địa lặng không, lương tri tự tại, như cảnh giới Phật. Bạch Cư Dị (Bạch Lạc Thiên) đã nói: Tiền hậu tế đoạn xứ, nhất niệm vị sinh thời 前 後 際 斷 處 一 念 未 生 時 (đó là chính lúc một niệm chưa sinh). Trong lúc đó, mà giữ được cho lòng Đại Tĩnh, thì công hiệu sẽ vô tả.

Xưa Doãn sư có một đôi liễn:

Giác ngụ thời, thiết bất khả vọng tưởng, tắc tâm tiện hư minh

覺 寤 時 切 不 可 妄 想 則 心 便 虛 明 (Khi tỉnh thức, không được cho tâm nghĩ nhảm, tâm sẽ hư minh).

Phân nhiễu trung, diệc chỉ như xử thường, tắc sự tự thuận toại

 紛 擾 中 亦 只 如 處 常 則 事 自 順 遂 (Lúc bị phiền, phải xử sự như thường, mọi sự sẽ đâu ra đấy).

Lý Chân Nhân (Mãn Giang Hồng) có bài từ:

Hảo thụy gia phong,

 好 睡 家 風,

Biệt hữu cá thụy miên tam mị,

 別 有 個 睡 眠 三 寐.

Đãn thụy lý tâm thành,

 但 睡 里 心 誠,

Thụy trung trừng ý,

 睡 中 澄 意,

Thụy pháp ký năng tri chỉ thú,

 睡 法 既 能 知 旨 趣

Tiện vu thụy lý điều Thần Khí,

 便 于 睡 里 調 神 氣,

Giá thụy công tiêu tức,

 這 睡 功 消 息,

Thụy an thiền, thiểu nhân tri.

 睡 安 禪 少 人 知.

Gia phong có dạy về cách ngủ,

Ngủ nghỉ có khẩu quyết:

Ngủ sao cho tâm thành,

Ý sao cho trong sáng,

Ngủ nghỉ đã có chỉ thú,

Thì lúc ngủ phải biết điều thần khí.

Công phu khi ngủ này,

Ngủ mà vẫn thiền định,

Điều đó ít người hay.

Địch Ma Thi có thơ:

Tọa trung hôn thụy chẩm cấm đà,

 坐 中 昏 睡 怎 禁 它,

Quỉ diện, thần đầu, kiến dã ma.

 鬼 面 神 頭 見 也 魔.

Hôn tán giai nhân do khí trọc,

 昏 散 皆 因 由 氣 濁,

Niệm duyên vị đoạn, thuộc âm đa.

 念 緣 未 斷 屬 陰 多.

Triều lai thủy diện xâm đề ngạn,

 潮 來 水 面 侵 堤 岸,

Phong định giang tâm tuyệt lãng ba.

 風 定 江 心 絕 浪 波.

Tính tịch, tình không, tâm bất động,

 性 寂 情 空 心 不 動,

Tọa vô hôn tán, thụy vô ma.

 坐 無 昏 散 睡 無 魔.

Làm sao tĩnh tọa, không ngủ mê,

Lúc mộng quỉ ma hay xuất hiện,

Ngủ mê khí tán, do khí trọc,

Niệm không đoạn, tại âm khí đa

Suy tư thủy triều sâm nhập bờ,

Gió ngưng, lòng sẽ hết sóng gió.

Tính tịch, tình không, tâm bất động,

Tọa không tán lọan, ngủ không ma.

Người thời thượng cổ, chỉ nghỉ ngơi nhưng không ngủ. Cho nên nói Hướng hối nhập yến tức 向 晦 入 宴 息 (tối đến nghỉ ngơi). Nếu ngủ say, thời Dương Quang tận, và Âm trọc vây hãm, cũng như chết vậy.

Nếu biết phép Yến Tức, khi đã tối, thì tai không nghe, mắt không thấy, miệng không nói, tâm không giao động, mũi thở nhẹ nhàng, tứ chi bất động. Lúc ấy, Chân Thần, Chân Khí sẽ quấn quít nhau. Ngày càng thuần thục, tự nhiên Thần đầy sẽ không ngủ, Khí đầy sẽ không ăn, tinh đầy sẽ hết dục. Nguyên Khí tự nhiên tụ lại, Chân tinh cũng tự ngưng, nội đan sẽ kết, tam thi[1] sẽ tự diệt, cửu trùng (tà khí) sẽ tự xuất.

Cái gọi là Ma Ngủ sẽ không còn biết đi đâu. Thân thể tự nhiên sẽ thấy nhẹ nhàng, tâm trí sẽ được hư Linh. Khí trong người sẽ điều hoà, thanh tĩnh. Như vậy sẽ được trường sinh, không cần biết đạo thành hay không thành.

TỬ TRUNG ĐẠO NHÂN VẤN ĐÁP

Khách hỏi: Tọa thiền là thế nào? Ta đáp:

Yết tân nạp khí thị nhân hành,

 咽 津 納 氣 是 人 行,

Hữu dược phương năng tọa hóa sinh.

 有 藥 方 能 坐 化 生.

Đỉnh nội nhược vô Chân Chủng Tử,

 鼎 內 若 無 真 種 子,

Do tương nhiệt hỏa chử không đang.

 猶 將 熱 火 煮 空 鐺.

Yết tân nạp khí, chuyện người làm,

Tĩnh tọa thuốc không, sao hoá được?

Như nếu trong nồi không có thuốc,

Thì như nhóm lửa đốt nồi không.

Thích Gia gọi thế là Thủ Thi Quỉ, mài gạch mà mong thành gương soi (tu luyện như vậy mà đòi vào cảnh giới Vô Vi hay sao?) Lời nói đó như đúng, như sai.

Cơ áo bí ấy từ Bá Dương đời Tấn, đến Tử Dương đời Tống, khởi xướng ra đạo này. Kế sau, tiếp mối có Hải Quỳnh, Tử Quỳnh, Huỳnh Phòng, Duyên Đốc, Thượng Dương chư vị Chân Nhân. Các vị đó sáng lập ra phương pháp Kim Đan. Hệ thống tương thừa cho đến nay. Đờøi nào cũng có người nắm giữ được đạo thống đó của Tam Giáo. Còn như nói: Thủ Tĩnh, Đột Tọa, đó là phương pháp của kẻ tối hạ thừa, là lối ngoại đạo dụ người, là con đường sai lạc.[2]

Khách hỏi: Vậy cuối cùng là thế nào.

Ta nói: Ngươi có chịu đại thí Pháp tài, thề cùng Trời Đất, thì ta sẽ nói cùng ngươi.

Khách Liền quì mà xin: Đệ tử suốt đời không gặp thày. Nay may được gặp, xin Thầy từ bi, ân Thầy thật lớn.

Ta nói: Lại đây, Con. Ta dạy ngươi. Ngươi nay đã lập thệ cùng Trời Đất, Ta nói có chi sai, ngươi chớ nghe lời nói nhảm. Ta nói lời thật, ngươi chớ tin nhầm.

Nay ta dạy ngươi: Tinh, Khí, Thần là Tam Bảo, là rường cột vũ trụ, là tổng quát Âm Dương. Trời Đất được chúng nên bao dung, phúc cái Kiền Khôn. Con người được chúng, nên thành Tiên, thành Phật.

Nó có trong, ngoài. Người biết sẽ tu cả hai bên. Người không biết chỉ tu một phía. Người tu một phía, là người ngoan cố, ngu xuẩn. Người tu hai chiều sẽ chứng Tiên, Phật quả.

Người không đi theo chính thống, nói tới đây thì như người chưa nhìn thấy Đại Dương đã lui gót. Nếu ngươi không nghgi ngờ, thì ta sẽ bảo cho.

Nói Nội Ngoại Kiêm Tu, là nói cái Tinh còn ở trong trạng thái yểu minh hoảng hốt. Tinh này họ Kim, gọi là Cửu Tam Lang, húy là Nguyên Xương, hiệu là Kim Hoa Thương Phu Quân, ở phía tây ao Ngọc Trì, ra vào đều cưỡi hổ, nhũ danh là Anh Nhi, sau gọi là Kim Công. Khi đến hàng xóm (Đan Điền) thì xưng chủ nhân. Nó thích ăn trái giao lê (Nguyên Thần). Nó là Tiên Thiên Địa chi Tinh, cũng là vật chí bảo của con người.

 Còn Khí là từ Hư Vô trung lại. Khí đó họ Bạch. Gọi là Đại Ất Lang (Thái Nhất Nguyên Khí), tên là Nguyên Khí, hiệu là Vũ trụ Chủ Tể Tố Luyện Lang Quân. Ở Tây Xuyên. Ra vào cưỡi Bạch Hổ, nhũ danh là Chân Chủng Tử, sau gọi là Bạch Đầu Lão Tử. Tới hàng xóm (Đan Điền) thì gọi là Phụ Mẫu. Thích ăn rùa đen, và đa tình. Đó chính là Tiên Thiên Địa chi chính khí, tức cũng là vật chí bảo nơi con người.

 Cho nên Thượng Dương Tử viết: Nếu đã là từ hư không tới, thì không phải từ Trời xuống, không phải từ đất ra, không phải cái mà thân ta có, không phải là Tinh, không phải là Huyết, không phải cỏ cây, không phải kim thạch, tất cả đều không phải. Ai là người đã được nó và biết nó?.

 Nói đến Thần, là Tiên Thiên Địa chi thần, là nói tới cái Thần tên là Vô Vị Chân Nhân. Phật gọi là Ngật Lợi Đà Gia Phật. Nhận biết Thần này, sẽ biết cái diệu dụng cuả nó. Thần này có thể giết người, có thể sinh người. Muốn thành Tiên, thành Phật, thì phải để nó chủ trì mới được. Nên Nội Kinh có nói: Thân người có hai loại tinh, là Hồn và Phách. Phàm tùy tinh vãng lai là Thần vậy.

 Bạch Tổ nói: Chỉ nơi con người, thì đầu mới có Cửu Cung. Cung chính giữa trong đó gọi là Cốc Thần. Thần thường cư trong Cốc. Ngày tiếp muôn vật, đêm tiếp với Mộng. Như thế làThần không ở yên trong Cốc. Sau một giấc Nam Kha chưa hết, một giấc Hoàng Lương chưa vẹn, thì một đời vinh nhục, trăm năm ưu bi, duyệt lạc cũng nằm trọn trong một giấc mộng. Khiến mình đi chơi mà không biết trở về. Như vậy là sống trong u minh xa cách người phàm, và con Đường sinh tử cũng đã tuyệt vậy.

Do đó mới hay: Con người không tự sống, mà Thần cho sống. C0n người không tự chết mà Thần cho chết. Nếu Rhần ở yên trong Cốc thì con người làm sao chết được?

Tử Dương nói: Luyện Thần tu luyện bất Thần Thần 煉 神 須 煉 不 神 神.[3] Chính là muốn nói thế vậy.

Thiên Dĩnh Tử[4] nói: Tuy tu hành đã lâu, nhưng không biết thế nào là Ngũ Thời 五 時, Thất Hầu 七 候 [5]
đến nỗi tuổi thọ bị giảm, cơ thể bị tì vết, dung nhan tiều tụy rồi chết, thế mà dám cho mình là thông minh, giác ngộ, cho mình là thành đạo, thì thật là quá nhầm vậy.

Còn như nói đến tọa thiền, ta cũng đã chán không muốn nghe. Dẫu là thượng phẩm thánh tiên tôn quí, thì cũng do người biết tu luyện mà nên. Nếu không đạt được như vậy, thì xin đừng nói, vì ngươi chưa tỉnh ngộ vậy.

_________________________________________

[1] Tam Bành: Bành Cứ, Bành Chất, Bành Kiểu.

[2] Tức là Ngồi kiết già, thẳng người không chưa đủ, còn phải biết cách vận thần, khí bên trong nữa.

[3] Bất thần thần chính là Thức Thần trong con người. Nó thường nhiễu loạn Nguyên Thần.

[4] Có lẽ là Thiên Ẩn Tử tức Tư Mã Thừa Trinh.

[5] Ngũ Thời là: Đệ nhất thời: Tâm động đa, tĩnh thiểu.- Đệ nhị thời: Tâm tĩnh thiểu, động đa. Đệ tam thời: Động tĩnh tương bán. - Đệ tứ thời: Tĩnh đa, động thiểu. - Đệ ngũ thời: Tâm nhất hướng thuần tĩnh. Thất hầu  là: Đệ nhất hầu: Túc bệnh tính tiêu (Bệnh cũ lành hết = Giai đoạn đắc đạo). - Đệ nhị hầu: Siêu quá thường hạn, sắc phản đồng nhan (= Con người trẻ lại). - Đệ tam hầu: Diên niên thiên tải (Sống lâu = Giai đoạn Tiên Nhân). - Đệ tứ hầu: Luyện thân thành khí (= Giai đoạn Chân Nhân). - Đệ ngũ hầu: Luyện khí thành Thần (= Giai đoạn Thần Nhân). - Đệ lục hầu: Luyện Thần hợp sắc (= Giai đoạn Chí Nhân). - Đệ thất hầu: Cao siêu vật ngoại (= Giai đoạn Cứu cánh). Xem Trung Hoa Đạo giáo đại từ điển, tr. 1194. Xem thêm tr. 968: nơi chữ Ngũ thời.

Tiên học từ điển gọi Thất hầu trên đây là Thất hiệu (7 hiệu quả).

Tiên học từ điển giải Thất hầu như sau:

Nhất hầu: Tâm Định, dị giác. (Tâm định, dễ giác ngộ).- Nhị hầu: Túc tật phổ tiêu (Bệnh Cũ lành hết). - Tam hầu: Điền bổ, phá tổn (Sửa sang chếch mác trong con người). - Tứ hầu: Khí túc, thần sung (Tinh thần sung mãn).- Ngũ hầu: Hoá hình vi khí.- Lục hầu: Hoá khí vi thần. - Thất hầu: Hoá thần vi hư.


1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16