TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ

» MỤC LỤC  |  NGUYÊN  |  HANH  |  LỢI  |  TRINH

LỢI TẬP

1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13


ĐỆ NGŨ TIẾT KHẨU QUYẾT

KIỀN KHÔN GIAO CẤU, KHỬ KHOÁNG LƯU KIM

第 五 節 口 訣 : 乾 坤 交 媾, 去 礦 留 金

Nội phụ Mão Dậu chu thiên khẩu quyết

內 附 卯 酉 周 天 口 訣

Ta trước đây, đã hệ thống hai chữ Tính Mệnh bằng chữ Nhất, để giảng luận. Đó là phương pháp Thượng Thừa.

Nay lại đem hai chữ Tính Mệnh qui căn lại, bằng chữ Trung Nhi phi Nhất 中 而 非 一, để lập luận. Đó là phương pháp Tối Thượng Thừa.

Giảng Tính Mệnh bằng chữ Nhất, cái đạo này tịch Liêu, từ Chung Ly tới nay, ít nguời biết. Đừng nói chi là qui căn hai chữ lại mà nói. Như vậy người biết lại càng ít vậy. Cái kỳ bí của khiếu diệu này, cái vi diệu của Tính Mệnh, nếu không nói đi, nói lại, thì học giả không giác ngộ được.

Con người trước khi cha mẹ sinh ra, thì Bản Thể chính là Thái Hư; đó chẳng phải là Vô Cực sao? Con người sau khi đã được cha mẹ cấu tinh, thì là Nhất Điểm Linh Quang, đó chẳng phải là Thái Cực sao?

Một điểm Linh Quang, vốn từ Thái Hư lại, là Nguyên Thần của ta. Từ đó sinh ra Khí, rồi Khí lại thành Hình. Con người chỉ biết có Hình, Khí. Chỉ biết ăn ngon, mặc đẹp nuôi dưỡng cái thân này. Chỉ biết đem vinh hoa, phú quí tô điểm cho thân này. Cứ thế rồi sinh tử, cho thế là được vậy. Và cái điều mà Tử Tư gọi là Thiên Mệnh chi vị Tính, thì không biết hay không muốn biết. Mà kẻ đã không muốn biết thì Mạnh Tử há chẳng đã nói: Không nên vì Mình mà quên mất Bản Tâm hay sao?

Còn như nếu biết ra, thì sẽ quay về mình mà tìm kiếm, ắt sẽ hồi phục lại được, cái Nhất Khí Thái Hư lúc bản sơ, cái trạng thái cũ của Nhất Điểm Linh Quang. Những chuyện đó nếu không nhờ Kim Đan Đại Đạo thì không thể được.

Cái bí ẩn của Kim Đan Đại Đạo, là ở nơi hai chữ Tính Mệnh. Tính là Trời, thường ẩn nơi đỉnh đầu. Cho nên đỉnh đầu là Căn Nguyên của Tính.

Mệnh là Bể, thường Ẩn nơi Rốn. Cho nên Rốn là gốc gác của Mệnh. Cho nên Kinh nói: Tính tại thiên biên, Mệnh trầm hải để 性 在 天 邊, 命 沉 海 底 (Tính ở ven Trời, Mệnh chìm đáy Bể) chính là vì vậy.

Vả cái Khiếu Trời thì tròn và tàng Tính. Nó thông với khiếu Đất, và quán thông từ trên xuống dưới, trực tiếp dưỡng dục và không làm hại. Còn cái Khiếu Đất thì vong và tàng Mệnh. Nó thông với Khiếu Trời và quán thông từ dưới lên trên, trực tiếp dưỡng dục và không làm hại.

Khổng Tử nói: Trí giả động, Thiên viên chi tượng dã; Nhân giả tĩnh, địa phương chi tượng dã 智 者 動, 天 圓 之 象 也; 仁 者 靜, 地 方 之 象 也 (Người trí thời ưa hoạt động, đó là tròn tượng Trời. Người Nhân thời ưa an tĩnh. Đó là Vuông tượng đất).

Thế nào là Trời tròn? Tròn là tròn trĩnh. Đó là nơi tính dựa nương, đó là gốc Mệnh vậy. Thế nào là Đất vuông? Phương là Phương Thốn (Tấc vuông), là nơi Mệnh hệ thuộc, là khu nữu của Tính.

Tính Mệnh hợp nhất, thì không còn là hai. Tiềm tàng nơi Trời là Trời. Tiềm tàng dưới Đất là đất.

Ưu ưu, dương dương, không hình thể, không phương sở. Hiện nơi mắt thì thấy, hiện nơi tai thì nghe, hiện nơi mũi thì ngửi, hiện nơi lưỡi thì biết đàm luận, hiện nơi tay, thì cầm nắm, hiện nơi chân thì chạy nhảy. Người ngộ thì biết đó là Phật Tính; người mê thì cho đó là Tinh Hồn.

Mà Phật tính là Bản Tính con người. Gọi là Bản Tính, vì há chẳng phải là ta vốn có Chân Tính đó hay sao? Chân tính đó, chính là Thiên Mệnh chi vị Tính.

Vì nó không thiên lệch, nên gọi là TRUNG; vì nó là Nhất Chân vô vọng, nên gọi là THÀNH; vì nó cùng Vạn Vật đồng thể nên gọi là Nhân; vì nó Chí Tôn vô đối nên gọi là Độc. Hồn luân một khối, không thiếu, không thừa.

Khi Thái Cực đã chia, khi đã có Lưỡng Nghi, thì khinh thanh bay lên trên; trọng trọc đi xuống dưới. Vì thế mà Khảm Cung có Diên, Ly cung có Hống. Thế là trước kia chỉ có một vật, đến nay đã chia thành hai.

Cho nên Tiết Tử Hiền (Phục Mệnh Thiên) nói: Nhất vật phân vi nhị, Năng tri Nhị giả danh 一 勿 分 為 二, 能 知 二 者 名 (Một vật chia thành hai, mới biết tên Hai đó).

Tên của Hai, Đan kinh không dám nói hết, ví dụ có nhiều, vạn tự thiên danh, không sao kể xiết.

Như luận về Tính trên đầu, thì ví dụ rằng: Hống (Dương), Long, Hỏa, Căn, Nhật, Hồn, Ly, Kiền, Kỷ, Thiên, Quân, Hư, Thố, Vô, Chủ, Phù, Chu Sa, Phù Tang, Xá Nữ, Côn Lôn.

Như luận về Mệnh, nơi Rốn, thì ví dụ rằng: Diên (Âm), Hổ, Thủy, Đế, Nguyệt, Phách, Khảm, Khôn, Mậu, Địa, Thần, Thật, Ô, Hữu, Tân, Trầm, Thủy Ngân, Hoa Nhạc, Anh Nhi, Khúc giang.

Đến như trong Âm có Dương, trong Dương tàng Âm, thiên ngôn vạn luận, bất quá là nói về hai tên này mà thôi. Cho nên Nguyên Hoàng quyết có câu:

Diên, Hống đỉnh trung cư,     鉛 汞 鼎 中 居

Luyện thành vô giá châu.      煉 成 無 價 珠

Đô lai lưỡng cá tự,                  都 來 兩 個 字

Liễu tận vạn gia thư.              了 盡 萬 家 書

Diên, Hống ở trong Đỉnh,

Luyện thành vô giá châu.

Chỉ có hai chữ đó,

Đã đủ vạn gia thư

Chung Ly Ông nói:

Trừ khước Hống Diên lưỡng vị dược,

 除 卻 汞 鉛 兩 味 藥,

Kỳ tha đô thị cuống ngu mê.

 其 他 都 是 誑 愚 迷.

Ngoại trừ Hống Diên hai vị dược,

Còn toàn bịp bợm kẻ ngu mê.

Cao Tượng Tiên viết:

Mộng yết Tây Hoa đáo cửu thiên.

 夢 謁 西 華 到 九 天,

Chân nhân thụ ngã «Chỉ Huyền Thiên».

 真 人 授 我 指 玄 篇.

Kỳ trung giản dị vô đa tự,

 其 中 簡 易 無 多 字,

Chỉ yếu giáo nhân luyện Hống Diên.

 只 要 教 人 煉 汞 鉛.

Mộng tới Tây Hoa đến cửu thiên,

Chân nhân truyền thụ Chỉ Huyền Thiên.

Sách thời giản dị không nhiều chữ,

Chỉ cốt dạy người luyện Hống Diên.

Mã Đơn Dương viết:

Diên Hống thị Thủy Hỏa,      鉛 汞 是 水 火

Thủy Hỏa thị Long Hổ.        水火 是 龍 虎

Long Hổ thị Thần Khí,          虎 是 神 氣

Thần Khí thị Tính Mệnh.      氣 是 性 命

Diên Hống là Thủy Hỏa,

Thủy Hỏa là Long Hổ,

Long Hổ là Thần Khí,

Thần Khí là Tính Mệnh.

Rút cuộc chỉ có Hai Chữ; Hai chữ chỉ có một lýù. Tu mù thì mới chia hai; Tu Chân hợp hai thành một. Người biết hợp Nhất, sẽ Luyện Khí ngưng Thần, Tận Tính Chí Mệnh; nấu Diên làm khô Hống; Thủ Khảm Điền Ly.

Vì trong quẻ Ly có Linh Vật gọi là Lưu Châu. Ngụ nơi Thần thì sinh Tư Lự; Ngự nơi Tinh cũng khó bảo toàn. Nên Cát Tiên Ông (Lưu Châu Ca) nói: Thán kỳ nan ngự nhi dị thất 嘆 其 難 馭 而 易 失 也 (Tiếc rằng nó khó giữ và dễ mất).

Ngụy Bá Dương cũng nói:

Thái Dương Lưu Châu,        太 陽 流 珠

Thường dục khứ nhân.         常 欲 去 人

Tốt đắc Kim Hoa,                   卒 得 金 華

Chuyển vi tương nhân.          而 相 因

Thái Dương Lưu Châu,

Rất là dễ mất.

Biết luyện thành Đan,

Mới mong giữ được.

Lại nói:

Hà thượng Xá Nữ,              河 上 奼 女

Linh nhi tối Thần.                靈 而 最 神

Tương dục chế chi,            將 欲 制 之

Hoàng Nha vi căn.             黃 芽 為 根

Xá Nữ trên sông,

Rất Linh, rất Thần.

Muốn giữ được nó,

Phải luyện thành Đan.

Nói Kim Hoa, nói Hoàng Nha là nói Chân Diên. Chân Diên là Thái Âm chi tinh. Nói Lưu Châu, nói Xá Nữ là nói Linh Hống. Linh Hống là Thái Dương chi khí.

Nhưng Linh Hống, Tính vốn mãnh Liệt, gặp Lửa sẽ bay mất tích, phải gặp Chân Diên, mới bị chế phục. Cho nên Tử Dương nói: Yêu tu chế phục mịch Kim Công 要 須 制 伏 覓 金 公 (Muốn chế phục Hống, phải tìm Diên).

Kim Công là tên tự của Diên. Diên từ Khúc Giang (Ruột non) tới. Xuyên qua Giáp Tích, tới Ngọc Kinh, oát toàn nghịch lưu, vào thẳng Nê Hoàn.

Tuy gọi là Sưu Diên, Thiêm Hống nhưng thực ra là HOÀN TINH, BỔ NÃO. Kim Đan viết: Cố dục bất lão, hoàn tinh bổ não 故 欲 不 老, 還 精 補 腦 (Nếu không muốn già, phải hoàn tinh bổ não).

Thúy Hư Thiên viết:

Thiên hữu thất Tinh, địa thất Bảo,

 天 有 七 星 地 七 寶,

Nhân hữu thất Khiếu, quyền quy Não.

 人 有 七 竅 權 歸 腦.

Trời có thất Tinh, đất Thất Bảo,

Người có Thất Khiếu, cực là Não.

Thái Cổ tập viết:

Kim Đan vận đáo Nê Hoàn Huyệt,

 金 丹 運 到 泥 丸 穴,

Danh Tính tiên tương ký Ngọc Đô.

 名 性 先 將 記 玉 都.

Kim Đơn vận đến Nê Hoàn Huyệt,

Danh tính đà ghi tại sổ trời.

Pháp Bảo Di Châu viết:

Nhận đắc Bản Lai Chân Diện mục,

 認 得 本 來 真 面 目.

Thủy tri sinh tử tại Nê Hoàn.

 始 知 生 死 在 泥 丸.

Biết được Bản Lai Chân Diện Mục,

Mới hay sinh tử tại Nê Hoàn.

Huỳnh Đình Kinh viết: Nê Hoàn bách tiết giai hữu Thần[1] 泥 丸 百 節 皆 有 神 (Nê Hoàn bách tiết đều có Thần).  Lại nói: Não trung tinh căn tự Nê Hoàn[2] 腦 中 精 根 自 泥 丸 (Não Thần tinh căn tự Nê Hoàn).

Lại nói:

Nhất diện chi thần thông Nê Hoàn,

 一 面 之 神 通 泥 丸,

Nê Hoàn cửu Chân giai hữu phòng.

 泥 丸 九 真 皆 有 房.

Phương viên nhất thốn xứ thử trung,

 方 圓 一 寸 處 此 中,

Đãn tư nhất bộ thọ vô cùng.[3]

 但 思 一 部 壽 無 窮.

Chư Thần nơi mặt thuộc Nê Hoàn,

Nê Hoàn Cửu Chân đều có phòng.

Vuông tròn một tấc tại não trung,

Tồn tư Cửu Chân thọ vô cương.

Phương Viên Nhất Thốn là nơi đức Thích Ca xoa đầu để thụ ký. Đó là Huyền Trung chi huyền, là Thiên Trung chi Thiên, là Uất La Tú Đài, Ngọc Sơn, Thổ Kinh, Não huyết chi Quỳnh Phòng, Hồn Tinh chi Ngọc Thất, Bách Linh chi Mệnh Xá, Tân Dịch chi Sơn Nguyên, đó là huyệt giao thông ở giữa hai tai, trước là Minh Đường, sau là Ngọc Chẩm, trên là Hoa Cái, dưới là Giáng Cung, ở giữa Thái Uyên Bắc Cực, là chỗ Nguyên Thần sở cư.

Xưa vua Hoàng Đế lên núi Nga Mi, yết kiến Thiên Chân Hoàng Nhân, để hỏi về đạo Chân Nhất.

Hoàng Nhân nói: Đó là điều quí trọng của Đạo gia. Kinh này Thượng Đế dấu trong năm thành của núi Côn Lôn, để trong hòm ngọc, chữ khắc vào thẻ Kim Trát, bôi bằng bùn tía, đóng ấn Trung Chương.[4]

Ta nghe Kinh sách nói: Chân Nhất ở tại Bắc Cực Thái Uyên, trước có Minh Đường, sau có Ngọc Trẩm, trên có Hoa Cái, dưới có Giáng Cung. Nguy nga Hoa Cái, lầu vàng, mái cong (chỉ Não môn).

Tả Cang, hữu Khôi (chỉ 2 mắt), Sóng vỗ ngang trời (Sóng mắt); cỏ tử chi mọc quanh bồ, cỏ chu thảo mung lung(chỉ lông mi); ngọc trắng tha nga (chỉ lòng trắng mắt), nhật nguyệt rãi sáng (chỉ 2 mắt), băng qua Hoả Thủy (Khảm Ly), thấu suốt Huyền Hoàng (Trời Đất, Âm Dương). Thành quyết tương giao, màn che, trướng rủ, châu cài, ngọc dắt, Long Hổ bảo vệ, thần nhân đứng bên, không cho không lấy, ở yên tại chỗ. Không chậm, không nhanh, ở yên trong buồng. Được rảnh, được vui, NHẤT ở không đi; THỦ NHẤT TỒN CHÂN, Nhất sẽ thông Thần. Bớt muốn, bớt ăn, Nhất sẽ Lưu Tức. Khi dao kề cổ, nghĩ đến Nhất sẽ được sống. Biết Nhất không khó, khó là lúc chung cuộc. Giữ Nhất không rời, sẽ được vô cùng. Đó là đại lược về bí quyết Chân Nhất.

Cho nên Đạo Đức Kinh viết:

Thiên đắc Nhất dĩ thanh,

 天 得 一 以 清,

Địa đắc Nhất dĩ ninh.

 地 得 一 以 寧.

Thần đắc Nhất dĩ Linh.

 神 得 一 以 靈.

Cốc đắc Nhất dĩ doanh,

 谷 得 一 以 盈,

Vạn vật đắc Nhất dĩ sinh,

 萬 物 得 一 以 生,

Vương hầu đắc Nhất dĩ vi thiên hạ trinh.[5]

 王 侯 得 一 以 為 天 下 貞.

Trời có Ngài nên hóa trong xanh,

Nhờ Ngài nên đất an ninh,

Chư Thần nhờ thế uy linh, nhiệm mầu,

Có Hóa Công hang sâu hóa đặc,

Nhờ có Ngài muôn vật tốt tươi,

Vương hầu cũng dựa đức Người,

Trị vì thiên hạ thảnh thơi an bình.

Còn nói rằng: Thần dĩ tri lai, Tri dĩ tàng vãng.[6] (Dùng Thần trông tỏ tương lai, tiềm tàng trong trí muôn đời xa xưa).

Còn nói rằng: Lớn mà cảm hoá thì gọi là Thánh. Thánh mà không hiểu nổi thì là Thần. Chia ra làm Hai thì gọi là Âm Dương. Chia ra làm năm thì là Ngũ Hành. Lại chia làm tám. Tám tám sáu mươi tư là số của Hà Đồ. Lại chia làm chín. Chín Chín tám mươi mốt, là số của Lạc Thư. Rồi chia thành Vạn vật. Sinh Sinh Hóa Hoá là Cương duy của Vạn Vật.

Phục Hi Văn Vương được chữ Nhất mà Chu Dịch hưng khởi. Đại Võ, Cơ Tử được chữ Nhất, mà Hồng Phạm Cửu Trù sinh; Chu Mậu Thúc (Chu Liêm Khê) được chữ Nhất mà có Thái Cực Đồ; Thiệu Nghiêu Phu (Thiệu Khang Tiết) đắc Nhất mà viết Hoàng Cực Kinh Thế; Lão Tử được chữ Nhất, mà vạn sự tất; Thích Ca được chữ Nhất mà Vạn Pháp qui. Qui Căn là Qui Nhất, Phục Mệnh là Phục Nhất vậy.

Tây Thăng Kinh viết:

Nhân năng thủ Nhất,                    人 能 守 一

Nhất diệc thủ Nhân.                      一 亦 守 人

Tư Nhất chí cơ,                              思 一 至 飢

Nhất dữ chi lương,                         一 與 之 糧

Tư Nhất chí khát.                           思 一 至 渴

Nhất dữ chi tương.                        一 與 之 漿

Người giữ được Nhất,

Nhất sẽ giữ người.

Nghĩ Nhất mà đói,

Nhất sẽ cho ăn,

Nghĩ Nhất mà khát,

Nhất sẽ cho uống.

Linh Khu Kinh viết: Thiên Cốc, Nguyên Thần, Thủ chi tự chân 天 谷, 元 神 守 之 自 真 (Giữ được Nguyên Thần trong Thiên Cốc, Sẽ đạt cảnh giới Thiên Chân).

Lại viết: Tử dục trường sinh, Bão Nhất đương minh 子 欲 長 生 抱 當 明 (Người muốn trường sinh, Ôm Nhất sẽ rõ).

Lại viết: Bão Nhất thủ Chân, Thần tự thông Linh 抱 一 守 真, 神 自 通 靈 (Ôm Nhất thủ Chân, Thần sẽ thông Linh).

Nếu con người Ác thần[7] thủ Nhất 握 神 守 一 được ở nơi Bản Cung (Nê Hoàn Cung), thì Chân Khí tự nhiên sẽ bay lên, Chân tức sẽ tự định, Chân Tinh sẽ tự triều; Linh Miêu sẽ lớn; Thiên Môn sẽ mở; Nguyên Thần sẽ tự hiện; Khiếu trên đỉnh đầu sẽ mở và các khiếu khác cũng sẽ mở. Nguyên Thần cư tại vị, và các Thần khác đều nghe lệnh. Thần đã ở trong Khiếu và đã không phát tán; thì con người làm sao chết được? Cho nên Huỳnh Đình Kinh nói: Tử dục bất tử, tu Côn Lôn[8] (Bạn muốn trường sinh tu Côn Lôn. (Côn lôn là đầu con người), chính là vậy.

Cho nên Khâu Xử Cơ nói:

Cửu thị Côn Lôn thủ Chân Nhất,

 久 視 崑 崙 守 真 一,

Thủ đắc Ma Ni viên hựu xích.

 守 得 摩 尼 圓 又 赤.

Thanh Hư hạo khoáng Đà La Môn,

 清 虛 浩 曠 陀 羅 門,

Vạn Phật thiên Tiên tòng thử xuất.

 萬 佛 千 秈 從 此 出.

Nhìn lâu Đan điền, giữ Chân Nhất,

Được Ngọc Ma Ni, tròn lại đỏ,

Đà La Môn (Nê Hoàn Cung) ấy thực thanh hư,

Vạn Phật, Thiên Tiên do đó xuất.

Hoàn Nguyên Thiên viết:

Ngộ Đạo hiển nhiên minh lang lạc,

 悟 道 顯 然 明 廊 落,

Nhàn nhàn đoan tọa vận Thiên Quan.

 閑 閑 端 坐 運 天 關.

Biết Đạo âu rành Thanh Tĩnh Lý,

Ngồi thẳng yên người giữ Nê Hoàn.

Đó là căn bản công phu, đó là học vấn đầu não, đó là thủ đoạn mở cửa Trời, đó là Linh Chương để thoát Tử Tịch, Đạo Lý này là bí mật của thượng Thiên, xưa nay Tiên Phật không dám nói rõ. Cho nên trong ngàn vạn người may mới được một hai người biết. Thât là huyền diệu. Lại có những khẩu quyết nói không hết lời.

Người xưa đinh ninh dặn dò rằng: Khi Chân Diên nhập đỉnh, phải khu trừ tạp niệm, đem hết Tinh Thần, Mắt hướng đỉnh đầu, dụng hết tâm chí, trong chớp nhoáng đó, Nguyên Thần, Nguyên Khí sẽ giao hợp, tạo hóa sẽ vận chuyển, sấm vang, điện giật, cảm động Kiền Khôn, bách mạch khai thông, cửu cung thấu triệt, kim tinh quán đỉnh, chân khí bốc lên trời.

Tử Dương gọi thế là: Dĩ Hắc nhi biến hồng, Nhất đỉnh vân khí nùng 以 黑 而 變 紅, 一 鼎 氣 雲 濃 (Lấy đen biến thành Hồng, Chính khí sẽ đầy Nê Hoàn).

Trong khoảnh khắc, nhiệt độ nơi Thượng Hạ Đan Điền sẽ giảm, đó là triệu chứng Đan thành. Hoàng Nha, Bạch Tuyết sẽ xuất hiện. Nguyên Thần, Nguyên Khí, Âm Dương, Hồn Phách, như đôi vợ chồng hòa hợp với nhau, phát ra tiếng Long Ngâm, Cọp Hú. Dương Tinh Hống Tủy ngưng kết như châu. Bạch Ngọc Thiềm viết: Phu phụ lão tương phùng, Ân tình tự lưu luyến 夫 婦 老 相 逢, 恩 情 自 留 戀 (Vợ chồng già gặp nhau, ân tình tự lưu luyến). Lúc đó, Huyền Châu thành tượng, quặng mất, vàng còn, và một điểm Kim Dịch sẽ rơi xuống chốn cũ Huỳnh Đình vậy.

Lúc đó, mây núi an nhiên bay lên Thái Hư, mưa xuân lã tã rơi xuống thấm nhuần đất đai, tràn ngập giang trạch, băng hà bắt đầu tan chảy, bách mạch không hư, hoà hoạt, làm tứ chi thư sướng, như mùa Xuân đến muôn nơi.

Thấy hiệu nghiệm đó, lập tức hành Mão Dậu chu thiên (vận nội khí chu lưu khắp người) tòng tả thượng, tòng hữu hạ là Tiến Dương Hỏa, tòng hữu thượng, tòng tả hạ, là Thoái Âm Phù; khiến cho nội khí thượng hạ, tả hữu toàn thân được hội hợp hỗn dung, cho ngũ hành hợp nhất trong một Đỉnh, dung hợp Ngũ Linh nơi Thiên Cốc, Lý Ngũ Khí về Nê Hoàn vậy.

Cao Tượng Tiên nói:

Huyền Châu phi đáo Côn Lôn thượng,

 玄 珠 飛 到 崑 崙 上,

Tử nhược cầu chi bằng Võng Tượng.

 子 若 求 之 憑 罔 象.

Huyền Châu bay tới đỉnh Côn Lôn,

Muốn được Huyền Châu phải Võng Tượng.

Hà Xa Ca viết:

Lưỡng vật cầm lai cộng nhất lô,

 兩 物 擒 來 共 一 爐,

Nhất hoằng Thần Thủy kết Chân Tô.

 一 泓 神 水 結 真 酥.

Nguyên Thần Nguyên Khí bỏ một lò,

Thần Thủy đem về kết Chân Tô,

Chỉ Huyền Thiên viết:

Tất tri hội hợp Đông Tây lộ,

 必 知 會 合 東 西 路,

Thiết tại xung hoà thượng Đan Điền.

 切 在 沖 和 上 下 田.

Đông Tây, Tả Hữu đôi đường cách,

Phải biết đem về Thượng Đan Điền.

Trần Nê Hoàn nói:

Bạch Hổ tự tư tương kiến hậu,

 白 虎 自 玆 相 見 後,

Lưu Châu na khẳng bất tương tòng?

 流 珠 那 肯 不 相 從.

Bạch hổ (Nguyên Khí) từ khi mà gặp được.

Nguyên Thần hồ dễ chẳng nghe theo?

Doãn Chân Nhân nói:

Tứ Tượng, Ngũ Hành toàn thốc xứ,

 四 象 五 行 攢 簇 處,

Kiền Khôn, nhất nguyệt tự nhiên qui.

 乾 坤 一 月 自 然 歸.

Tứ Tượng Ngũ hành mà hoà hợp,

Kiền Khôn, Nhật Nguyệt cũng về theo.

Tiệm Ngộ Tập viết:

Nhân thiêu đan dược hỏa viêm hạ,

 因 燒 丹 藥 火 炎 下,

Cố sử Hoàng Hà thủy nghịch lưu.

 故 使 黃 河 水 逆 流.

Đã biết tiến Dương Hỏa,

Phải biết thoái Âm Phù.

Thuần Túy Ngâm viết:

Tí Ngọ lô tiền phân tiến thoái,

 子 午 爐 前 分 進 退,

Kiền Khôn đỉnh nội liệt phù trầm.

 乾 坤 鼎 內 列 浮 沉.

Luyện thuốc phải rành đường Tiến Thoái,

Biết lẽ Thăng Trầm nữa mới hay.

Huyền Áo Tập viết:

Kim Tình Mộc Tính tương giao hội,

 金 情 木 性 相 交 會,

Hắc Diên, Hồng Hống tự cảm thông.

 黑 鉛 紅 汞 自 感 通.

Nguyên Thần (Mộc), Nguyên Khí (Kim) đà giao hợp,

Hắc Diên, Hồng Hống tự cảm thông.

Vân Phòng chân nhân nói:

Khu hồi đẩu bính Huyền Quan Lý,

 驅 回 斗 柄 玄 關 理,

Oát chuyển Thiên Quan vạn tượng thông,

 斡 轉 天 關 萬 象 通.

Phiến hướng Hổ Long tần đẩu bãi,

 片 餉 虎 龍 頻 斗 罷.

Nhị vật tương giao khoảnh khắc trung.

 二 物 相 交 頃 刻 中.

Nhìn chuôi Bắc Đẩu vận Huyền Quan,

Thiên Quan xoay chuyển vạn tượng thông,

Hồ Long vứa thấy so hơn kém,

Đã Thầy hòa hài, khoảnh khắc trung.

Chỉ Huyền Thiên viết:

Bôn qui Khí Hải danh Châu Ký,

 奔 歸 氣 海 名 朱 驥,

Phi nhập Nê Hoàn thị Bạch Nha.

 飛 入 泥 丸 是 白 鴉.

Tạc dạ Hổ Long tranh đấu bãi,

 昨 夜 虎 龍 爭 鬥 罷,

Tuyết trung vi hiện nguyệt câu tà.

 雪 中 微 現 月 鉤 斜.

Nguyên Thần (Châu Ký) băng Khí Hải,

Bạch Nha đà thấy nhập Nê Hoàn.

Đêm qua Long Hổ vừa tranh đấu,

Trong tuyết hiện ra mảnh trăng tà.[9]

Tỉnh Nhãn Thi rằng:

Mộc Kim gián cách các Tây Đông,

 木 金 間 隔 各 西 東,

Vân khởi, Long ngâm, Hổ khiếu phong.

 雲 起 龍 吟 虎 嘯 風.

Nhị vật liêu liêu Thiên địa hồi,

 二 物 寥 寥 天 地 回,

Hạnh nhân Mậu Kỷ hội thư hùng.

 幸 因 戊 己 會 雌 雄.

Mộc[10] Kim[11] cách trở tại Đông Tây,

Gió thổi, mây tuôn, Rồng Cọp hú,

Thần khí xa nhau cả đất Trời,

May nhờ Mậu Kỷ thành Trống Mái.

Trần Nê Hoàn viết:

Tí thời khí đáo Vĩ Lư Quan,

 子 時 氣 到 尾 閭 關,

Giáp Tích, Hà Xa vận Tắng san.

 夾 脊 河 車 運 甑 山.

Nhất loã Thủy Tinh nhập lô nội,

 一 顆 水 晶 入 爐 內,

Xích Long hàm Hống thượng Nê Hoàn.

 赤 龍 含 汞 上 泥 丸.

Khí vào giờ Tí tới Vĩ Lư,

Theo đường Giáp Tích truyền lên đỉnh,

Nhất loã Kim Đan nhập Đan Điền,

Nguyên Thần Nguyên Khí thượng Nê Hoàn.

Túy Hư Thiên viết:

Túy đảo hàm miên mộng thục thời,

 醉 倒 酣 眠 夢 熟 時,

Mãn thuyền tải bảo quá Tào Khê.

 滿 船 載 寶 過 曹 溪.

Nhất tài thức phá đan cơ hậu,

 一 才 識 破 丹 基 後,

Phóng khứ thu lai tổng thị y.

 放 去 收 來 總 是 伊.

Quá chén, ngủ say, dệt mộng thời,

Một thuyền châu báu qua Đốc mạch.

Từ khi biết được phép luyện Đơn,

Phóng khứ, thu lai thật dễ dàng.

Cổ Tiên Ca vân:

Thuỷ Ngân nhất vị thị Tiên Dược,

 水 銀 一 味 是 仙 藥,

Tòng thượng truyền lưu phục hỏa nan.

 從 上 傳 流 伏 火 難.

Nhược ngộ Hà Xa thành tử phấn,

 若 遇 河 車 成 紫 粉,

Phấn sương nhất thổ hóa Kim Đơn.

 粉 霜 一 吐 化 金 華.

Nguyên Thần nhất vị là Tiên Dược,

Xưa nay kết tụ rất khó khăn.

May ra gặp đựơc Chân Nguyên Khí,

Phấn sương lan tỏa hiện Kim Đan.

Huyền Áo Tập nói:

Di tương Bắc Đẩu quá Nam Thần,

 移 將 北 斗 過 南 辰,

Lưỡng thủ song kình Nhật Nguyệt luân.

 兩 手 雙 擎 日 月 輪.

Phi sấn Côn Lôn sơn thượng xuất,

 飛 趁 崑 崙 山 上 出,

Tu du hoá tác nhất thiên vân.

 須 臾 化 作 一 天 雲.

Đem sao Bắc Đẩu (Khảm) xuống Nam Thần (Ly).

Nhật Nguyệt hai vầng nắm trong tay.

Bay tới Côn Lôn Liền xuất hiện,

Tự nhiên hoá tác đám tường vân.

Âm Trường Sinh nói:

Thâm dạ Long ngâm Hổ khiếu thì,

 深 夜 龍 吟 虎 嘯 時,

Cấp giá Hà Xa vô tạm hiết.

 急 駕 河 車 無 暫 歇.

Phi tinh vận thượng Côn Lôn đỉnh,

 飛 精 運 上 崑 崙 頂,

Tiến hỏa Ngọc Lô phanh tự tuyết.

 進 火 玉 爐 烹 似 雪.

Long ngâm, Hổ khiếu trong đêm vắng,

Hãy chuyển Hà Xa chớ có lơi.

Phi tinh hãy vận Côn Lôn đỉnh,

Đem lửa đốt lò trắng như tuyết.

Trương Nguyên Hoá viết:

Nghi lưu nhất trực thượng Bồng Lai,

 宜 流 一 直 上 蓬 萊,

Tán tại Cam Tuyền nhuận cửu hài.

 散 在 甘 泵 潤 九 骸.

Tòng thử Đan Điền triêm nhuận trạch,

 從 此 丹 田 沾 潤 澤,

Hoàng Nha biến địa nhất tề khai.

 黃 芽 變 地 一 齊 開.

Sông Nghi chảy thẳng tới Bồng Lai,

Tán thành Tân Dịch nhuận cửu hài.

Đơn Điền nhờ vậy nên nhuận trạch,

Hoàng Nha khắp đất nở tung khai.

Nguyên Đạo Ca vân:

Diệu vận Đan Điền tu thượng hạ,

 妙 運 丹 田 須 上 下,

Tu tri nhất thể hợp Tây Đông.

 須 知 一 體 合 西 東.

Kỷ hồi tiếu chỉ Côn Lôn thượng,

 幾 回 笑 指 崑 崙 上,

Giáp tích phân minh hữu lộ thông.

 夾 脊 分 明 有 路 通.

Phải vận khí qua Thượng Hạ Đan Điền,

Biết phải trái Tây Đông trong người.

Mới hay từ Giáp Tích lên Côn Lôn,

Phân minh vốn đã có đường lối.

Áo Bí Tập viết:

Độc bộ Côn Lôn vọng yểu minh,

 獨 步 崑 崙 望 窈 冥,

Long ngâm hổ khiếu thậm phân minh.

 龍 吟 虎 嘯 甚 分 明.

Ngọc trì thường trích Âm Dương tủy,

 玉 池 常 滴 陰 陽 髓,

Kim đỉnh thời phanh nhật nguyệt tinh.

 金 頂 時 烹 日 月 精.

Bước tới Côn Lôn học huyền vi,

Long ngâm Hổ khiếu rõ ràng nghe.

Trong miệng Cam Lồ thường nhỏ xuống,

Đơn Điền thường luyện Nhật Nguyệt tinh.

Quần Tiên Châu Ngọc viết:

Nhất điểm Đan Dương sự quýnh biệt,

 一 點 丹 陽 事 迥 別,

Tu hướng Khảm trung cầu xích huyết.

 須 向 坎 中 求 赤 血.

Tróc lai Ly vị chế Âm Tinh,

 捉 來 離 位 制 陰 精,

Phối hợp điều hòa hữu thời tiết.

 配 合 調 和 有 時 節.

Muốn luyên Nội Đơn phải hiểu rành.

Phải từ quẻ Khảm lấy Dương Tinh,

Thay thế quẻ Ly hào chính giữa,

Phối hợp, điều hòa có thời tiết.

Kim Đan Tâp viết:

Hà xa ban vận thượng Côn sơn,

 河 車 搬 運 上 崑 山,

Bất động khiên hào đáo Ngọc Quan.

 不 動 縴 毫 到 玉 關.

Diệu tại nhập môn lao bế tỏa,[12]

 妙 在 入 門 牢 閉 鎖,

AÂm Dương nhất khí tư ïtuần hoàn.

 陰 陽 一 氣 自 循 環.

Hà xa vận chuyển tới Côn Lôn,

Không cần vất vả thấu Ngọc Quan.[13]

Hay là biết giữ đầu óc sáng

Âm Dương nhất khí tự tuần hoàn.

Nguyên Nhất Ca viết:

Đáo thử đắc Nhất phục vong Nhất,

 到 此 得 一 復 忘 一,

Khả dữ Nguyên Hóa đồng xuất một.

 可 與 元 化 同 出 沒.

Thiết nhược chấp nhất bất năng vong,

 設 若 執 一 不 能 忘,

Đại tự si miêu thủ không quật.

 大 似 痴 貓 守 空 窟.

Đạt được Nhất rồi lại quên Nhất,[14]

Sẽ cùng Tạo Hóa đồng xuất một.

Nếu như chấp nhất không quên được,

Sẽ giống mèo ngu, giữ hang không.

Bạch Ngọc Thiềm viết:

Hống Tâm luyện Thần Xích Long Tính,

 汞 心 煉 神 赤 龍 性,

Diên thân ngưng Khí Bạch Hổ Mệnh.

 鉛 身 凝 氣 白 虎 命.

Nội ngoại hỗn vô nhất điểm âm,

 內 外 混 無 一 點 陰,

Vạn tượng quang trung ngọc kính thanh.

 萬 象 光 中 玉 鏡 清.

Trong Hống luyện phanh Xích Long, Tính,

Diên thời ngưng khí Bạch Hổ, Mệnh.

Thần Khí trong ngoài sạch hết Âm,

Đại đan trong sáng ắt mau thành.

Thuần Dương Tập viết:

Đạo đắc Kiền Khôn tổ,        盜 得 乾 坤 祖

Âm Dương thị bản tông.      陰 陽 是 本 宗

Thiên Hồn sinh Bạch Hổ,    天 魂生 白 虎

Địa phách sản thanh long.  地 魄 產 青 龍

Vận bửu Nê Hoàn trụ,         運 寶 泥 丸 住

Ban Tinh nhập Thổ cung.   搬 精 入 土 宮

Hữu nhân minh thử pháp,   有 人 明 此 法

Vạn tải mạo như đồng.        載 貌 如 童

Trộm được Kiền Khôn tổ,

Thấy căn bản Âm Dương.

Thiên Hồn sinh Nguyên Khí,

Địa Phách hóa Nguyên Thần.

Nê Hoàn đem báu lại,

Tinh Hoa tới Thổ Cung.

Ai mà biết phép đó.

Muôn năm trẻ như đồng.

Bão Nhất Tử (Hiển Đạo đồ) viết:

Tạo đạo nguyên lai bổn bất nan,

 造 道 原 來 本 不 難,           

Công phu chỉ tại định trung gian,

 工 夫 只 在 定 中 間.

AÂm Dương thượng hạ thường thăng giáng,

 陰 陽 上 下 常 升 降,

Kim Thủy chu lưu tự phản hoàn.

 金 水 周 流 自 返 還.

Tử phủ, Thanh Long giao Bạch Hổ,

 紫 府 青 龍 交 白 虎,

Huyền cung địa trục hợp Thiên Quan,

 玄 宮 地 軸 合 天 關.

Vân thu vũ tán Thần thai tựu,

 雲 收 雨 散 神 胎 就,

Nam tử sinh nhi bất đẳng nhàn.

 男 子 生 兒 不 等 閑.

Nguồn đạo tìm ra chẳng khó khăn,

Công phu chỉ tại Định trung gian.

Âm Dương thượng hạ thường thăng giáng,

Nguyên Khí trong ta mặc phản hoàn,

Tử phủ, Thanh Long giao Bạch Hổ,

Huyền cung Địa Trục hợp Thiên Quan.

Kim Đan ngưng kết Thánh Thai hiện,

Nam tử sinh con chuyện phi thướng.

Huyền Áo Tập vân:

Yếu thức Huyền Quan đoan đích xứ,

 要 識 玄 關 端 的 處,

Nhi nữ tiếu chỉ Tối Cao Phong.

 兒 女 笑 指 最 高 峰.

Thượng tối Cao Phong tú thả kỳ,

 上 最 高 峰 秀 且 奇,

Bỉ ngạn mông mông sinh tử chi.

 彼 岸 蒙 蒙 生 紫 芝.

Chỉ thử tiện thị Trường Sinh dược,

 只 此 便 是 長 生 藥,

Vô hạn tu hành nhân bất tri.

 無 限 修 行 人 不 知.

Muốn biết Huyền Quan ở chốn nao.

Người chỉ vẽ cho tại đỉnh đầu.

Đỉnh đầu chốn ấy, ôi sao đẹp,

Bên bờ còn có cỏ Linh Chi.

Linh Chi là chính Trường Sinh dược,

Chuyện ấy xưa nay ít ai tri.

Hứa Tuyên Bình (Huyền Châu Ca) viết:

Thiên thượng Nhật đầu địa hạ chuyển,

 天 上 日 頭 地 下 轉,

Hải để thuyền quyên Thiên thượng phi.

 海 底 嬋 娟 天 上 飛.

Kiền Khôn, Nhật Nguyệt bản bất vận,

 乾 坤 日 月 本 不 運.

Giai nhân đẩu bính chuyển kỳ ki.

 皆 因 斗 柄 轉 其 機.

Nhân Tâm nhược dữ Thiên Tâm hợp,

 人 心 若 與 天 心 合,

Điên đảo Âm Dương chỉ phiến thì.

 顛 倒 陰 陽 止 片 時.

Hổ Long chiến bãi Tam Điền tĩnh,

 虎 龍 戰 罷 三 田 靜.

Thập thủ Đan Kinh chủng tại Nê.

 拾 取 丹 經 種 在 泥.

Vừng Nhật trên Trời, dưới đất quay,

Vừng Trăng đáy biển thượng thiên phi.

Kiền Khôn, Nhật Nguyệt vốn không chuyển.

Chuyển vận là do Đẩu Bính xoay.

Nhân Tâm nếu với Thiên Tâm hợp,

Âm Dương điên đảo chỉ phút giây.

Nguyên Thần Nguyên Khí đà kết hợp,

Đem đến Đan Kinh, chủng tại nê. (Nê Hoàn)

Quần Tiên Châu Ngọc Ca viết:

Diên tư Hống, Hống tư Diên.

 鉛 思 汞 汞 思 鉛,

Đoạt đắc Kiền Khôn Tạo Hóa quyền,

 奪 得 乾 坤 造 化 權.

Tính Mệnh đô lai lưỡng cá tự,

 性 命 都 來 兩 個 字,

Ẩn tại Đan Kinh thiên vạn thiên.

 隱 在 丹 經 千 萬 篇.

Diên mơ Hống, Hống mơ Diên.

Đoạt được Kiền Khôn, Tạo Hoá quyền.

Tính Mệnh xưa nay chỉ hai chữ,

Ẩn tại Đan Kinh thiên vạn thiên.


[1] Huỳnh Đình Kinh, Nội Cảnh, ch. VII.

[2] Huỳnh Đình Kinh, Nội Cảnh, ch. VII.

[3] Huỳnh Đình Kinh, Nội Cảnh, ch. VII.

[4] Như vậy Chân Nhất chi đạo đã dấu tại Nê Hoàn Cung, trong đầu não con người.

[5] Đạo Đức Kinh, ch. 39.

[6] Hệ Từ Thượng, ch. XI.

[7] Cầm giữ được Thần. Ác = cầm, nắm lấy.

[8] Huỳnh Đình Ngoại Cảnh, ch. VI.

[9] Đơn Đạo thành.

[10] Nguyên Thần.

[11] Nguyên Khí.

[12] Bát môn chỉ bộ xương sọ.

[13] Thượng Đan Điền.

[14] Tức là vào được cảnh giới Vô.


1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13