TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ

» MỤC LỤC  |  NGUYÊN  |  HANH  |  LỢI  |  TRINH

LỢI TẬP

1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13


MÃO DẬU CHU THIÊN KHẨU QUYẾT

Đoạn trước nói về Kiền Khôn giao cấu, là nói về Ngoại Dược. Đoạn này nói về Mão Dậu chu thiên. Nói về Nội Dược.

Ngoại Giao Cấu là Sau lên Trước xuống. Một Thăng Một Giáng Nội Giao Cấu là Tả Tuyền, Hữu Chuyển, nhất Khởi, nhất Phục. Đôi đằng vận chuyến, giống như Tuyền Ki, cho nên Nguỵ Bá Dương nói: Tuần Hoàn tuyền ki, thăng giáng thượng hạ, chu lưu lục hào, Nan dĩ sát đổ 循 環 旋 璣, 升 降 上 下, 周 流 六 爻, 難 以 察 睹 (Tuyền Ki tuần hoàn, lên xuống, dưới trên, chu lưu sáu hào, khó mà lường được). Người đời chỉ biết Kiền Khôn giao cấu, mà không biết Mão Dậu Chu Thiên, như có xe không bánh, như thuyền không lái. Nếu muốn chở xa, làm sao mà được?

Cho nên Chỉ Huyền Thiên viết:

Luân Hồi, Ngọc Thố dữ Kim Kê,

 輪 回 玉 兔 與 金 雞,

Đạo tại nhân thân nhân tự mê.

 道 在 人 身 人 自 迷.

Mãn mục tận tri điều Thuỷ Hỏa,

 滿 目 盡 知 調 水 火,

Đáo đầu kỷ cá thức Đông Tây?

 到 頭 幾 個 識 東 西.

Nhật nguyệt hai vầng luôn thăng giáng,

Đạo tại nơi người, người chẳng biết,

Suốt ngày chỉ học điều Thủy Hỏa,

Đông Tây tuần hoàn lại chẳng hay.

Đông là Mộc (Tính), Tây là Kim (Tình). Một vật phân đôi, nên mới Đông Tây gián cách.

Nay nhờ Đẩu Bính Tuyền Ki oát chuyển, nên Mộc Tính ái Kim, Kim Tình luyến Mộc, hai bên giao kết, nên Kim Mộc tương giao, Thủy Hỏa tương tế, nên Đan Kinh gọi là Hòa hợp Tứ Tượng.[1]

Cho nên Trương toàn Nhất (Diên Hỏa bí quyết) nói:

Đại dược chi sinh hữu thời tiết,

 大 藥 芝 生 有 時 節,

Hợi mạt, Tí sơ, chính bán dạ.

 亥 末 子 初 正 半 夜.

Tinh thần tương cấu hợp quang hoa,

 精 神 相 媾 合 光 華,

Hoảng hoảng hốt hốt sinh minh nguyệt,

 恍 恍 惚 惚 生 明 月,

Cấu bãi lưu hạ phún bào nhiên,

 媾 罷 流 下 噴 泡 然,

Nhất Dương lai phục hưu khinh tiết,

 一 陽 來 復 休 輕 泄,

Cấp tu bế tại Thái Huyền Quan,

 急 須 閉 在 太 玄 關,

Thủy bức Dược quá Vĩ Lư Huyệt,

 水 逼 藥 過 尾 閭 穴.

Thái thời dụng mục thủ Nê Hoàn,

 采 時 用 目 守 泥 丸,

Thùy hạ tả thượng thả ngưng yết.

 垂 下 左 上 且 凝 歇.

Vị chi chiêm lý não thăng huyền.

 謂 之 瞻 理 腦 升 玄.

Hữu biên phóng hạ phục khởi triết,

 右 邊 放 下 復 起 折.

Lục lục số hoa dược thăng Kiền.

 六 六 數 華 藥 升 乾.

Dương cực Âm sinh vãng hữu thiên.

 陽 極 陰 生 往 右 遷.

Tu khai quan môn dĩ thoái Hỏa,

 須 開 關 門 以 退 火,

Mục quang hạ chúc thủ Khôn điền.

 目 光 下 矚 守 坤 田.

Hữu thượng tả hạ phương ngưng trụ,

 右 上 左 下 方 凝 住,

Tam bát số Liễu nhất chu thiên.

 三 八 數 了 一 周 天.

Thử thị thiên nhiên chân hỏa hậu,

 此 是 天 然 真 火 候,

Tự nhiên thăng giáng, tự sưu thiêm.

 自 然 升 降 自 抽 添.

Dã vô Huyền Vọng dữ Hối Sóc.

 也 無 弦 望 與 晦 朔.

Dã vô Mộc Dục cộng Trường Thiên.

 也 無 沐 浴 共 長 篇.

Dị danh tiễn trừ thí dụ tảo,

 異 名 剪 除 譬 喻 掃,

Chỉ tư lưỡng cú thị Chân Thuyên.

 只 斯 兩 句 是 真 詮.

Đại dược sinh ra có thời tiết,

Cuối Hợi, đầu Tí lúc nửa đêm.

Nguyên Tinh, Nguyên Thần đồng kết hợp,

Quang hoa rực rỡ như Minh Nguyệt.

Kết hợp xong rồi lưu Phún Bào.

Nhất Dương lai phục không khinh tiết,

Mau đem về dấu tại Huyền Quan.

Nước bức Dược qua Vĩ Lư Huyệt,

Hái thuốc, mắt hướng về Nê Hoàn,

Lim dim tả vãng, thượng ngưng kết.

Dùng công lực mắt vận chuyến óc,

Đem thẳng Nội Đan về Nê Hoàn.

Hữu biên phóng hạ, phục khởi triết,

Lên xuống tuần hoàn 36 sáu lần.

Dương cực Âm sinh rồi Hữu chuyển,

Rồi phải mở cửa để Thoái Hỏa,

Mắt đưa xuống dưới giữ Khôn Điền.

Tòng Hữu biên thượng, Tả biên hạ,

Ba tám: hăm bốn một Chu Thiên.

Lúc ấy Tự Nhiên Chân Hỏa Hậu,

Tự nhiên thăng giáng, tự sưu thiêm,

Hết còn Huyền Vọng, còn Hối Sóc,

Hết còn Mộc Dục hết Trường Thiên.

Dị danh tiễu trừ, thí dụ bỏ,

Chỉ còn Hai Chữ ấy Chân Thuyên.

Phép này dùng sau phép Kiền Khôn Giao Cấu, thì Kim Đơn sẽ không hao tán. Trước hết, đem Pháp Khí trụ Thái Huyền Quan (Vĩ Lư), rồi hành khí tới Khôn Tề (Rốn). Lâu sau, sẽ từ phía tả đưa lên Kiền Đỉnh (Đỉnh Đầu). Ngưng một chút, rồi từ phía Hữu giáng xuống Đan Điền (Rốn). Thế là một độ. Rồi lại từ Rốn lên đỉnh đầu, rồi lại từ Đỉnh Đầu xuống Rốn. Làm như vậy 36 lần, thế là tiến Dương Hỏa. Sau 36 lần đó sẽ khai quan để Thoái Âm Hỏa. Lại khởi từ Rốn, tòng Hữu mà đi lên đỉnh Đầu. Rồi lại theo tả biên mà về Rốn. Xoay vòng như vậy 24 lần. Đó là thoái Âm Phù. 24 vòng là xong.

Trương Tử Dương nói:

Đẩu cực kiến tứ thời,                        斗 極 建 四 時

Bát tiết vô bất thuận.                         八 節 無 不 順

Đẩu cực thiệt ngột nhiên,                 斗 極 實 兀 熱

Khôi Tiêu tự di động.                         魁 杓 自 移 動

Chỉ yếu lưỡng nhãn kiểu.                 只 要 兩 眼 皎

Thượng hạ giao tương tống.           上 下 交 相 送

Tu hướng tĩnh trung hành,               須 向 靜 中 行

Mạc hướng mang lý tống.                莫 向 忙 里 送

Bắc đẩu định tứ thời,

Bát tiết không sai thác.

Bắc Đẩu vốn không động,

Đuôi sao Khuê xoay vần.

Chỉ cần tinh đôi mắt,

Trên dưới trông cho rành.

Xem sao cần tĩnh lãng,

Lòng phải thật quang minh.

Tại sao phải dùng mắt sáng suốt? Thưa vì mắt là Dương Khiếu. Toàn thân con ngưới là Âm, chỉ có một điểm Dương ấy mà thôi. Ta dùng một điểm Dương ấy, từ dưới lên trên, từ trái sang phải, chuyển vận vô cùng, để chiến thoái quần Âm. Như vậy Dương Đạo ngày một trưởng, Âm đạo ngày một tiêu. Cho nên Dịch Kinh nói: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng 龍 戰 于 野 其 血 玄 黃 (Ngoài đồng Rồng đánh lộn nhau, Máu phun chan chứa pha màu vàng đen).[2] Lại có thể khiến cho một khí lưu hành, tuần hoàn trên dưới, nên công năng của mắt thì thật là lớn vậy.

Vả khi con người vừa mới kết thai, Thiên Nhất sinh Thủy, thì Tròng Đen sinh trước, Đồng Tử sinh sau, thuộc Thận; Địa Nhị sinh Hỏa, mà có hai vành mắt; thuộc Tâm. Thiên tam sinh Mộc, mà có tròng đen, thuộc gan; Địa tứ sinh Kim, mà có tròng trắng, thuộc phổi; Thiên Ngũ sinh Thổ, mà có da trên dưới mắt, thuộc Tì.

Cứ xem như thế, thì tinh hoa ngũ tạng đều phát nơi mắt. Sau khi Thầy ta chỉ Khiếu cho ta, ta quan sát thai những người bị tiểu sản, hay thai trâu bò, hay xem trứng khi chưa thành con, thì bao giờ cũng thấy đôi mắt sinh trước khi tạng phủ thành hình, cho nên tôi biết đôi mắt là «Tiên Thiên Chi Linh», quán xá của Nguyên Thần đến đó du chơi.

Hoàng Cực Kinh Thế viết:

Thiên chi Thần, Thê vu mục,

 天 之 神 棲 于 目,

Nhân chi Thần, Phát vu mục.

 人 之 神 發 于 目.

Thần của Trời, Ngự đôi mắt.

Thần con người, Phát tại mắt.

Lớn thay là câu nói: Nhân chi Thần phát vu mục. 人 之 神 發 于 目.

Khi sinh thân, thì vật đó sinh ra trước; khi thân diệt, thì vật đó mất đi trước. Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ kết hợp tại đấy, Linh khí của Tâm, Can, Tì, Phế, Thận tập trung tại đó. Nước rãi, nước mắt, Tinh, Tân, Khí, Huyết, Dịch bảy thứ đó đều kết tụ tại đó. Nó lớn thì thiên địa không chỗ chứa, nó nhỏ thì thì hào mao cũng không nạp. Đó há chẳng phải là báu vật trong thân ta hay sao?

Nội chỉ Thông Huyền Quyết viết:

Hàm quang tiện thị Trường sinh dược,

 含 光 便 是 長 生 藥,

Biến cốt thành Kim Thượng Phẩm Tiên.

 變 骨 成 金 上 品 仙.

Nhãn Tình chính thật Trường Sinh Dược,

Biến Cốt thành Kim, Thượng Phẩm Tiên.

Thượng Dương Tử viết:

Huyền vi diệu quyết vô đa ngôn,

 玄 微 妙 訣 無 多 言,

Chỉ tại Nhãn tiền nhân bất cố.

 只 在 眼 前 人 不 顧.

Huyền vi diệu quyết chẳng nhiều lời,

Rành rành trước mắt người chẳng ngó.

Sùng Chính Thiên vân:

Ban vận hữu công liên trú dạ,

 搬 運 有 功 連 晝 夜,

Oát tuyền chí diệu thể Tuyền Ki.

 斡 旋 至 妙 體 璇 璣.

Nội khí vận hành Liên trú dạ,

Mắt xoay kỳ diệu giống Tuyền Ki.

Hoả Hầu Ca vân:

Dục thấu Huyền Huyền tu cẩn độc,

 欲 透 玄 玄 須 謹 獨,

Cẩn độc công phu cơ tại mục.

 謹 獨 工 夫 機 在 目.

Chuyên Tâm cẩn thận thấu Huyền Cơ,

Cẩn Thận công phu do mắt đó!

Trần Nê Hoàn nói:

Chân Âm Chân Dương thị Chân Đạo,

 真 陰 真 陽 是 真 道,

Chỉ tại nhỡn tiền hà viễn thảo.

 只 在 雅 前 何 遠 討.

Chân Âm Chân Dương là Chân Đạo,

Nó ngay trước mắt, chớ tìm xa!

Tiết Đạo Quang nói:

Phân minh chỉ tại nhỡn tình tiền,

 分 明 只 在 眼 睛 前,

Tự thị thời nhân bất kiến Thiên.

 自 是 時 人 不 見 天.

Phân minh trước mắt chẳng xa vời,

Chỉ tại con người chẳng thấy Trời.

Lưu Hải Thiềm viết:

Hạ giáng thượng thăng tuần cốc trục,

 下 降 上 升 循 轂 軸,

Tả toàn hữu phúc hợp khu cơ.

 左 旋 右 覆 合 樞 機.

Hạ giáng, thượng thăng theo cột sống,

Tả toàn, hữu chuyển hợp Khu Cơ.

Vương Tử Chân nói:

Tạc tiêu Xá Nữ khải Linh phi,

 昨 宵 奼 女 啟 靈 扉,

Khuy kiến thần tiên hội Tử Vi.

 窺 見 神 仙 會 紫 薇.

Bắc Đẩu, Nam Thần tiền hậu bố,

 北 斗 南 神 前 後 布

Lưỡng luân Nhật Nguyệt vãng lai phi.

 兩 輪 日 月 往 來 飛.

Đêm qua Xá Nữ (Nguyên Thần) mở cửa ra.

Nhìn thấy Thần Tiên họp đỉnh đầu.

Nam Tào, Bắc Đẩu sau trước bố,

Nhật Nguyệt hai vầng bay lại qua.

Tiêu Tử Hư nói:

Như Long dưỡng châu thường tự cố,

 如 龍 養 珠 常 自 顧,

Như Kê phục noãn thường tự bão,

 如 雞 伏 卵 常 自 抱,

Kim Dịch Hoàn Đơn tại nhãn tiền,

 金 液 還 丹 在 眼 前,

Mê giả đa nhi ngộ giả thiểu.

 迷 者 多 而 悟 者 少.

Như Rồng có ngọc thường lưu ý,

Như Gà ấp trứng cũng như y.

Kim Dịch Hoàn Đơn, trước mắt có,

Biết ra thì ít, mê lại nhiều.

Trần Túy Hư nói:

Bất thị đăng quang Nhật Nguyệt tinh,

 不 是 燈 光 日 月 星,

Dược Linh tự hữu dị thường minh.

 藥 靈 自 有 異 常 明.

Thùy Liêm cửu thị quang minh xứ,

 垂 帘 久 視 光 明 處,

Nhất lõa đường đường hiện Bản Chân.

 一 顆 堂 堂 現 本 真.

Không đèn, mà độc ánh sáng sao,

Nội dược trong người sáng biết bao.

Chỉ cần nhắm mắt, nhìn trong dạ,

Đan điền sẽ rạng ánh Bản Chân.

Thuý Hư Thiên viết:

Mạc vị Kim Đơn sự đẳng nhàn,

 莫 謂 金 丹 事 等 閑,

Thiết tu cần khổ lực toàn nghiên,

 切 須 勤 苦 力 鑽 研.

AÂn cần hảo dữ sư tư luận,

 殷 勤 好 與 師 資 論,

Bất tại tha đồ tại mục tiền.

 不 在 他 途 在 目 前.

Đừng nói luyện Đơn là chuyện dễ,

Ắt phải khổ công phải điều nghiên.

Cần Thầy chỉ dần, cần tha thiết,

Đạo Trời trước mắt chớ nhọc tìm.

Huyền Áo Tập viết:

Thanh Ngưu nhân khứ kỷ đa niên,

 青 牛 人 去 幾 多 年,

Thử Đạo phân minh tại mục tiền.

 此 道 分 明 在 目 前.

Dục thức mục tiền Chân Đích xứ,

 欲 識 目 前 真 的 處,

Nhất đường phong lãnh, nguyệt Thuyền quyên.

 一 堂 風 冷 月 嬋 娟.

Thanh ngưu (Nguyên Thần) tìm kiếm mất nhiều năm,

Kỳ thật Nguyên Thần tại mục tiền,

Hiểu được Đôi Ngươi (2 tròng mắt) chân tác dụng,

Nhất Dương lai phục, nội đan thành.

Trần Nê Hoàn nói:

Đại Đạo phân minh tại nhãn tiền,

 大 道 分 明 在 眼 前,

Thời nhân bất hội ngộ qui tuyền.

 時 人 會 誤 歸 泉,

Hoàng Nha bản thị Kiền Khôn khí,

 黃 芽 本 是 乾 坤 氣,

Thần Thủy căn cơ dữ Hống liên.

 神 水 根 機 與 汞 連.

Đại Đạo (Chân Lý) phân minh tại mục tiền,

Thế nhân không biết tưởng Qui Tuyền.

Nội Đan chính thực Kiền Khôn Khí,

Thần Thủy với Hống vốn tương Liên.

Huyền Học Thống Tông viết:

Kỷ hồi đẩu sưu thượng Côn Lôn,

 幾 回 抖 搜 上 崑 崙,

Vận động Tuyền Ki tạo hóa phân.

 運 動 璇 璣 造 化 分,

Trú Dạ chu nhi hoàn phục thủy,

 晝 夜 周 而 還 復 始,

Anh Nhi tòng thử trường tồn.

 嬰 兒 從 此 長 存.

Mấy lần vận dụng thấu Nê Hoàn,

Bắt chước Tuyền Ki chuyển Tuần Hòan,

Ngày đêm phản phục xoay vần chuyển,

Nội đơn nhờ thế sẽ trường tồn.

Quan Ngô (Phàn Hoặc Ca) viết:

Giá cốt đổng, đại áo diệu,

 這 骨 董 大 奧 妙,

Diệu tại thường hữu quan kỳ khiếu.

 妙 在 常 有 觀 其 竅,

Thử khiếu phân minh tại mục tiền,

 此 竅 光 明 在 目 前.

Hạ sĩ văn chi tắc đại tiếu.

 下 士 聞 之 則 大 笑.

Điều tạp nhạp này thật áo diệu,

Áo diệu tại chỗ quan kỳ khiếu.

Khiếu này thật sự trước mắt thôi,

Hạ sĩ nghe qua tức phá cười.

Kim Đơn phú viết:

Long hô, hổ hấp,

 龍 呼 虎 吸,

Hồn thôn Phách thổ.

 魂 吞 魄 吐.

Nam Bắc giao cấu vu Thủy Hỏa,

 南 北 交 媾 于 水 火,

Mão Dậu luân hoàn vu Tí Ngọ.

 卯 酉 輪 還 于 子 午.

Tổng quát Kiền Khôn chi sách,

 總 括 乾 坤 之 策,

Ưu du biến hóa chi chủ,

 優 游 變 化 之 主.

Tử Mẫu bao la vu khuông quách.

 子 母 包 羅 匡 廓.

Dục dưỡng nhân y vu đỉnh phủ.

 育 養 因 依 于 鼎 釜.

Nguyên Thần, Nguyên Khí tương hô hấp,

Hồn Phách thôn thổ tương y

Nam Bắc giao cấu vu Thủy Hỏa,

Mão Dậu xoay vần qua Tí Ngọ,

Tóm lại luyện đan chi kế sách,

Đều lấy an nhàn làm pháp thuật.

Đôi mắt hàm tàng đủ Thần Khí,

Dưỡng dục chung qui tại Đan Điền.

Quần Tiên Châu Ngọc vân:

Giác trung giác Liễu, ngộ trung ngộ,

 覺 中 覺 了 悟 中 悟,

Nhất điểm Linh Quang vô già hộ.

 一 點 靈 光 無 遮 護.

Phóng khai Liệt diệm chiếu Ta Bà,

 放 開 烈 焰 照 娑 婆,

Pháp giới tung hoành độc hiển lộ.

 法 界 縱 橫 獨 顯 露.

Giá ta tiêu tức thậm u vi,

 這 些 消 息 甚 幽 微,

Mộc nhân diêu chỉ bạch vân qui,

 木 人 遙 指 白 雲 歸,

Thử cá Huyền Quan khẩu nan thuyết,

 此 個 玄 關 口 難 說,

Mục tiền kiến đắc tiện vong ki.

 目 前 見 得 便 忘 機.

Giác ngộ chung qui giác ngộ rồi,

Ánh sáng Đan Điền chẳng dấu ai,

Phóng khai lửa rực chiếu Ta Bà,

Pháp giới tung hoành độc hiển lộ,

Tin tức này xem thật u vi.

Mộc nhân chỉ nẻo bạch vân qui,

Điều huyền diệu ấy khó nói rõ,

Mắt thấy qua rồi sẽ quên Ki (Cơ sảo)

Nam Cốc Tử nói:

Chí đạo bất viễn hề,          至 道 不 遠 兮

Hằng tại mục tiền.        恆 在 目 前

Thiết thiên địa chi cơ hề,       竊 天 地 之 機 兮

Tu thành thai tiên.         修 成 胎 仙

Chí Đạo chẳng có xa,

Luôn ở trước mắt ta.

Trộm được bí quyết Trời,

Tu sẽ thành Đại Tiên.

Thuần Dương Tử vân:

Hữu nhân vấn ngã tu hành pháp,

 有 人 問 我 修 行 法,

Dao chỉ thiên biên nhật nguyệt luân.

 遙 指 天 邊 日 月 輪.

Có kẻ hỏi ta phép tu hành,

Ta chỉ trời cao Nhật Nguyệt luân.[3]

Các lời trên là của chư tiên. Tất cả đều luận về phép Hành Khí. Tiết bàn về Công Phu này với tiết bốn là cùng một Lý. Trên dưới tương ứng nhau, như một chuỗi ngọc. Thái thủ dược vật thì từ Khúc Giang (Hạ Đan Điền). Tụ Hỏa mà đem nó về Đỉnh Đầu. Nguyên Thần Nguyên Khí kết hợp với nhau ở Thượng Đan Điền. Tuần hoàn vận chuyển lên kết hợp tại Thượng Đan Điền.

Trương Tử Dương nói:

Đô lai phiến hướng Công Phu,         都 來 片 餉 工 夫

Vĩnh bảo vô cùng dật lạc.                   永 保 無 窮 逸 樂

Chỉ mất chút công phu,

Có vô cùng an lạc.

Khinh thanh thời ngưng tụ Nê Hoàn, trọng trọc thời xuống Khí Hải. Ngày đêm cứ thế mà thêm bớt, cứ thế mà hoà hợp. Hống ngày một nhiều Diên ngày một ít. Lâu ngày Diên sẽ cạn, Hống sẽ khô. Kết thành một viên ngọc Ma Ni. Đó là Kim Dịch đại hoàn đơn vậy.

Cho nên Mã Nghi Thủ viết:

Thu đắc thủy trung Kim,      收 得 水 中 金

Thái đắc Bồ Đề Tử,               采 得 菩 提 子

Vận đắc Côn Lôn phong,    運 得 崑 崙 風

Trường thọ vô sinh tử.          長 壽 無 生 死

Thu được Chân Nguyên Khi,

Hái được hạt Bồ Đề,

Đem lên được Nê Hoàn,

Là được Trường Sinh mãi.

Cho nên Diên ở trong Khảm, vốn là Chân Tinh của cha, Hống ở trong Ly vốn là Chân Huyết của Mẹ, Khi Kiền Thể bị phá, thì hai vật chia thành hai. Cho nên thường nhân thì ngày một đi vào con đường ly cách, ly cách mãi cho đến chết. Còn các bậc chí nhân, thì phòng theo cái thể của hai quẻ Kiền Khôn, và cái dụng của quẻ Khảm, Ly; đoạt thần công; cải thiên mệnh; đem Diên của quẻ Khảm, chế Hống của quẻ Ly; đem hào dương của quẻ Khảm, thay hào Âm của quẻ Ly. Như vậy Âm sẽ tận, Dương sẽ thuần, trở lại Thuần Kiền.

Cho nên Trương Tử Dương nói:

Thủ tương Khảm vị tâm trung thật,

 取 將 坎 位 心 中 實,

Điểm hóa Ly cung phúc nội Âm.

 點 化 離 宮 腹 內 陰.

Tự thử biến thành Kiền kiện thể,

 自 此 變 成 乾 健 體,

Tiềm tàng phi dược tận do Tâm.

 潛 藏 飛 躍 盡 由 心.

Hãy lấy Hào Dương nơi quẻ Khảm,

Điểm hóa quẻ Ly hào giữa Âm.

Do đó biến thành Kiền kiện thể.

Tiềm tàng thăng giáng sẽ do tâm.

Lời bình của Dịch giả:

Như vậy bí quyết luyện đơn chỉ là: Thủ Khảm điền Ly, biến Ly thành Kiền. Nghĩa là làm sao vứt bỏ hết những gì nhơ nhớp xấu xa trong con người, chỉ còn lại những gì trong sáng, tinh hoa nhất của con người. Y thức như Nho gia nói: Khử nhân dục, tồn Thiên Lý, hay nhân dục tận, Thiên Lý hiện.

______________________________

[1] Tứ tượng là Nhãn Nhĩ Tị Thiệt, tương ứng với Can Thận Tâm Phế, cho thấy sự thể hiện của Thủy Hỏa Kim Mộc, đó là điều xưa nay không tiết lộ.

[2] Hào Thượng Lục, Quẻ Khôn.

[3] Tức chỉ Nguyên Khí, Nguyên Thần.


1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13