TRUNG DUNG TÂN KHẢO

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

QUYỂN I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN

» Mục lục » Chương: 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16


Chương 15

DI TÍCH TRUNG ĐIỂM VÀ VÒNG DỊCH TRONG HOÀN VŨ

 

M ột học thuyết chẳng qua là để xiển minh các vấn đề về Thượng đế, nhân loại, vũ trụ và những liên quan tương ứng.

Học thuyết cao cho nhìn thấy bao quát vấn đề, học thuyết thấp chỉ bàn giải về một vài khía cạnh. Một học thuyết cao còn có tính cách phổ quát, nghĩa là ta có thể dùng nó mà giải thích hết các học thuyết cổ kim; được vậy chính vì nó phát xuất từ căn nguyên và cũng là vì nó là tuyệt điểm tuyệt đích.

Khi đã hiểu vi ý Trung Dung, khi đã hiểu lẽ «đồng qui nhi thù đồ», khi đã xác định rằng Trung Dung là tâm điểm bất biến, mà Dịch là vòng tròn chu luân vạn hữu biến thiên, ta có thể dùng tâm điểm và vòng tròn làm chìa khóa để mở chốt then các học thuyết, làm kim chỉ nam để nghiên cứu các tượng hình, hoạ bản, đền đài miếu mạo Đông Tây mà tìm cho ra ẩn ý cổ nhân.

Mục đích là để:

«Rẽ sóng thời gian tìm nghĩa lý.

Khơi lòng trời đất lấy tinh hoa

Và cũng là để chứng minh rằng muôn vạn ngả đường đều gặp gỡ ở Trung tâm, và chủ trương, đường lối xưa nay của các thánh hiền trên hoàn vũ chẳng phải là sai ngoa vu khoát.

1. Ý nghĩa tâm điểm và vòng tròn trong các học thuyết Âu Á

Như trên đã chứng minh, đối với Nho giáo, thì tâm điểm, trung điểm là Trời là Thái cực, mà vòng tròn bên ngoài là các hào quái tượng trưng cho vạn hũu biến thiên.

Lạ thay, khi khảo sát lại các học thuyết cổ từ á sang Âu, ta đều thấy quan niệm này được lưu truyền với những tượng hình y thức như vậy.[1]

Đi ngược dòng thời gian, trở về với những văn minh tối cổ như Ai Cập, Chaldée, trở về với những học thuyết tối cổ như Vệ Đà, Pythagore,[2] Zoroastre,[3] đâu đâu ta cũng thấy tâm điểm tượng trưng Hóa công bất biến, và vòng bên ngoài chỉ sự luân lưu biến ảo của hiện tượng và vạn hữu.

Trong các di tích cổ Ai cập, ta thấy một hình vòng tròn trong tâm có chữ AUM, bên ngoài có hai con rắn song song tượng trưng quyền năng và trí tuệ Tạo hóa.

Chữ w.ee hay AUM hay Thủy Chung ở giữa vòng tròn là Thượng đế tuyệt đối toàn năng.[4]

Hình 26: Tâm điểm và vòng tròn trong huyền học Ai cập.
(Egyptian point within a circle)

... «Theo kinh Veda, thì trước khi muôn loài được tạo dựng, chỉ có Brahman, Bản thể thuần túy, không hình thức sắc tướng; đó là Mahâ Bindu, là Tuyệt điểm, là Thần, Khí... Tuyệt điểm ấy siêu hình, vô trụ, vô lượng, nhưng chính là căn nguyên phát huy muôn vật.

Tuyệt điểm ấy ví như trung tâm vòng Hoàng đạo phát sinh mười hai cung.

Tuyệt điểm ấy có thể sánh với Hư không của Veda (Shunya) vì chưa bị ảo ảnh bên ngoài khoác lên trên mình các lớp hình thức sắc tướng, hay có thể sánh với Hư vô của J. Boehme.[5]

... «Còn vòng tròn bên ngoài tượng trưng sự phát triển muôn mặt của Tâm Điểm, hay của Căn nguyên tuyệt đối... Thế tức là vòng tròn[6] tượng trưng cho Vô hạn hiển dương trong hữu hạn bằng biến chuyển tuần hoàn, vãng lai, tiêu trưởng...» [7]

Đứng về một phương diện khác, thì tâm điểm là tự do khinh khoát; còn vòng tròn bên ngoài là vòng định mệnh gồm đủ các ảnh hưởng chi phối con người.[8]

Bao lâu con người còn ở các vòng, lớp bên ngoài thì dĩ nhiên sẽ bị ngoại cảnh chi phối, bao lâu còn hòa mình với phù du ảo ảnh thì cũng sẽ bị tàn phai, hủy hoại như phù du ảo ảnh. Còn trái lại nếu biết thu hồi thần trí cho qui tụ về Tâm, thì sẽ trở nên một «lữ khách» trên con đường về Trung điểm, sẽ hòa mình với Trung điểm, Tuyệt điểm, và lúc ấy các duyên nghiệp bên ngoài không còn ảnh hưởng tới mình được nữa...

René Guénon, nhà huyền học Pháp cũng viết: «Sở cư của Brahma» chính là ở tâm điểm vũ trụ và nhân loại, còn hình thức sắc tướng có thể nói được là đều ở quanh bên ngoài, trên vòng «bánh xe vạn hữu».[9]

Thay vì dùng tâm điểm và vòng tròn, nhiều học thuyết dùng những hình tương đương thay thế: Trong các hình vẽ Trung Hoa thời cổ, thường có hình Phục Hi cầm «Qui» (compas) Nữ Oa cầm «Củ» (thước vuông).[10]

«Qui» để vẽ vòng tròn, «Củ» để vẽ 2 đường thẳng góc trong vòng, xác định tâm điểm. Vì thế, người xưa còn gọi Trung điểm là Thập tự nhai 十 字 街 .[11]

 

Hình 27: Hình Phục Hi cầm Qui, Nữ Oa cầm Củ

 

Hình 28: Biểu tượng Qui Củ của hội Tam Điểm

Dấu hiệu của hội Tam Điểm (Franc Maconnerie) là hình một chiếc «Qui» xếp trên một hình thước thợ (Củ), ôm lấy chữ G vào trong, mà G, tức là God Iod, là Thượng Đế.[12]

Hình 29: Hình Thái Cực (hay Lưỡng Nghi) cầm Qui Củ.

Khoa Huyền Học cũng thường vẽ hình Lưỡng Nghi (Rebis), một bên cầm Qui, một bên cầm Củ hợp nhất thành Thái Cực (Mercure).[13]

Biểu hiện của phái Rose-Croix, là một bông hồng (hình tròn đặt trên hình chữ thập.

René Guénon và C.G. Jung đều cho rằng những kiểu kính hoa hồng, hoa thị (rosace) ở Âu Châu cũng vẫn chỉ có một ngụ ý như tâm điểm và vòng tròn[14] hay hình hoa sen ở Á Châu.

Tóm lại, dẫu nói xa hay nói gần, nói thật thà chất phác, hay nói bóng gió, tất cả các hiền nhân, thánh triết đều truyền thụ cho nhau Trung Đạo cao siêu...

Nghiên cứu thuật luyện đan Âu Châu thời cổ, ta cũng thấy cổ nhân đã dùng tâm điểm và vòng tròn[15] để toát lược chủ trương, và kỹ thuật luyện kim, hay nói cho đúng hơn, phương pháp giải thoát con người, thần thánh hóa con người.

Tâm điểm chính là bản thể, là nguồn gốc con người, là tiên đan, là nguồn mạch trường sinh, là thiên địa chi tâm, là «ngọc châu viên giác» (lapis philosophorum) mà con người cần tìm cho ra.[16]

Ngoài những từ ngữ, cổ nhân còn dùng nhiều hình vẽ để xiển minh chân lý đó.[17]

C.G. Jung, sau khi đã nghiên cứu, trong vòng ba mươi năm, các «mandala» từ Đông sang Tây đã quả quyết chắc chắn là tâm điểm những họa bản ấy cốt để ám chỉ «trung tâm», «chân tâm», «đạo tâm» chứ không phải «vọng tâm», «nhân tâm», con người riêng tư, phù phiếm bên ngoài,[18] còn vòng tròn bên ngoài tượng trưng công trình tu luyện để tiến về tâm điểm đó.[19]

Như thế, mục đích các đan gia (alchimiste) chân chính chẳng qua đều cốt chỉ vẽ cho con người tìm ra bản thể mình;[20] dùng thời gian, vạn hữu, thân xác, tâm thần làm công cụ để tìm ra và tiến tới bản thể.[21]

Thế tức là tìm ra được kim đan,[22] thế tức là tìm được thuốc trường sinh bất tử...

3. Tâm Điểm và Vòng Hoàng Đạo

Muốn hiểu rõ thêm ý nghĩa của tâm điểm bên trong và vòng tròn bên ngoài, chúng ta hãy nghiên cứu các vòng Hoàng đạo, hay vòng Dịch.

Các nước Babylone, Ai Cập, Do Thái, Ba Tư, ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, Nam Mỹ, Bắc Mỹ, các nước Hồi giáo v.v... đều có dùng vòng Hoàng Đạo với 12 cung gọi là vòng Zodiaque.

Chữ Zodiaque (Zoe = Sự sống, diakos = bánh xe) có nghĩa là Bánh xe sự sống,[23] hay vòng chu luân gồm các kiếp sống khác nhau, hay vòng tuần hoàn của các quần sinh vũ trụ.

Đại khái, vòng Hoàng Đạo gợi ra sự biến thiên, thăng (évolution), trầm (involution) không ngừng của quần sinh vũ trụ. Nó gợi ra muôn vàn nếp sống khác nhau thường xuyên diễn tiến trên hoàn vũ.[24]

Nhưng thực ra, tâm điểm mới là đầu giây mối nhợ. Tâm điểm hay Trung điểm của các vòng Hoàng đạo tượng trưng cho Tuyệt đối thể, vô hình tích, cho nguyên tinh, nguyên khí nguyên thần sẽ phát huy ra quần sinh vũ trụ. Đó là Đạo thể, là Hư vô, hư vô vì huyền diệu không thể suy cho thấu, nghĩ cho cùng được.

Tâm điểm ấy các nhà huyền học Cổ kim gọi bằng nhiều danh hiệu: Ether, Akasha, Brahma, Hư vô (Shunya), Chakravarti, kim đan, huyền cơ bất động (le moteur immobile d'Aristote) hay Chân Như, Bản lai diện mục, v.v.[25]

Tâm điểm ấy chính là Cực (Pôle), là điểm bất biến làm khu nữu cho vũ trụ xoay quanh; còn sự tuần hoàn của vũ trụ thường được tượng trưng bằng bánh xe.Đó là một quan niệm phổ quát thấy ở khắp các dân nước.[26]

Người Ai Cập gọi tâm điểm là Thượng đế duy nhất, đấng tạo thành vũ trụ quần sinh, hay là Tem nghĩa là chủ chốt khu nữu của sự vận chuyển các tinh cầu.[27]

Tâm điểm cũng còn được mệnh danh là thần Mercure, là Tạo hóa phát sinh muôn ngàn biến ảo.[28]

Trong hình vẽ le Tarot,[29] ta thấy ở tâm điểm của hoàn vũ có viết bốn chữ Yod he Vau He, nghĩa là Yahwe, là Thượng đế...

Vòng Hoàng đạo Phật giáo, hay nói đúng hơn, vòng luân hồi của Phật giáo thường gồm bốn vòng tròn đồng tâm.[30]

Vòng trong bỏ trống tượng trưng cho Hư vô (Sunya hay Sunyata)[31] hay có vẽ hình Phật Vairocana. Các vòng tròn bên ngoài tượng trưng cho tham, sân, si, lục đạo và thập nhị nhân duyên. Cho nên, vòng bên ngoài tức là vòng luân hồi, hay vòng thập nhị nhân duyên cốt mô tả những cuộc sống phù du, những ảo ảnh của cuộc đời:

Sự luân lạc của con người bắt đầu do dốt nát u muội, [32] để rồi hành động mù quáng chuốc mua oán nghiệt vào người, [33] chuyên lo tìm hiểu ngoại cảnh [34] để cho các hình ảnh phù du hư ảo bên ngoài [35] xâm nhập vào ngũ quan và ý chí, [36] đâm ra vấn vương [37] bịn rịn [38] khao khát say mê, [39] cố gắng tìm cầu cho được, [40] để làm của sở hữu riêng tư. [41] Mỗi lần say mê theo vật chất phù sinh như vậy là như bắt đầu sinh ra ở một kiếp người [42] để rồi tàn tạ già nua chết chóc [43] cùng với sự điêu tàn của ảo ảnh ...

Suy nghiệm ra thì Vairocana 毗 盧 舍 耶 Tì lô xá gia) tức là Trung điểm, là Tuyệt đối, là Pháp thân, là Bản lai diện mục, là Tịnh mãn 淨 滿 , là «Biến nhất thiết xứ», là Đại Nhật Như lai, là nguồn sống muôn vật.

Khi đã đối chiếu các học thuyết, ta có thể kết luận như sau:

Cổ nhân dùng tâm điểm và vòng tròn để tượng trưng cho hai phương diện biến hằng của vũ trụ. Tâm điểm bất biến hằng cửu là căn bản, là Đạo, là Thể. Vòng tròn bên ngoài biểu hiện sự di động biến thiên, phần công dụng.[44]

Vòng tròn bên ngoài tức là:

- Vòng Dịch Nho giáo

- Vòng Sinh mệnh (Rota fati et generationis     của phái Orphisme)

- Vòng số mệnh (Khoa học Tarot)

- Vòng Luân hồi (Phật giáo)

- Chu kỳ Abred (học thuyết Bardisme)

- Vòng Hoàng đạo (chiêm tinh học)

- Ouroboros (con chu xà của Thông thiên học)

- Brahma luân (Brahma Wheel) trong Bà La Môn giáo[45]

Người ta còn dùng vòng tròn tượng trưng cho các tuần trăng, ngụ ý biến thiên phiêu lãng v.v...

Trong con người, thì vòng Dịch, hay vòng Hoàng Đạo gồm hai mạch: Nhâm (Âm, chạy phía trước), Đốc (Dương chạy phía sau lưng). Còn Trung điểm là Nê Hoàn Cung (xem hình 30). Nê hoàn cung hay Não thất ba (3è ventricule) cũng như nội tẩm trong các đền đài, là nơi Hóa Công ngự trị (Garbhagrita, chambre de l'Embryon), vì đó chính là trung tâm điểm vũ trụ, nơi mà căn nguyên tuyệt đối của mọi hiện tượng ngự trị.[46]

Hình 30: Tâm điểm và vòng Hoàng Đạo trong con người 

Hình 30: Hai mạch Nhâm Đốc và Nê Hoàn Cung
Nhìn sang Ấn Độ giáo ta thấy: Sách áo Nghĩa Thư chỉ đường về tâm điểm, trung điểm tâm thần như sau:

«Tâm người trăm linh mốt kinh,

Mà duy có một thượng đình đi lên.

Cứ theo đường ấy mà men,

Rồi ra ắt được tới miền trường sinh.» [47]

Nơi khác lại viết:

«Nơi nào mà mọi thần kinh,

Như đũa gặp trục trong vòng bánh xe.

Nơi thần kinh hội tụ về,

Là nơi Tuyệt đối chưa hề hóa thân.

Cố tìm Tuyệt đối, Chân Tâm,

Rồi ra sẽ thoát biển trần hôn mê...» [48]

Tóm lại, vòng chu luân, vòng dịch, vòng luân hồi, vòng Hoàng đạo, v.v. chẳng qua là cốt tượng trưng vạn hữu, tượng trưng hiện tượng và mọi sự biến thiên chất chưởng bên ngoài. Vòng chu luân hay xa luân ngoài ra còn chỉ: thăng (ascension), giáng (descente); trầm hiện (précipitation), siêu thăng (sublimation); Thượng đế xuống với con người, và con người lên cùng Thượng đế.[49] Còn tâm điểm thời học thuyết nào cũng dùng để chỉ Bản thể, hay Tuyệt đối.[50] Suy ra thì con người cần phải biết dùng vạn hữu làm phương tiện để tiến về Tuyệt đối, nhìn hiện tượng để suy ra bản thể, thấy biến thiên chất chưởng bên ngoài để lập chí đi tìm trường tồn vĩnh cửu bên trong, bỏ tiểu tiết chi mạt, mà tìm cầu cho được đại thể, căn nguyên. Đó cũng chính là con đường muôn dặm con người phải đi để trở về cùng Thượng đế, đó cũng chính là một chương trình hoạt động vĩ đại mà Trời đã uỷ thác cho con người thực hiện, trước khi vào an nghỉ tại Trung cung...

Theo đà thời gian, con người sẽ phát huy dần dần hết mọi nguồn năng lực, và cuối cùng sẽ biết sử dụng thần lực của mình. Theo đà thời gian con người sẽ trừ khử được mọi sự ngộ nhận về thân thế mình, và đến chung cuộc sẽ nhận biết mình là ai, nghĩa là sẽ nhìn nhận ra bản thể tối hậu của mình, sự trường tồn vĩnh cửu mình trong Thượng đế... [51]

4. Tâm điểm và vòng tròn trong khoa Kiến trúc và Mỹ thuật

Mới đầu, người xưa thường coi những danh sơn, cao sơn là trung tâm điểm vũ trụ là nơi mà trục hoàn vũ xuyên qua trái đất, nơi đất trời gặp gỡ, nơi mà những người hiền lương nhờ ảnh hưởng trời đất giao hội có thể trở thành hiền thánh. Đó là những danh sơn, cao sơn như Côn Lôn, Phú Sĩ, Elbrouz, Thabor, hay Olympe.

Nhưng dần dà các đền đài miếu mạo lớn, những công trình kiến trúc lớn cũng được coi là trung tâm điểm vũ trụ như đền thờ Jerusalem, Kim Tự Tháp, v.v.[52]

Các nhà khảo cổ, quan sát các đền thờ, các thành thánh xưa (ví dụ như Angko-Thom) đã nhận thấy rằng khi xây cất các công trình vĩ đại ấy, cổ nhân muốn lấy gỗ, đá để xây lại một vũ trụ nhỏ, cho nên trung cung bao giờ cũng dành để thờ các đấng Tối cao, còn bên ngoài hoặc là trạm trổ tiên thánh, quần sinh, hoặc là có thành quách bao bọc, tượng trưng cho núi non; có hào lạch, tượng trưng cho sông biển. Con người muốn đi vào Trung cung muốn lên tới thần minh sẽ phải, trèo non, sẽ phải lướt thắng các trở ngại, sẽ phải đi quanh quất, tiến tới mãi mới đến được chứ không phải là chuyện dễ...[53]

Tâm điểm và vòng tròn với những ẩn ý sâu xa của nó (Hóa công và hoàn vũ)[54] còn là đề tài cho nhiều công trình kiến trúc, hay đền đài miếu mạo.

Chính điện trong khu đền Bayon ở Angkor-Thom là hình một Pháp luân lớn có tám tai hoa tỏa ra tám hướng như bông sen tám cánh, như bát chính đạo, ở giữa có chuyển luân Thánh Vương.[55] Ở Ấn Độ, các di tích bằng đá xếp vòng tròn, còn được thấy ở nhiều nơi. Di tích cổ nhất có lẽ là ở Dipaldiana.[56]

Trong những cổ tích của đạo Druidisme, ta cũng thấy nhiều tảng đá khổng lồ xếp thành vòng tròn như ở Stonehenge, và ở Avebury.[57]

Các đền thờ Druide cũng xếp theo hình tròn; ở trung tâm lại có đặt một tảng đá lớn, chắc chắn là tượng trưng cho đấng Tối cao (di tích «Y Cromlech» ở Pembroshire hay di tích ở gần Keswich trong vùng Cumberland nước Anh).

Đối với các dân miền Na Uy, Thụy điển thì đền thờ thần Odin gồm có 12 tòa xếp vòng tròn dành cho mười hai vị thần chính, có một chính tòa ở Trung cung dành cho chúa thần Odin. Những cổ tích này còn thấy ở Scania, Zeland, Jutland...[58]

Thật là:

«Một trời bát ngát trăng sao,

Vần xoay âu cũng nương vào Trung Cung,

Sen kia nghìn cánh nở tung,

Nhưng mà gốc gác vẫn cùng một tâm.» [59]

Khảo sát các truyền thuyết Do Thái,[60] Công Giáo,[61] Ba Tư,[62] Atlante,[63] hay Hi Lạp,[64] Ấn Độ,[65] v.v. ta đều thấy cây trường sinh, hay núi hạnh phúc đều ở trung tâm một khu vườn huyền diệu có bốn con sông chảy vào.

Áp dụng những truyền thuyết này vào công cuộc khảo sát con người, ta cũng thấy ở trung tâm não bộ, phía mặt dưới, có vòng Willis với bốn động mạch phát ra tứ phía não bộ.

Nếu đúng vậy, thì cây trường sinh, hay nguồn hạnh phúc cũng chẳng phải ở Doành Châu, Phương Trượng, mà đã ở sẵn ngay trong đầu não con người.[66]

Khảo sát khoa trang trí và hội họa từ Á sang Âu, ta thấy một loại hình ảnh rất đặc biệt mà C.G. Jung gọi là «Mandala». Những Mandala này hoặc vuông, hoặc tròn; tâm điểm thường có những hình Chúa, Phật, hay Shiva, ám chỉ căn nguyên vũ trụ; vòng ngoài là những thần nhân hay, thần vật tượng trưng tứ tượng.[67]

Bên ngoài chỉ ly tan, chia rẽ, hay là sân khấu để đóng tấn kịch đời, còn tâm điểm là nơi hòa hợp,[68]«kim hoa», «kim thân», hay là «cố hương, cố quốc».

Các mandala ngụ ý dạy người tìm về gốc, trở về nguồn,[69] cốt giúp con người tìm ra chân tâm bất biến của mình. Mà chân tâm ấy chẳng ở đâu xa, nó ở ngay trong ta.[70]

5. Tầm quan trọng của Trung điểm trong thiên văn và địa lý

Copernic đã đặt mặt trời vào tâm điểm thái dương hệ, cho địa cầu và các hành tinh khác xoay trên các vòng tròn bên ngoài, khác hẳn với quan niêm của Ptolémée lấy trái đất làm tâm điểm vũ trụ.

Có thể nói rằng quan niệm của Copernic về thiên văn tương-ứng vói những quan niệm triết-học Đông Tây lấy «Đạo» (Logos) làm tâm điểm con người. Quan niệm Ptolémée tương ứng với những quan niệm triết học lấy «tâm hồn» (âme) làm tâm điểm con người.

Các dân tộc xưa thường coi tâm điểm, trung diểm là quê hương của họ. Theo Do thái thì trung điểm hoàn cầu là Jerusalem, là núi Sion.

Pindare, Sophocle, Tite Live, Ovide, v.v. chủ trương Athènes hay Delphes là trung tâm trái đất (omphales).[71] Người Trung Hoa thì lấy núi Côn Lôn làm trung điểm. Ấn Độ giáo và Phật giáo lấy núi Tu Di làm tâm điểm. Dân Babylone lấy thành Babylone làm tâm điểm hoàn cầu.

Nếu chỉ xem các hình vẽ không, ta sẽ tưởng người xưa thiển cận, chỉ biết nước mình mà không biết nước người, nhưng nếu hiểu theo nghĩa bóng, thì tất cả đều ngụ một ý: Tu-Di, Côn Lôn, tâm điểm địa cầu, tâm diểm vũ trụ chẳng có ở đâu xa, nó ở ngay trong lòng ta...[72]

6. Bí quyết tìm Đạo tìm trời

Chúng ta đã cùng nhau dùng thần trí đi chu du khắp hoàn vũ, chúng ta đã cùng nhau rong ruổi trên triền không gian thời gian của ngót sáu ngàn năm lịch sử nhân quần, đã bao quát các học thuyết Đông Tây, đã dùng chữ Trung làm chìa khóa mở kho tàng tư tưởng các hiền nhân quân tử mọi nơi mợi đời, chúng ta cần phải thâu lượm được một kết quả gì cụ thể và hữu ích.

Kết quả ấy là bí quyết tìm đạo, tìm Trời của người xưa.[73]

Cổ nhân đã lao tâm khổ tứ vẽ các tượng hình, xây các miếu mạo có dụng tậm dụng ý như trên, cốt là đã chỉ vẽ cho ta con đường trở về căn nguyên, con đường «hoàn nguyên phản bản».

Học thuyết nào cũng dạy ta tìm cho ra tâm điểm, trung điểm tức là tìm cho ra tuyệt đối thể, tìm cho ra chân thiện mỹ, tìm cho ra Trời ẩn áo trong đáy lòng vũ trụ và lòng người.

Trở về trung điểm là giải thoát vì tâm điểm tượng trưng cho tự do khinh khoát, còn vòng chu luân tượng trưng cho nghiệp chướng cho sự thằng thúc, sự chi phối.[74]

Trở về trung điểm tức là tìm được nguồn mạch trường sinh. Thông thiên học vẽ dấu hiệu chữ thập Ankh ở trung điểm, có ấn tín vua Salomon (âm dương thác tống) và con chu xà Ouroboros bao quanh (thiên địa tuần hoàn chung nhi phục thủy) cũng không ngoài ý đó, vì chữ thập Ankh tượng trưng cho sự sống.[75]

Theo «le Livre des morts» của Ai Cập thì trở về Trung cung, Trung điểm là kết hợp với thần Osiris, là phục sinh, đó là lên núi thánh Ament nơi thần Osiris ngự trị ở Trung cung, Trung điểm của hoàn vũ.[76]

 Trở về Trung điểm là đạt đạo Trung Dung, là đắc đạo, là phối thiên. Pho Kinh Dịch viết ra cũng không ngoài mục đích cao cả ấy. Vì Kinh Dịch cốt chỉ vẽ cho nhân loại đường trở về cùng Thượng đế.[77]

 Cho nên, nếu không tìm ra được Trung cung, trung điểm để kết hợp với Trời tức là phụ lòng các tiên hiền, tiên thánh: 

«Đường về chẳng rõ tiêu hao

 làm sao biết được lối vào Trung cung

 Thế là bát quái thành không,

 Thế là vòng Dịch uổng công vẽ vời .

 Bên trong mù mịt tăm hơi,

 Làm sao biết được bên ngoài mà mong,

 Thế là bố trí như không,

 Ngũ hành thác loạn rối tung, rối bời.» [78]

Tìm được Trung cung, Trung điểm, tức là tìm ra tâm ấn, tâm pháp, tìm ra bí quyết tương truyền giữa các thánh hiền muôn thủa:

«Ta nay truyền dạy đạo trời,

 Nương theo Dịch lý dạy người điểm trung.

 Huyền quan ở chính giữa lòng,

 Giữ chừng tý ngọ, khơi giòng thần tiên.

 Hồi quang soi tỏ căn nguyên,

 Căn nguyên rạng rỡ ước nguyện thỏa thuê.» [79]

Tóm lại, nếu thực tình chúng ta có thiện tâm, thiện chí, muốn tìm Đạo, tìm Trời chúng ta phải đi vào nội tâm để mà tìm kiếm. Đạo, Trời không phải là chuyện bán mua, quảng cáo nơi ngã ba, đầu chợ;[80] nước Trời chẳng có đến rộn rã trong rước sách, trống chiêng, mà đến âm thầm, mà đã ẩn tàng ngay trong tâm hồn ta.[81] Vậy muốn tìm ra chân sư[82] bày tỏ cho mình các lẽ huyền vi, chỉ giáo cho mình phương pháp tu luyện trường sinh bất tử, ta phải như Tề Thiên đại thánh tìm về Phương Thốn Sơn, tìm tới ‘Tà nguyệt tam tinh động’, mà Phương Thốn Sơn[83] chính là ‘tấc lòng’ ta, mà tà nguyệt tam tinh động chính là tâm ta viết bằng ‘nửa vành trăng khuyết và ba sao giữa trời’.[84]

 Đi vào nội tâm, gạt cho hết mây mù dục vọng tăm tối, không sờn lòng, không lui gót, theo gương các hiền thánh muôn đời tiến bước, chắc chắn có ngày chúng ta sẽ thấy Trời, thấy Đạo hiện ra rực rỡ giữa tâm hồn ta.[85] Khi ta đạt được mục phiêu cao diệu ấy, ta cũng tự nhiên sẽ hấy thánh hiền sau trước chẳng hề có nói sai ngoa. Dịch và Trung Dung thực ra cũng không có bí quyết nào cao diệu hơn ...

 


CHÚ THÍCH

[1] Cf. A.Tanon, Théosopie et Science, p.44 et ss., 48 et ss.:

... Symbole d'Isvara c'est le cercle avec un point au centre. Le centre universel n'est pas, dit-il (René Guénon) «nulle part» étant absolument transcendant par rapport à la manifestation tout en étant intérieur à toutes choses.

- C'est au contraire la circonférence qui est partout puisque tous lieux de l'espace, toutes choses manifestées ne sont que des éléménts du «courant des formes», des points de la circonférence de la «roue cosmique».

- Un texte taoïste (Tchoang Tseu) dit: «Le point qui est le pivot de la norme est le centre immobile d'une circonférence sur le contour de laquelle roulent toutes les contingences, les distinctions et les individualitiés.» (Cf. Tchoang Tseu, ch. 2, Traduction de Léon Wieger).

[2] Cf. René Guénon, Le Roi du Monde, p.18,19,20.

- Senard, Le Zodiaque Clef de l'ontologie appliqué à la psychologie, p.10 et ss.

- Dr R. Allendy, Le Symbolisme des Nombres, p.16,17.

- La Doctrine Secrète IV, 134, IV 123 et 133.

- Ezechiel I, 4, 15, 16, 18, 21.

- Théosophie et Science, p.48, 49.

[3] The Signet of Zoroaster. - the wise man of the East - the Point within the Circle... was hailed among all nations as the Beginning and the End, the Cause and Effect, the Principle of Life and Action which pervades, animates and governs the universe. (The New Age Magazine, March 1964, Vol.72, No3, p.39, 40)

[4] Point within a circle. Mackey's revised encyclopedia, vol.II, p.187.

[5] Cf. Mr Senard, Le Zodiaque, Clef de l'ontologie appliqué à la psychologie, p.10.

... Avant la création, disent les textes védantins, il n'y avait rien que Brahman, l'être pur, le non-manifesté, l'indifférencié, Mahâ Bindu, le Point suprême, Energie-Conscience-Potentialité. Afin de nous donner une idée du Premier Principe, car nos facultés imparfaites ne nous permettent pas de concevoir adéquatement la Réalité en soi, ce Point peut être comparé au point métaphysique sans grandeur, ni position. Du Point Suprême il est dit qu'il est «la Source de toutes les directions de la Création».

Ce point peut être assimilé au Centre du Zodiaque d’où émanent ses douze rayons en direction des douze signes.

Il peut être comparé au Vide du Véda (Shunya) qui n'a aucune forme tant qu'il n'est pas encerclé par la Mâyâ (A. Avalon) ou encore au Rien de J. Boehme...

[6] Vòng tròn (le cercle) hoặc là Hình cầu (la Sphère) cũng vậy.

[7] Le Cercle symbolise l'extension dans toutes les directions possibles du Point ou Principe suprême se manifestant sur un plan ou en un cycle limité dont l'accomplissement prépare un cycle ultérieur de manifestation. La période involutive de la manifestation de l'Energie-Conscience (mouvement de haut en bas est représenté par l'hémi-cycle gauche du cercle et la période évolutive de cette manifestaion (mouvement de bas en haut par l'hémi-cycle droit.

Le Cercle symbolise donc l'Infini se manifestant dans le fini par un mouvement involutif - évolutif.

(Mr Senard, Le Zodiaque, Clef de l'Ontologie, appliqué à la psychologie, p.14)

[8] Cf. Senard, Le Zodiaque, p.36: Ce centre et cette circonférence expriment en outre le rapport de la liberté et de la nécessité... S'il (l'homme) s'identifie avec le monde manifesté et transitoire, alors il bubit le sort de ce monde. Mais si retirant son Energir. Soi - Conscience en son "Centre", il devient un pèlerin de la "Voie du milieu", puis cette Voie même; il se soustrait à la necessité qui règne à la circonférence et ke qui s'y passe ne peut plus l'atteindre. Vivant en l'essence, il est libre de participer ou non aux vissicitudes de la substance...

[9] Ce «séjour de Brahma» est véritablement le point Central, tant dans l'ordre cosmique que dans l'ordre humain, tandis que tout ce qui est de la manifestation et surtout de la manifestation formelle, est extérieur et «périphérique», si l'on peut s'exprimer ainsi, appartenant exclusivement à la circonférence de la «roue des choses». (René Guénon, L'homme et son devenir selon le Védanta, p.96)

... The Center of the Mandala corresponds to the calyx of the Indian lotus, seat and birthplace of the Gods. (C.G. Jung, Psychology and Alchemy, p.171)

[10] Trung Hoa ngũ thiên niên sử, q.1, tr.7.

[11] Xem Lưu Nhất Minh, Chu Dịch Xiển Chân, chương Trung Đồ. Bài này cũng đã được tục biên và phiên dịch nơi phụ lục IV sách này.

[12] «Yet I this forme of formeless Deity,

 Drewe by the Square and Compasses of our creed.» (John Davies, Summa Totalis or All in All and the Same Forever, 1607. Mackey’s revised Encyclopedia, p.64.

 The letter G then has in Freemasonry the same force and signification that the letter Yod had among the Cabaliste. It is only a symbol of the Hebrew letter and as that is a symbol of God. (Mackey’s revised Encyclopedia, p.385)

[13] C.G. Jung, Psychology and Alchemy, p.357.

[14] Cf.: René Guénon, Le roi du monde, p.19.

 C.G. Jung, Psychology and Alchemy, p.171.

[15] Habentibus symbolum facilis est transitus (for those who have the symbol the passage is easy). - An alchemical verbum magistri from Mylius. (Philosophia reformala, p.239; C.G. Jung Psychology and Alchemy, p.215-217)

[16] Tâm điểm, bản thể được gọi bằng nhiều danh hiệu trong khoa luyện đan Âu Châu; xin đan cử ít nhiều danh từ: Mercurius; Prima materia (nguyên thể); Archetype of the divine child (Hóa nhi); Anthropos (chân nhân), Hermès; philosophical gold (Kim đan), Quintessence (Tinh); Unum; Unica res; Monad (Nhất), Rebis (Thái Cực); the drug of immortality (thuốc trường sinh) v.v...

Đọc: C.G. Jung, Psychology and Alchemy, đoạn the Materia prima, tr.304-331.

... Các đơn gia Trung Hoa thời cổ cũng dùng tâm điểm và vòng tròn để toát lược thuật luyện đan. Tâm điểm cũng là kim đan (hay Đạo, hay Thái Cực hay Cốc thần), các quẻ xếp vòng tròn ngoài tượng trưng cho lô đỉnh (Càn, Khôn), dược vật (Khảm, Ly), hỏa hầu (60, sáu mươi quẻ còn lại).

Xem các hình trong quyển Chu Dịch Xiển Chân của Lưu Nhất Minh. Cụ Nguyễn Minh Thiện (Tam tông Miếu) đã dịch ra Việt văn phần đầu và xuất bản.

[17] Cf. Các hình trong: C.G. Jung, Psychology and Alchemy:

Hình 8, tr.47: Tâm điểm là vũ trụ chi tâm (The Anima mundi, guide of mankind, herself guided by God).

Hình 20, tr.62: Tâm điểm là nơi «Loan phụng đồng minh» (The red and white - hermaphroditic - double eagle).

Hình 23, tr.65: Tâm điểm là nơi «Âm Dương giao thái» (the mystic vessel where the two natures unite - Sol et luna caduceus - to produce the filius hermaphroditus).

Hình 25, tr.69: Tâm điểm là nguồn sống (the fountain of life as fons mercurialis).

Hình 31, tr.79: Tâm điểm là đế đô, là thánh điện (The symbolic city as center of the earth).

Hình 51, tr.104: Tâm điểm là ngọc cung (The lapis sanctuary).

Hình 112, tr.214: Tâm điểm là Bộ Lông cừu vàng (la Toison d'or), v.v.

[18] Unless everything deceives us, they (the mandala) signify nothing less than a psychic center of the personality not to be identified with the ego. (Jung, Psychology and Alchemy, p.97)

[19] The circumambulatio means as always concentration on the center. (C.G. Jung, Psychology and Alchemy, p.180)

... Rota or opus circulatorium which serves the same purpose of sublimation. (ibid., p.365)

... It is to be noted that the wheel is a favourite symbol in Alchemy for the circulating process, the circulatio... The contemporary moral allegories of the wheel emphasize that the ascensus and descensus are, among other things, God's descent to man and man's ascent to God... (Ibid., p.157)

... There is a circle surrounded by rays of light in the center of the square.

The Scholium gives the following explation: reduce your stone to the four elements... and unite them into one and you will have the whole magistery.

The circle in the middle is called a mediator, making peace between enemies or (the four) elements... circulation of spirits or circular distillation that is the outside to the inside, the inside to the outside, likewise the lower and the upper, and when they meet together in one circle, you could no longer recognize what was outside or inside or lower or upper but all would be one thing in one circle or vessel...

For this vessel is the true philosophical Pelican, and no other is to be sought for in all the universe. This process is elucidated by the accompanying drawing. The quartering or the exterius, four rivers in and out of the inner «Ocean». (Ibid., p.123)

[20] Res ex qua sunt res, est Deus invisibilis et immobilis (That from which things arise is the invisible and immovable God). C. G. Jung, Psychology and Alchemy, p.309.

[21] Presumably the leftward circumambulation... is one of those paths to the center of the non-ego, which were also trodden by the medieval investigators when producing the lapis. (Ibid., p.122)

... Transmutemini in vivos lapides philosophicos (Transform yourselve into living philosophiccal stones). (Ibid., p.141)

[22] I may define "self" as the totality of the conscious and unconscious psyche, but this totality transcends our vision; it is a veritable lapis invisibilitatis... (Ibid., p.172)

[23] Bánh xe là một biểu tượng quan trọng trong các học thuyết vì nó có nhiều ngụ ý:

(1) Nó chỉ sự biến động, biến dịch.

(2) Nó chỉ sự tuần hoàn (the circulation, the circulating process) và gợi ra được hai chiều thăng (ascensus), giáng (descensus) của vạn hữu.

(3) Nó ám chỉ sự Trời xuống với Người, người lên với Trời (Suo nobis descensu ac salubrem dedicavit ascensum, nhờ sự xuống thế, ngài đã chuẩn bị cho ta được lên trời hạnh phúc sung sướng. Thánh Bernard).

(4) Nó ám chỉ các đức tính trung kiên tùng phục, tiết lộ, bình thản, khiêm cung cần thiết cho công phu tu luyện.v.v...

(C.G. Jung, Psychology and Alchemy, p.157, 158)

[24] Sénard, Le Zodiaque: chef de l'ontologie appliqué à la psychologie. Collection de la Colonne Vendôme, p.16 et ss.

[25] Ibid., 10 et ss., 21 et ss.

[26] Cf. René Guenon, Le Roi du Monde, p.19: Le centre dont il s’agit est le point fixe que toutes les traditions s’accordent à désigner symboliquement comme le Pôle, puisque c’est autour de lui que s’effectue la rotation du monde, représenté généralement par la roue, chez les Celtes aussi bien que Chaldéens et chez les Hindous. Telle est la véritable signification du Swastika, ce signe que l’on trouve répandu partout de l’Extrême-Orient à l’Extrême-Occident et qui est essentiellement ‘Signe Du Pôle’... Le symbole celtique de la roue s’est conservé au Moyen Âge; on peut en trouver de nombreux exemples sur les églises romanes et la rosace gothique elle-même semble bien en être dérivée car il y a une relation certaine entre la rou et les fleurs emblématiques telles que la rose en Occident et le lotus en Orient…

[27] Ibid., p.21. - Eurel, Les Origines de la Genèse, p.128.

[28] Ibid., p.208.

[29] Papus, La Cabballe, p.94.

[30] A. Volguine. Cf: L'Esotérisme de l'Astrologie, tr.139; La Mystique tibétaine, tr.337 và tiếp theo.

[31] Hư vô không có nghĩa là tương đối hay vạn pháp, hay là hư không, mà trái lại nghĩa là tuyệt đối, hay là bản thể siêu việt.... cho nên chữ Hư vô (Sunyata) nên hiểu là tuyệt đối.

Empty (sunya) or emptiness (sunyata) is one of the most important notions in Mahayana philosophy and at the same time the most puzzling for non-Buddhists readers to comprehend. Emptiness does not mean «relativity» or «phenomenality» or «nothingness» but rather means the Absolute or something of transcendental nature... When Buddhists declare all things to be empty, they are not advocating a nihilistic view on the contrary an ultimate reality is hinted at, which cannot be subsumed under the categories of logic... Sunyata may thus often be most appropriately rendered by the Absolute. (D.T. Suzuki, Zen Buddhism, p.29)

[32] Vô minh (hình người đàn bà mù rờ rẫm)

[33] Hành = (hình thợ gốm)

[34] Thức = (hình khỉ leo cành)

[35] Danh sắc = (hình hai người ở chung một thuyền)

[36] Lục nhập = (hình sáu cửa sổ một căn nhà)

[37] Xúc = (hình cặp nhân tình nhìn nhau say đắm)

[38] Thụ = (hình người bị tên bắn vào mặt)

[39] Ái = (hình người uống rượu có đàn bà chuốc mời)

[40] Thủ = (hình người hái quả)

[41] Hữu = (hình hai người giao hoan)

[42] Sinh = (hình người đẻ)

[43] Lão tử = (hình người mang xác chết trên vai)

(Lama Govinda, Les fondements de la mystique tibétaine. Traduction française de Charles Andrieu et Jean Herbert, tr.333-347)

[44] La roue est un symbole du monde; la circonférence représente la manifestátion produite par les rayons émanés du centre.

Régénération, réalisation de l’harmonie universelle, l’évolution et le Karma sont les interprétations que l’on ne saurait éviter, surtout si l’on considère les deux figures, l’une préparée par les successions d’existence conscientes et raisonnées, est l’Elu, celui qui approche du terme de l’élevation finale; l’autre encore près de la matière attachée par yous les biens terrestres, échoué et devra recommencer ! ce sera pour elle l’obligation de rentrer dans le cycle. L’image de la Roue du samsara s’impose: du sein de ce tournoiement surgit l’espoir de l’être purifié qui s’élève en Brahma et demeure... Pour la théologie chrétienne, Dieu est au centre. (Jean Chabosseau, Le Tarot: Essai d’interprétation selon les Principes de l’Hermétisme, p.62)

[45] Svetasvatara Upanishad 1-6;6-1.

Brih. 6.2.15-16; Chand. 5,10; G.Bhagavah Gita 8.24-26.

[46] C’est ce centre du monde en effet qu’occupe l’Embryon d’or, Hiranyagarbha, figuration potentielle de toutes les possibilités, origine des expansions, foyer de rayonnment. Il est aussi ‘l’Hôte intérieur’ qui a son siège dans la caverne de ton cœur dont parle Shankarâchârya. Et parce qu’il n’est pas différent d’Agni, ‘Sache, dit la Katha Upanishad, que cet Agni qui est le fondement du monde éternel et par lequel celui-ci peut être atteint est caché dans la caverne (du cœur)’. (Pierre Grison, Angkor ou l’univers manifesté. France-Asie 114-115, p.357)

[47] There are a hundred and one channels of the heart.

One of these passes up to the crown of the head.

Going up by it, one goes to immortality Chandoguya 8. 6 - 6.

(Il sort du cœur 101 canaux. L'un deux communique avec la grande fontanelle. S'élevant par ce canal, l'homme (l'âme particulière) rejoint l'immortalité.)

[48] Where the channels are brought together

Like the spokes in the hub of a wheel

Therein He moves about,

Becoming manifold

Om! Thus meditate upon the Soul (Atman)

Success to you crossing to the farther Shore beyond darkness.

(Mundaka Up. 2. 2 - 6)

[49] C.G. Jung, Psychology and Alchemy, p.157.

[50] The Sidpe - Korlo or World Wheel represents the course of human existence in its various forms as conceived by the Buddhists...

... The mandalas (the ritual or magic circles) used in ceremonial are of great significance because their centers usually contain one of the highest religious figures: either Shiva himself - often in the embrace of Shakti- or Buddha, Amitabha, Avalokiteshvara or one of the great Mahayana teachers or simple the dorje, symbol of all the divine forces together, whether creative or destructive in nature.

The text of the Golden Flower, a product of Taoist syncretism, specifies, in addition, certain "Alchemical" properties of this center after the manner of the Lapis and the Elixir vitoe...

C.G.Jung, Psychology and Alchemy, p.93, 94, 95.

[51] En toi, mon Dieu, j'aurai ma solidité, ma fixité, mon être définitif (Saint Augustin).

[52] Le temple est aussi montagne, il est Centre du monde, à quoi tout se résume et se rallie: d'abord à Roluos, le Bakong; premier construit à Angkor, le Bahsei Chamkrong; puis Takeo, Baphuon, seront l'un et l'autre "montagnes d'or". C'est qu'en effet le Kun Lun, le Fuji, l'Elbrouz, le Thabor et l'Olympe, ne sont pas les seuls centres du monde, mais aussi les tours babyloniennes et la Grande Pyramide, les tours précolombiennes et le temple de Salomon. Les uns et les autres sont le point où l'Axis Mundi - le Shambha du Veda-issu du Ciel, touche à la terre, projection sur le plan terrestre de l'activité divine, point d'aboutissement aussi du cheminement horizontal à partir duquel "l'homme" véritable" pourra s'élever à la condition de «l’Homme universel"...

(Pierre Grison, Angkor ou l'univers manifesté, France Asie No 114- 115, p.357) -- Xin tham khảo: Mircea Eliade, Traité d'Histoire des religions - Epiphanies signes et formes p.191-207 et Espace sacré: temple, palais, "centre du monde" ib. 315 - 331.

[53] Dans l'Inde, l'intérieur comme l'extérieur des temples est un symbole du Cosmos et la cella qui renferme la divinité est assimilée au corps divin qui contient le germe sacré... mais chose curieuse, ce symbolisme hindou du temple-cosmos, représentation de l'univers se retrouve au Cambodge, non plus appliqué au temple lui-même mais à des ensembles, à des plans de ville (Angkor Thom), à des bassins (Néak Péan)...

... C'est ainsi que si le Bayon au Centre d'Angkor Thom symbolise le Méru... les remparts de la ville, le fossé qui les entoure, symbolisent les océans et les montagnes qui circonscrivent la terre...

(France Asie No114-115, Le Symbolisme des temples Hindous et Khmers, p.341 et ss)

... L'accès au centre royal du mandala est l'aboutissement d'un long voyage. Les enceintes sont autant de chaýnes de montagnes et les fossés des océans... (P.Grison, Angkor ou l’univers manifesté, France Asie, p.358)

[54] "The Signet of Zoroaster, the wise man of the East, the Point within the Circle, the Sign of the Sun is thus explained: As the sun is the ruler of the whole Terrestrial and Celestial world and the Source and Fountain of Light and Life to all the beings of Creation therein, in like manner as the Grand Architect of the Universe is the ruler and Source of Light and Life to the Whole Celestial and Terrestrial Universe, and as the Circle is the most comprehensive form possible in geometry, in which all other forms are contained, this signet is hailed among all nations as the Beginning and the End, the Cause and Effect, the Principle of Life and Action which pervades, animates and govern the Universe. (The New Age Magazine, March 1964, Vol.72, no3, p.39,40)

[55] Le massif central du Bayon s’épanouit, Dharmachakra à huit rayons, lotus à huit pétales, source des Huit sentiers de la voie, rose où concourent, de l’horizon, les huit directions de l’espace...

... Hiératique, Roi du monde au centre se l’Agartha régnant sur les quatre Lokapâlas, gardiens de souverain est l’immobile Chakravarti, ‘Monarque universel’, ‘Celui qui fait tourner la roue’. Il est en d’autres mots, vaishwânara, «l’Homme universel» lequel s’identifie à Hiranyagarbha: il est médiateur entre le Ciel et la terre. Cette fonction suprême est le signe de la connaissance: Elle seule conduit à la souveraineté. (Angkor ou l’univers manifesté, France-Asie 114-115, p.356 et ss.)

[56] Cf. Point within a circle. (Mackey’s revised Encyclopedia, vol.II, p.787.)

[57] Ibid., p.787.

[58] Ibid., p.787.

Cf. Léon Sprink, L’art sacré en Occident et en Orient, p.28:

... Au VIIe siècle, saint Maxime le Confesseur disait que par rapport à Dieu le cosmos est ordonné selon des cercles concentriques: au milieu il y a l’Eglise militante dont les membres deviennent fils de Dieu, mais le centre est formé par un cercle encore plus étroit: celui de l’Eglise triomphante, consommée dans l’union avec Dieu.

Chose significative: dans la même harmonie que les tracés des églises, nous trouvons les trois cercles dans une mosaïque du VIIe siècle qui est une figuration aniconographique de la Pentecôte sous la forme d’un triple crismon au baptistère d’Albenga en Italie…

[59] Nhất thiên tinh đẩu, vận dụng chỉ tại trung ương. Thiên biện liên hoa, căn đế sinh ư điểm trích. 一 天 星 斗 運 用 只 在 中 央 千 瓣 蓮 花 根 蒂 生 於 點 滴 (Tống: Ngô Cảnh Loan, Huyền không bí chỉ)

[60] Genèse, 2-8-14.

[61] Apocalypse de Saint Jean 22-1-2. Xem hình 67 tr.125 và hình 197 tr.354 trong Psychology and Alchemy của C.G. Jung về chúa Ki Tô ngự giữ 4 sông thiên đàng, giữa các thánh sử và giáo phụ, v.v.

[62] Mais très anciennement l’Iran, à qui nous devons le mot de ‘Paradis’, pardès qui signifie un jardin, avait adopté un troisième type, le vieux typesémitique du Tchahârbagh c’est-à-dire du Paradis des quatre fleuves, confluant au centre à l’intérieur d’une enceinte carrée très haute, dans un miroir d’eau qui devait faire l’objet de la contemplation. Les quatre fleuves arrivaient des quatre points cardinaux mais l’intérêt était au centre... (L’Âme de l’Iran, Editions Albin-Michel, p.97)

... Le maître du jardin est assis sur une terrasse devant un lac qui porte le nom de «l’eau de l’éternelle aurore» au milieu duquel s’élève une ýle inaccessible qui s’appelle «La Sainte Montagne des mille béatitudes.» (Ibid., p.95)

[63]... D’un massif montagneux central partant quatre fleuves coulant en direction des quatre points cardinaux. Ces quatre fleuves se déversent en quatre canaux qui les terminent en formant avec eux des angles droits. (Swastika= plan de l’Atlantide) -- Louis Chochod, Occultisme et Magie en Extrême-Orient, p.8.

[64] Kalypso était une des innombrables théophanies de la Grand Déesse qui se révélait ‘au centre du monde’, au côté de l’Omphalos, l’Arbre de Vie et les quatre sources. (Mircea Eliade, Traité d’histoire de religions, p.248)

[65]... Comparer la tradition indienne plaçant le centre du monde en un site élevé (région de l’Himalaya), d’où s’écoulent par quatre orifices en forme de tête d’animal les quatre fleuves (Sita, Gange, Indus, et Oxus) vers les quatre points cardinaux.

- cf.: Przyluski, La grande Déesse, 1950, p.66,67.

- Henri de Lubac, Aspects du Bouddhisme, p.163.

[66] cf.: C.G. Jung, Psychology and Alchemy:

... The ‘Os occiput’ is used in the work because ‘cerebrum est mansio partis divinoe. (The brain is the lodging house of the divine part). (‘Liber Platonis Quartuorum.’ 7, xxviii, p.124). The ‘occiput’ is the ‘vas cerebri’ (ibid., p.148). The brain is ‘...sedes animoe rationalis. Nam est triangulus compositione et est propinquius omnibus membris corporis at similitudiem simplicis...’ (...the seat of the rational soul. For it is triangular in composition (Shape) and is nearer to simplicity than all other parts of the body...) (ibid., p.127). It is the organ which is nearest to the simplicity of the soul, and is therefore the bridge to spiritual transformarion. (ibid., p.187)

[67] Just as the stupas preserve relics of the Buddha in their innermost Sanctuary, so in the interior of the lamaistic quadrangle, and again in the Chinese earth-square, there is a Holy of Holies with its magical agent, the cosmic source of energy, be it the God Shiva, Buddha, a bodhisatta or a great teacher. In China it is Kien-heaven - with the four cosmic forces radiating from it (fig. 61, Psychology and Alchemy).

And equally in the Western mandala of medieval Christendom the deity is enthroned at the center often in the form of the triumphant Redeemer together with the four symbolical figures of the evangelists. (ibid., fig. 62. C.G.Jung, Psychology and Alchemy, p.124)

[68] Mandala as symbol of unity. (C.G. Jung, Psychology and Alchemy, p.27)

[69]... the square corresponds to the temenos (fig.31, Psychology and alchemy), where a drama is taking place... The inside of the ‘Golden flower’ is a ‘seeding place’ where the ‘diamond body’ is produced. The synonymous term ‘the ancestral land’ may actually be a hint that this production is the result of integrating the ancestral stages. (Psychology and alchemy, p.124)

[70] Xem chú thích trang 282 của sách này.

Cf. The spirit of Prayer «Liberal and mystical writing of William Law», tr.14; Evelyn Underhill, Mysticism, tr.61:

... «there is a root or depth in thee», says Law, «from whence all these faculties come forth as lines from a center or as branches from the body of a tree. This depth is called the center, the fund or bottom of the soul. This dpth is the unity, the Eternity, I had almost said the infinity of the Soul for it is so infinite that nothing can satisfy it, or give it any rest, but the infinity of God...»

[71] Cf. Mircea Eliade, Traité d'histoire des religions, p.203: Ce que les habitants de Delphes appellent omphalos est fait en pierre blanche et considéré comme se trouvant au centre de la terre et Pindare, dans une une de ses odes confirme cette opinion...

[72] Xem chú thích ở các hình trong phụ bản IX.

[73] Theo Pythagore, tất cả mọi thế giới đều phát sinh từ một tâm điểm mà ông mệnh danh là "chân cảnh" (Plaine de vérité). Chân cảnh ấy hàm tàng khuôn mẫu, hình tượng muôn vật muôn đời. Từ nguồn mạch vĩnh cửu ấy, giòng suối thời gian sẽ chảy vào các thế giới bên ngoài. Thấy được các chân cảnh ấy, đối với nhân quần, là điều hy hữu ngàn vạn năm một thủa. Và tất cả các công trình học hỏi suy tư chính là để nhìn thấy chân cảnh đó với mọi sự đẹp đẽ ẩn áo bên trong... (... La plaine qui est au-dedans du triangle était le fondement et l’autel commun de tous ces mondes - qui s'appelait le champ ou la Plaine de vérité; dedans laquelle sont les desseins, les moules, les idées et les exemplaires de toutes ces choses qui furent onc et qui jamais seront; et à l'entour de ces idées étant éternité, le temps comme un ruisseau qui en sortait, coulait dedans ces mondes; et les âmes des hommes s’ils ont bien vécu en ce monde, en dix mille ans une fois les voient... toute la peine que l’on emploie à l'étude de la philosophie était pour parvenir à la vue de ces beautés-là, ou autrement c’était toute peine perdue) (Cf. De defectu oraculorum, Plutarque, 23. & Grande encyclopédie illustrée des sciences occultes - Dr. Néroman- Tome II chapitre V, page 97, 98, 99 - Nơi trang 99, D. Néroman có vẽ một họa bản để hình dung chân cảnh và 183 thế giới bao quanh chân cảnh ở trung điểm, còn 183 thế giới được xếp trên một vòng tròn bên ngoài.)

[74] Cf. Senard, Le Zodiaque, p.36; Cf. Ernest d'Aster, Histoire de la Philosophie, p.52.

... De Pythagore (580-500) nous savons qu'il fut un adepte de la doctrine de la transmigration des âmes. Né dans l'ýle de Samos, il se rendit plus tard dans l'Italie du Sud, la congrégation qu'il avait fondée à Crotone, et dont les rites et les règles de vie avaient pour but de libérer l'homme de la "roue de la fortune"...

[75] Cf. Philippe Eucausse, Sciences occultes, tr.106. Crux ansata - Mackey’s revised encyclopedia Vol.I.

[76] Cf. Le Zodiaque, p.251.

... Dans toute mystique, le but constant de l'être humain doit être l'élevation de l'esprit qui, se détachant de la contemplation de la l'homme extérieur, rejoint, par le canal interne et à travers la propre substance de l'homme, le Principe éternel, Dieu. (La religion essentielle, p.295)

... Le but le plus élevé de la religion c'est l'union la plus intime de l'homme avec Dieu, et cette union est même ici-bas déjà possible, mais elle ne l'est que par l'ouverture de notre sensorium intérieur et spirituel qui ouvre notre cœur pour le rendre susceptible de recevoir Dieu...

(Le Conseiller d'Eckhartshausen) La religion essentielle, p.203.

[77] Dịch chi vi thư, giáo nhân hồi thiên chi đại kinh, đại pháp dã. 易 之 為 書, 教 人 回 天 之 大 經 大 法 也 (Thái cực quyền đồ thuyết, tr.52)

[78] Bất tri lai lộ yên tri nhập lộ, bàn trung bát quái giai không. Vị thức nội đường, yên thức ngoại đường, cục lý ngũ hành tận thác. 不 知 來 路 焉 知 入 路, 盤 中 八 卦 皆 空 未 識 內 堂 焉 識 外 堂, 局 裏 五 行 盡 錯 (Ngô Cảnh Loan, Huyền không bí chỉ).

[79] Ngô kim lược thuyết tâm chân lộ. Hoàng trung thông lý tải đại Dịch. Chính vị cư thể thị huyền quan, Tí ngọ trung gian kham định tức. Quang hồi tổ khiếu, vạn thần an. 吾 今 略 說 尋 真 路. 黃 中 通 理 載 大 易. 正 位 居 体 是 玄 關. 子 午 中 間 堪 定 息. 光 回 祖 竅 萬 神 安 ( Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ, tr.15)

[80] Cf. Phúc âm Mathieu VI, 1-18,VII, 6, 13, 21, 22, 23.

[81] Cf. Phúc âm Luc XVII, 20-21.

[82] Cf. Wang Tch'ang Tche, Wang Yang Ming, Appendice 1.

Thiên thánh giai quá ảnh, lương tri tức ngô sư. 千 聖 皆 過 影 良 知 即 吾 師.

[83] Phương thốn 方 寸 = tấc vuông = tấc lòng.

[84] Tà nguyệt tam tinh động 斜 月 三 星 洞 = Tâm .

[85] Cf. Paul Claudel, Sur la Présence de Dieu (1932), p.23: «Comme l'ont bien vu les bouddhistes, nous pouvons descendre jusqu'au fond de nous-mêmes par tous les échelons de l'introspection sans rencontrer autre chose qu'un élément fluide, volatile et inconsistant, le mouvement qui va de la puissance à l'acte, jusque nous mettions la main sur l'être même, sur cette image agissante de Dieu en nous qui est substance, cause, esprit et vie, et que les Livres saints appellent essentiellement firmamentum. Dieu, nous le livre des Rois a été fait mon firmament...» (Henri de Lubac, Aspects du Bouddhisme, p.152)

» Mục lục » Chương: 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16