Đường vào Triết học và Đạo học

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

» Mục lục | Phi lộ | Chương: 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16  17  18  19  20


Chương 13

CÕI TIÊN, CÕI TỤC

 

Xưa nay ai ai cũng ước mong thoát tục, thành tiên. ở bên Tàu, cũng như ở bên ta, đã có nhiều giai thoại ghi lại chuyện những người đã có duyên lạc vào tiên cảnh, như Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai, Từ Thức nhập cảnh tiên ở Tiên Du, Bắc Ninh v.v...

Và cứ theo tầm nhìn, lối nghĩ thông thường, thì cuộc sống mà chúng ta đang sống là cảnh hồng trần lầm than, là bến mê, bể khổ; còn cảnh Bồng Lai, cảnh Thiên Đàng xin đợi tới lai sinh.

Nhưng càng đọc các sách vở mà người xưa lưu lại, càng suy tư về những đời sống các danh nhân danh sĩ mà sử sách đã lưu lai, càng sống chân thật với đời sống tâm linh của mình, con người càng ngày càng thấy cảnh thần tiên thực ra chẳng hề lìa xa con người, mà hằng lẩn trong cuộc đời mỗi một con người, như hình với bóng.

Tôi từ tấm bé, đã nghe tường thuật lại có những người được diễm phúc bạch nhật thăng thiên: Bên Thiên Chúa Giáo, thì có Chúa Jesus, Đức Mẹ Maria; bên Lão Giáo thì có vô số. Sách Tính Mệnh Khuê Chỉ, nơi cuối tập 1, đã cho biết là từ trước đến nay đạo Lão đã có tất cả hơn mười nghìn vị tiên lên trời giữa ban ngày, người thì cưỡi rồng, người thì cưỡi hạc, người thì cưỡi cá, người thì cưỡi gió mà lên tiên. Trong số đó, còn có tám nghìn vị tiên lên trời với cả nhà cửa. Nếu lên tiên, lên trời cao sang như vậy, mà còn phải đem cả nhà cửa đồ đạc lên theo, thì chúng ta phải suy ra rằng lên tiên, lên trời như vậy, đại loại cũng như đi «kinh tế mới» ngày nay. Chính vì thế mà các tiên ông đã quan phòng mang cả đồ đạc, nhà cửa theo để sau này sẽ khỏi lâm cảnh thiếu thốn.

Tôi cũng đọc rất kỹ thánh kinh Thiên Chúa giáo, để xem Chúa thăng thiên ra sao, nhưng vấn đề «bạch nhật thăng thiên» trong suốt thời niên thiếu, đối với tôi vẫn là một kỳ bí.

Nơi đây tôi không trình bày cùng quí vị những suy nghĩ riêng tư của tôi về vấn đề trên, mà chỉ muốn nói lên rằng những thắc mắc của tôi may thay đã được giải tỏa. Thực vậy, năm 1960, tôi đọc thấy trong quyển La Religion Essentielle của Illan de Casa Fuerte, những lời đẹp đẽ như sau:

«Trời ở trong mỗi người chúng ta chứ không ở ngoài chúng ta.»

«Trời ở trong con người.»

«Lên cùng Chúa là đi vào tâm khảm mình. Ai vào được tới tâm khảm mình, sẽ vượt kiếp người, và đạt tới Chúa.» [1]

Trở về với Phúc âm, tôi thấy câu: «Nước trời ở trong anh em.» (Luke 17:21) thật là chí lý.

Cho nên, từ mấy chục năm nay, tôi vẫn tin rằng cõi trời, cõi tiên đã ở sẵn ngay trong lòng mỗi một người. Và như vậy câu chuyện «bạch nhật thăng thiên», hay câu «Thiên đường hữu lộ» đối với tôi, không còn gì gọi là huyền bí nữa. Vả lại tôi mừng vì thấy rằng chuyện «bạch nhật thăng thiên» không còn là chuyện khó, vì đã ở ngay trong tầm tay mỗi một người.

Trở lại đạo Lão, tôi thấy tất cả những lời dạy dỗ, trở nên hết sức sáng sủa, sau khi huyền thoại trên đã được giải thích một cách thỏa đáng.

Thất Chân Nhân Quả có thơ:

«Thân ngoại cầu tiên, lộ tựu soa,

Thủy trung nguyệt ảnh, kính trung hoa.

Tiên thiên diệu lý, quân tri phủ?

Chỉ tại nhất tâm, tiện khả khoa.» 

Dịch:

Thân ngoại cầu tiên, ắt lạc đường,

Mò trăng đáy nước, hái hoa gương,

Tiên thiên, diệu lý hay chăng tá,

Chỉ tại tâm điền, há viễn phương. 

Trong Tiên học diệu tuyển có ghi câu thơ của Mã Đơn Dương tặng Triệu Quang:

«Thành tiên chỉ thị Thần quang,

Thiên cung vô dụng xú bì nang.»

Dịch:

Thành tiên âu chỉ cốt Thần quang,

Thiên cung sá kể cái xác phàm! 

Như vậy, con người sở dĩ bị đọa lạc trong trần ai tục lụy, chính là vì đã dốc tâm, chú ý vào những công chuyện mưu sinh bên ngoài, chính là vì tưởng mình chỉ sống có một đời sống sốc nổi, phù phiếm, ích kỷ, riêng rẽ, mà quên mất rằng cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh thần, mới thật là cao cả. ăn cháo lú, tức là vùi mình vào trong những thú vui nhục dục, nhãn tiền mà quên khuấy mất rằng mình là một thành phần của đại thể vô biên trong vũ trụ quần sinh. Tưởng rằng mình là một cái gì tách khỏi Đại thể vô biên chính là một sự ngu si hết sức lớn lao, và chính là nguyên nhân khiến mình bị đọa lạc vào trong vòng trần ai tục lụy.

Xét về xác chất hình hài, thì thân phận con người hết sức là lao lung, chất chưởng, hết sức là phù du hư ảo; nhưng nếu xét về Thần Thiêng trong con người, thì con người lại mênh mông vĩnh cửu. Thần con người, và Thần trời đất là một, nên Thần con người cũng như Thần trời đất không lệ thuộc không gian, thời gian, và vĩnh cửu, miên trường.

Thần là thế giới của Nhất Thể vô biên tế. Nếu thật sự chúng ta muốn đạt tới hạnh phúc, tới tĩnh lãng, tới Chân, Thiện, Mỹ, tới hòa hài, tới bác ái, chúng ta phải nhập Thần, phải sống trong thế giới của Nhất Thể đó. Đó chính là Bồng Lai, Tiên Cảnh, mà người đời thường mô tả.

Nói tóm lại, cho dù ta gọi Đại Thể là Thần, là Thượng Đế, là Bản Thể, là Brahman, hay gì gì đi chăng nữa, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng nhất là không bao giờ chúng ta được nghĩ rằng chúng ta có thể sống tách rời khỏi Đại Thể ấy, dù là một phút giây.

Nói cách khác, cái con người phiến diện, có tên, có tuổi, có hồ sơ, lý lịch, có quốc gia, quốc tịch của chúng ta, chỉ là một sản phẩm của lịch sử, và địa dư, nhưng con người thẳm sâu của chúng ta vốn không phải vậy, nó đã có từ trước đất trời.

Thường thường chúng ta chỉ sống bằng cái con người phiến diện, chính là vì xã hội, văn hóa, tập tục truyền thống đã dạy chúng ta điều tai hại đó. Cái mênh mông, cái sang cả, cái huy hoàng muôn thủa của chúng ta, đôi khi chúng ta chỉ cảm giác thấy một phần nào, ví dụ như trong những lúc mơ màng, nửa tỉnh, nửa say, lúc mơ mộng, hay lúc bị ảnh hưởng của các thuốc khải thần (psychedelics: LSD, Mescaline, Peyote, Hashish v.v...), hay của men rượu, men tình...

Albert Einstein cũng đã nhận định như sau: «Con người là một phần của toàn thể mà ta gọi là "Vũ trụ", một phần bị hạn hẹp trong vòng không gian, thời gian. Con người chiêm nghiệm về mình, về suy tư, niệm lự, tình tứ của mình, như thể là cái gì tách khỏi mọi sự; đó là một ảo tưởng do tâm thức sinh ra. Ảo tưởng đó chính là một nhà tù đối với chúng ta, nó giới hạn ta trong phạm vi của những dục vọng riêng tư, của một tình thương dành cho ít người thân thuộc quanh ta. Ta phải giải thoát ta khỏi nhà tù đó, bằng cách mở rộng lòng ra mà thương xót tất cả quần sinh, và bao quát hết cả vũ trụ với những nét đẹp đẽ của nó. Không ai có thể làm chuyện này được rốt ráo, hoàn toàn; nhưng nếu cố gắng thực thi nó, đã chính là giải thoát chúng ta được phần nào và đã xây nền đắp tảng cho sự an ổn nội tâm chúng ta.» [2]

Edgar Cayce, một dị nhân người Mỹ, chuyên môn chữa bệnh, soi kiếp và nói tiên tri, khi ngủ thiếp đi, cũng cho rằng con người có hai phương diện vô cùng và hữu hạn. Con người hữu hạn, hay tiểu ngã, ông gọi là Personality; con người vô cùng ông gọi là Individuality. Muốn đạt tới thần thông, thần lực, mà ông gọi là psychic forces, cái tiểu ngã cần phải tan biến đi. Bao lâu còn lý luận theo tiểu ngã, thì Đại Ngã không giúp chúng ta được. Muốn hòa hợp được với vô cùng, ta phải giảm thiểu đến mức tối đa cái tiểu ngã của chúng ta, để chỉ còn thuần cái «Tinh Hoa Trời». Chừng đó, Thượng Đế mới rãi sáng ra trong đời chúng ta, và chúng ta mới trở thành hiện thân của Ngài. Như vậy, rời cảnh tiên, đoạ lạc vào hồng trần tục lụy, chẳng qua chỉ là quá lo phục vụ, bồi dưỡng cho cái tiểu ngã đó mà thôi.[3]

Nho gia cũng nói như sau: Nhân dục thắng, Thiên lý vong... Nhân dục tận, tắc Thiên Lý hiện... Cho nên, chúng ta càng ngày càng thấy rõ rằng: Sống ở cảnh tiên chính là sống «vô kỷ, vô công, vô danh», sống kết hợp với Đại Ngã, với Thượng Đế. Sống trong cảnh tục là sống bằng thất tình lục dục, tiểu trí, tiểu ngã của mình, sống xa lìa với Trời với Đạo.

Trong quyển Thái Thượng Bảo Phiệt của Đạo Lão cũng có một câu bất hủ:

Tâm dữ Đạo hợp tắc tạo Bồng Lai, Tam Đảo,

Tâm dữ Đạo ly, tắc tạo lục đạo, tam đồ. 

Dịch:

Lòng người hợp với lòng Trời,

Bồng Lai, Tam Đảo tức thời hiện ra.

Lòng người, lòng Đạo lìa xa,

Tam đồ, lục đạo, phôi pha, khốn nàn. 

Quần chúng xưa nay vẫn thắc mắc, vẫn tiếc xót về Địa Đàng đã mất, luôn luôn mơ ước một cảnh Đào Nguyên, một cảnh Thiên Thai, hay Bồng Lai, Tam Đảo, hay Duyềnh Châu, Phương Trượng ở những khung trời xa lạ, chứ không bao giờ lại ngờ được rằng những cảnh thần tiên đó, không ở đâu xa nhưng đã ở sẵn ngay trong tâm khảm mình. Khi đã mất phương hướng, khi đã không có tấm bản đồ hướng đạo, thì dĩ nhiên sẽ không bao giờ đặt được vấn đề cho đứng đắn, hẳn hoi, và không bao giờ chứng nghiệm được hạnh phúc cụ thể.

Heraclitus nói: «Nếu ta không ngờ được rằng có cái bất ngờ, ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra được nó.» [4]

Có lẽ chính vì vậy, mà con người luôn luôn khắc khoải, luôn luôn khát khao, như thể là đã mất đi một cái gì. Các đạo giáo công truyền tưởng chừng như đã đến với con người để đáp ứng nhu cầu ấy, và trả lại cho con người cái mất mát ấy. Nhưng ngược lại, theo nhận định của Erich Fromm, tác giả quyển Psychoanalysis and Religion, thì các đạo giáo công truyền lại càng làm cho giá trị con người thêm mất mát đi, làm cho thân phận con người thêm hèn yếu hơn, lệ thuộc hơn, vì bao cái hay, bao cái đẹp đều dồn cả cho Thượng Đế ngoại tại. [5]

Còn những chân nhân mà nhân loại thường tặng dữ cho những danh hiệu thánh, hiền, tiên, phật, là những người đã tìm ra chân lý, ra đại đạo, ra cái phần cao minh, linh diệu của con người. Họ sinh ra đời cốt là để tìm lại cái giá trị vĩnh cửu, cao đại của con người. Họ khuyến cáo mọi người nên dùng thần trí mình, để hiểu biết về mình, về tương quan giữa mình với tha nhân và vũ trụ. Họ thấy con người có những khả năng vô biên vô tận, cần phải triệt để khai thác. Họ cảm thấy mình và vũ trụ là một, và chính vì vậy phải sống trong tình thương mến, sự hòa hài, và sự liên đới, sự cộng tác với quần sinh.

Một số chân nhân, đã sống thoát vòng không gian, thời gian, và thấy đời sống mình gắn liền với đời sống quần sinh, vũ trụ ngay từ khi còn ở gian trần này.

Trang Tử đã viết trong Nam Hoa Kinh:

Thiên địa dữ ngã tịnh sinh,

Nhi vạn vật dữ ngã vi nhất.

Dịch:

Ta và trời đất cùng sinh,

Ta và muôn vật sự tình chẳng hai.

Từ Viên tiên sư viết:

«Đương thời vị hữu tinh hà đẩu,

Tiên hữu ngô, đương hậu hữu thiên.»

Dịch:

Trước khi Thiên Hán, quần tinh có,

Trước có Ta, sau mới có trời...

Và:

«Ngã thể bản đồng thiên địa lão,

Tu Di sơn đảo, tính do tồn.»

Dịch:

Tính ta vốn thọ cùng trời đất,

Tu Di nghiêng đổ, Tính vẫn còn. [6]

 Cái phần mênh mông, cao đại, linh thiêng sang cả của con người ấy, oái oăm thay, rất ít người nhận ra được.

Tuy nhiên, con người ai ai cũng có nửa tiên, nửa tục. Tiên và tục lúc nào cũng chung sống với nhau trong thế cài răng lược. Tiên là Lý tưởng; Tục là Thực tế. Cái thực tế là cái mặt lam làm, lầm than, cơ khổ của con người; cái lý tưởng là những gì văn minh, lịch sự, là những phút giây sung sướng, trong những ngày tư tết, hội hè. Con người lúc nào cũng mơ lý tưởng, cũng nói lý tưởng, mà lúc làm, thì lại làm chuyện thực tế phũ phàng. Khi con người làm cách mạng, thì hứa trăm điều; lúc lên cầm quyền, thì không thực thi được một. Thành thử dân gian đã có câu: Cách mạng, cách miệng...

Cho nên, muốn hiểu con người cần phải nhìn thấy hai chiều, hai mặt của nó. Sống động thì trong hữu hạn, mà mơ ước thì vô biên. Sống động trong không gian, thời gian, mà lúc nào cũng bàn về vĩnh cửu.

Hai chiều hai mặt ấy sở dĩ có, chính là vì dưới lớp lang thể xác, nhân tâm, con người còn có Thiên tâm, Thiên Tính, còn có đồng bản thể với Thượng Đế.

Đàn cơ Cao Đài có mấy vần thơ hết sức bất hủ:

«Con là đấng thiêng liêng tại thế,

Cùng với thày, đồng thể Linh Quang.

Khóa chìa con đã sẵn sàng,

Khi vào cõi tục, khi sang Thiên đình.»

 Thực là dễ dàng: Hướng ngoại, đi ra ngoại cảnh vật chất, là đi vào cõi tục; hướng nội, đi vào tâm khảm, là đi lên tiên cảnh, đi lên Thiên đình...

Tiên hay Tục chẳng qua là thay đổi tầm nhìn, lối nghĩ, thay đổi tâm trạng...

Tiên là thế giới của hiệp hòa, của Nhất thể: Nhất Tức Nhất Thiết; Nhất Thiết Tức Nhất = Một là Tất Cả; Tất Cả là Một.

Tục là Thế giới của chia ly, riêng rẽ, phân tán, loạn ly, là thế giới của Vạn, của Vạn Thù.

Tâm trạng nếu đã được thay đổi (Anh Văn dịch là Altered state of consciousness) lập tức sẽ có một sự hiểu biết khác.

Meister Eckhardt viết: «Khi nào con người ở trong hiểu biết thông thường? Tôi trả lời: «Khi con người thấy cái này khác với cái kia.» Và khi nào con người vượt lên trên cái hiểu biết thông thường? Tôi có thể nói như sau: «Khi con người nhìn thấy TẤT CẢ trong tất cả, lúc ấy con người vượt lên trên sự hiểu biết thông thường.» [7]

Khi viết về Cõi Tiên, Cõi Tục, tôi ngẫu nhiên đọc quyển Psychoanalysis and Religion của Erich Fromm. Trong quyển sách nhỏ này Erich Fromm phân biệt ra 2 thứ đạo giáo. Một thứ đạo giáo dùng quyền uy áp đặt lên con người mà ông gọi là Authoritarian religion, một thứ đạo giáo phát sinh từ nhân bản con người mà ông gọi là Humanistic religion. Tôi nảy ra ý tưởng dịch Authoritarian religion của ông là 'Đạo Tục', còn Humanistic religion là 'Đạo Tiên'.

Gọi là 'đạo tục' vì dành cho quần chúng đang lao đao, lận đận thực sự trong cõi hồng trần, 'tục lụy' này. Còn 'đạo tiên' là thứ đạo dành cho một thiểu số tao nhân, mặc khách, tuy xác còn đang sống ở trần hoàn, nhưng tâm hồn đã khinh phiêu thoát sáo. Và tôi toát lược ý của Erich Fromm khi luận về «Đạo Tiên, Đạo Tục», như sau:

Tiên Tục là hai khía cạnh thấy được trong các đạo giáo thiên hạ; có khi tách rời, nhưng cũng có khi hiện ra song song trong cùng một tôn giáo.

«Đạo tục» dành cho quảng đại quần chúng. Đặc điểm của đạo này là tin rằng Thượng Đế thời ngoại tại, tách rời con người. Bao nhiêu cái hay, cái đẹp, bao nhiêu tình thương, bao nhiêu công bằng, bác ái, tất cả quyền uy, năng lực nơi con người đều dồn cả cho Thượng Đế. Thành ra Thượng Đế càng uy nghi, sang cả, quyền hành bao nhiêu, thì con người càng hèn yếu, càng tội lỗi bấy nhiêu. Con người như vậy phải sợ hãi, phải tuyệt đối phục tùng, tuyệt đối lệ thuộc vào Thượng Đế. Vì đem tất cả tinh hoa của mình dồn cho Thượng Đế, nên con người càng ngày càng xa cách với Thượng Đế, càng bị "tha hóa" đối với chính mình...

«Đạo Tiên» là thứ đạo chủ trương rằng nếu con người là ảnh tượng Chúa, thì trên căn bản, phải đồng nhất, phải nhất như với Thượng Đế. Và Thượng Đế sẽ không còn là biểu tượng một quyền uy trên con người, nhưng sẽ là biểu tượng cho quyền uy của chính con người. Như vậy Thượng Đế chẳng khác nào như là Đại Ngã của con người, và là Lý tưởng để con người vươn lên và thực hiện. Đạo Tiên có mục đích làm cho con người trở nên lớn mạnh, trở nên hào hùng, tự do, hạnh phúc, đó là hậu quả của bác ái. Ngược lại, những hình thức đạo giáo chỉ chú trọng dạy con người tùng phục quyền uy, mà không xót thương cho thân phận con người, không trọng kính con người, làm cản trở không cho các tiềm năng tiềm lực trong con người được phát huy, chỉ chú trọng đến kiểm soát và thống trị con người, mà không đếm xỉa gì đến hạnh phúc con người, đến tự do, đến phẩm giá con người, thì chắc không thể phát xuất từ lòng bác ái, từ lòng lân tuất đối với con người. Như vậy chẳng qua là Đạo Tục. [8]

Nói tóm lại, con người sống trong hai thế giới NHẤT và VẠN.

Sống trong thế giới của VẠN là sống trong thế giới đa tạp, chi li, cái này kình địch với cái kia, cái kia thù hằn với cái nọ. Đó là CÕI TỤC,

Sống trong thế giới của NHAÁT là thế giới của thuần nhất, bất phân, xướng tùy, hòa hợp. Đó là CÕI TIÊN.

Hai thế giới đó thường được mô tả như là TRÙNG DƯƠNG (NHẤT) và BA LÃNG (VẠN). Người thường nhìn thấy sóng là sóng, thấy biển là biển. Người thấu thị thấy biển với sóng là một.

Nếu ta có cái nhìn phân biệt, thì Thượng Đế là vị thần linh thống trị ta,; thế giới ngoại cảnh, sinh linh là những gì xa cách với ta. Ngược lại nếu ta có cái nhìn vô phân biệt, thì Thượng Đế chính là Bản thể của ta, là Lý Tưởng của ta; ta và sinh linh là một.

Ta có thể dùng từ ngữ của Frank Loehr, mà gọi hạng người thứ nhất là God Beyonders (Thiên tại thượng); hạng người thứ hai là God Withiners (Thiên tại nội). [9]

Tín đồ các tôn giáo công truyền thuộc hạng 1; các tiên thánh trong thiên hạ thuộc hạng 2. Đúng hay sai, chiêm nghiệm vào chính bản thân, ta sẽ thấy.

Trang Tử viết:

Nhìn vũ trụ từ trong phân biệt,

Thời mật gan, Sở Việt khác xa.

Từ trong Đồng Nhất nhìn ra,

Muôn loài muôn vật cũng là một thôi. [10]

 Cõi tiên, tức là cõi của Đồng Nhất, tức là cõi của TÂM LINH. Cõi TÂM LINH tuy ở ngay trong tâm hồn chúng ta, nhưng lại vượt lên trên, thất tình lục dục, suy tư niệm lự.

Ta có thể dùng từ ngữ của Miller mà gọi cõi tiên là THE DIVINE, cõi tục là THE NATURAL.

Lawrence LeShan gọi cõi tiên là The Clairvoyant Reality, cõi tục là The Sensory Reality. [11]

Ta sống trong cõi tục bằng NGŨ QUAN, bằng cảm giác, bằng TÂM TƯ, TRÍ LỰ. Ta sống trong cõi tiên bằng THẦN LINH, bằng TUỆ GIÁC, bằng sự HỒN NHIÊN, THOÁT KHUÔN SÁO.

Khi còn sống trong trần hoàn này, nếu không có TỤC không thể có TIÊN. Tiên mà đói khát, tiên mà bệnh tật, tiên mà dơ bẩn, tiên mà còn chưa giải quyết được vấn đề cơm áo, vấn đề nhân sinh thì dĩ nhiên chưa phải là Tiên.

Chính vì thế mà xưa Đạo Lão đưa ra bốn điều kiện để TU TIÊN: Pháp , Địa , Lữ , Tài .

Pháp là nắm được Khẩu quyết, được bí chỉ Thành Tiên.

Địa là sống trong một hoàn cảnh vật chất thanh kỳ: sơn thanh, thủy tú.

Lữ là có những người đồng chí, đồng thanh, đồng khí.

Tài là có đủ tiền để cung ứng mọi nhu cầu vật chất.

Cho nên sống tiên, là sống thanh cao, biết sử dụng tiền tài, ngoại cảnh, cho hay cho phải, chứ không phải là sống nghèo hèn, cơ cực.

Á Đông chính vì thế mà đề cao TRI TÚC. Tri túc là làm thế nào để sống ấm no, đầy đủ thì thôi. Mục đích cuộc đời là sống thanh sảng, tiêu sái, thanh cao, lý tưởng, hoà hài, chứ không phải để chạy theo tiền tài, danh vọng.

Cái tuyệt vời mà cả Đông Tây đều muốn vươn tới chính là một cuộc sống NHÂN ÁI, HÒA HÀI. Nhân Ái đây phải hiểu là LOVE; Hòa Hài phải được hiểu là HARMONY, hay JUSTICE. Mãi đến cuối cuộc đời tôi, tôi mới hiểu chân nghĩa của JUSTICE, mà ta thường hiểu là CÔNG BÌNH, CÔNG THẰNG. Tôi bây giờ mới thấy rằng JUSTICE chính là HARMONY, là sự QUÂN BÌNH, sự HÒA HÀI trong vũ trụ quần sinh. Nói theo Dịch, JUSTICE chính là THÁI HÒA...

Đã đành vào được cảnh tiên không phải là dễ, nhưng nó cũng không phải là quá khó.

Theo tôi, khẩu quyết trước hết là con người không thể nào tách rời được khỏi Đại Thể, dẫu ta gọi Đại Thể đó là Chúa, là Phật tính, là Chân Như, hay Atman, hay Đạo hay Brahman, cũng không thể nào tách rời khỏi vũ trụ quần sinh.

Thứ hai, bản tính ta hay bản tính Chúa cũng chỉ là một. Giữa ta và Chúa là TÌNH YÊU tuyệt vời, chính vì vậy, tuyệt đối không được SỢ HÃI Ngài.

Ta sinh ra đời cốt là để thi triển mọi khả năng thiên phú của chúng ta, làm cho đời thêm đẹp thêm tươi. Đối với đồng loại, đối với quần sinh, ta phải thương yêu vô hạn.

Thay vì nhìn đời dưới khía cạnh «TƯƠNG KHẮC, TƯƠNG CHẾ», hãy nhìn đời dưới khía cạnh «TƯƠNG DUNG, TƯƠNG THỪA». Hãy sống hồn nhiên như trẻ thơ.

Cái gì làm cho ta mất hạnh phúc, mất sự bình thản tâm hồn, mất phẩm giá con người, đó chính là những họa hại, ta cần phải trừ diệt cho ta và cho người. Cái gì thuộc hình hài, ngoại cảnh, đều là những gì biến thiên, nhất thời.

Chính vì vậy mà ta đừng đặt nặng chuyện mất còn. Tâm linh quang minh, chính đại, hào sảng, thanh khiết mới là điều đáng chắt chiu. Tất cả Thánh Hiền Tiên Phật đông tây đều đã chủ trương như vậy.

Nếu ta nhận chân rằng cảnh tục là cảnh bên ngoài, cảnh tiên là hạnh phúc tâm linh bên trong, thì ta sẽ nắm vững được chốt then của Tiên và Tục; có được chìa khóa của cõi Tiên và cõi Tục. Nhiều người cứ tưởng rằng tiên thánh phải làm được phép lạ mới là tiên thánh. Họ có biết đâu rằng phép lạ là của những thày phù thủy, pháp môn. Còn tiên thánh giáng phàm chỉ dạy người sống sao cho hạnh phúc, sống sao cho hòa hài trong tình huynh đệ, thủ túc với tha nhân, với quần sinh. Có vậy thôi.

Nếu quí vị thấy vào cõi tiên ngay thì cũng khó, mà ở hoàn toàn trong cõi tục thì cũng không nên, nếu quí vị thấy lý luận, suy tư quá sẽ nhức đầu, tôi xin tặng quí vị bài thơ của Lý Mật Am, nhan đề là «Bán bán ca», mà Lâm Ngữ Đường đã giới thiệu trong quyển L'importance de vivre. ông cho rằng đó là đạo Trung Dung của Khổng tử! Tôi không đồng ý như vậy, và cho rằng đấy chỉ là một lối sống nửa tiên, nửa tục! Bài thơ hết sức 'dí dủm', và tài tình.

Năm 1960, tôi đã dịch ra tiếng Việt, nhân khi bàn về Một nhân sinh quan theo Trung Dung và Dịch Lý, đăng trong Đặc san Cổ Học Tinh Hoa Quảng Nam. Nơi đây, tôi sao chép lại để cống hiến quí vị, và đặt tên nó là «Bài ca nửa tiên, nửa tục».

Ta sống quá nửa đời phù phiếm,

Mới nhận ra huyền nhiệm Trung Dung.

Trung Dung hương vị khôn cùng,

Làm cho lòng dạ tưng bừng niềm vui.

Lúc mà cái con người sướng nhất,

Chính là khi tới cấp trung niên.

Quang hoa dùng dắng triền miên,

Như chờ, như đợi gót tiên tạm ngừng.

Cõi trần lọt giữa chừng trời đất,

Giữa tỉnh quê, ta cất nhà ta!

Thảnh thơi ta mở trại hoa,

Giữa chừng sông núi, la đà nước non.

Biết vừa đủ, tiền nong vừa đủ,

Vòng lợi danh, vương nửa tấm son.

Không xinh, nhưng cũng dễ nom,

Không giàu, nhưng cũng còn dòn hơn ai!

Nhà ta xây, nửa đài, nửa các,

Đồ đạc ta lác đác đủ chơi,

Áo ta cũ mới chơi vơi,

Uống ăn na ná như người bậc trung;

Vài tôi tớ không thông, không dở,

Vợ con ta, đơ đỡ ta ưng.

Nửa tiên, nửa tục, lừng chừng,

Nửa cùng thần thánh, nửa cùng thê nhi.

Nửa bụng dạ, lo vì con cái,

Nửa tâm hồn gửi lại Hoàng Thiên,

Để khi thoát xác ta yên,

Biết đường thưa gửi, biết niềm tới lui!

Ngà say là lúc ly bôi,

Đóa hoa hàm tiếu là thời mê ly.

Buồm nửa cánh, thuyền đi thong thả,

Cương vừa giong, vó ngựa mới hay.

Quá giàu, phiền lụy sẽ dầy,

Quá nghèo, cuộc sống sẽ đầy truân chiên.

Trần ai, sướng với phiền khó tách,

Trong ngọt ngào, pha phách đắng cay.

Hưởng đời đừng quá mê say,

Lừng chừng đại khái, tháng ngày tiêu dao!...

 Khi viết bài này, ngẫu nhiên tôi có gọi điện thoại cho cụ Đan Quế, để hỏi về chuyện Từ Thức lên tiên. Sau khi tôi trình bày rằng con người chẳng cần lên tiên, vẫn có thể sống thần tiên, ngay tại khu vực mình đang ở, ngay trong hoàn cảnh mình đang sống, Cụ rất đồng ý với tôi, và nói đã làm 5 bài thơ dưới nhan đề là THÊNH THANG NGOÀI CÕI. Tôi xin phép Cụ thuật lại nơi đây, để chứng minh sự đồng thanh tương ứng trong trời đất:

Vượt mấy giang đầu, mấy hải duyên,

Vẫn vui trăng nước một con thuyền!

Trang-sinh mộng thả, trầm vương áo,

Kiều-nữ tay mài, mực ngát yên.

Cảnh ấy lòng này âu có hẹn,

Vườn xưa hoa cũ được như nguyền.

Thênh thang ngoài cõi, linh-đài mở,

Đâu đến Bồng-Lai mới gặp tiên!

 *

Đâu đến Bồng-Lai mới gặp tiên!

Vườn tâm hoa nụ ngát hương nguyền.

Chòm mây mộng gửi đang vui bước,

Cửa động then cài dễ ngủ yên.

Mải lắng phách dồn cung nguyệt quế,

Mà quên tuyết phủ mái ngư thuyền.

Làm chi hạt bụi trong trời đất!

Vũ trụ riêng mình đủ sẵn duyên.

 *

Vũ trụ riêng mình đủ sẵn duyên,

Dám đâu đến bến đã quên thuyền.

Tiết danh cuối cuộc còn trong sáng,

Phong vũ trong lòng thấy lặng yên,

Bèo nước không rời, cơn sóng loạn,

Sắt son khỏi thẹn, bóng trăng nguyền.

Chập chờn gối nguyệt, song in trúc,

Theo mộng ra vào giữa cõi tiên!

Theo mộng ra vào giữa cõi tiên,

Như "vân xuất trục", một tâm nguyền.

Trùng-Dương cúc hẹn, vừa lên núi,

Đông-Chí mai chờ, lại xuống yên.

Quần-Ngọc đâu người vui thả hạc? [12]

Đào-Nguyên quen lối ghé neo thuyền.

Đất trời dành sẵn kho vô tận,

Dị-thảo kỳ-hoa, đã kết duyên.

 *

Dị- thảo kỳ-hoa đã kết duyên:

Đêm hoa-đăng mở hội hoa- thuyền!

Khai men Đạo-tửu chờ bên tiệc,

Trải gấm Hoàng-Đô sẵn trước yên.

Chén rượu giao-tình hương thấm giọng,

Câu thơ chúc-thọ nét tươi nguyền.

Lâng-lâng giữa cảnh thanh nhàn ấy,

Liễu đón mai chào, sánh bước tiên!

 Năm bài thơ này, cụ Đan Quế làm tại Song-Hạc-Đình, ngày 18. 9. 1988, để mừng cụ Chi Điền, Hoàng Duy Từ; tôi viết bài này ngày 11.11. 1988. Cụ Đan Quế khi làm 5 bài thơ này, và tôi khi viết bài này không hề tham khảo lẫn nhau, không hề chịu ảnh hưởng của nhau, thế mà so lại với nhau, có rất nhiều điểm trùng hợp. Thật cũng lạ lùng.

Tôi từ lâu, rất mến thơ của thi sĩ Cao Tiêu, và thấy có nhiều bài hết sức thoát tục. Chính vì thế, mà với sự đồng ý của thi sĩ, tôi kết thúc bài này bằng bài thơ Ngộ tiên của thi sĩ.

NGỘ TIÊN

Lưu thủy đào hoa kết mỹ duyên,

Tửu hương xuân khí nhập khinh thuyền.

Điểu phi tú lĩnh vân sương hội,

Mã khởi hòa phong, liễu thảo liên.

Hoan ngộ đề thi khai ước phiến,

Hứng đàm lãng vịnh nguyện tâm truyền.

Phiêu phiêu điệp vũ tiền thân hiện,

Hồng kiểm thùy nhan sắc Giáng tiên. 

GẶP TIÊN

Theo suối hoa đào rắc thắm duyên,

Men xuân thơm ngát rượu quanh thuyền.

Mây sương đầu núi chim tung cánh,

Gió liễu bên đường ngựa thắng yên.

Mừng gặp đề thơ, sanh quạt ước,

Vui ngâm thả hứng, ủ hương nguyền.

Lâng lâng cánh bướm tiền thân hiện,

Một áng hồng tươi nét Giáng tiên. [13]


 CHÚ THÍCH

[1] Le ciel est au dedans et non au dehors de chacun...Le ciel est dans l'homme...(Emmanuel Svedenborg, cité par Illan de Casa Fuerte. La Religion essentielle, p. 183)

"Monter vers Dieu, c'est entrer en soi- même. Celui qui entre en lui- même et pénètre au fond de son âme, se dépasse et atteint vraiment Dieu".

(Paroles d'Albert le Grand. Cf. Illan de Casa Fuerte, La Religion Essentielle p.130)

[2] A human being is the part of the whole, called by us the "Universe", a part limited in time and space. He experiences himself, his thoughts and feelings as something separated from the rest - a kind of optical delusion of his consciousness. This delusion is a kind of prison for us, restricting us to our personal desires and to affection for a few persons nearest us. Our task must be to free ourselves from this prison by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature in its beauty. Nobody is able to achieve this completely, but the striving for such achievement is in itself a part of the liberation and a foundation for inner security.

Lawrence LeShan, The Medium, The Mystic and The Physicist, An Esalen Book, The Viking Press, New York, 1974, p.143.

[3] It is the finite mind which tries to reason, to distinguish, and to define by comparison - processes which are only a portion of the faculties called psychic forces. Thus infinite mind is outside the realm of ordinary reasoning. We can comprehend the infinite only by a faculty that is superior to reason. That faculty is the psychic force. One must enter a state in which the finite self no longer exists!...We haven't gotten out of our finite self, so that the infinite can come in and aid. We must develop the faculty between the finite and the infinite. We seek to become one with the Infinite by the reduction of our soul to its simplest self- its divine essence - and realize this union and identity.

Now, we might well go back and question, how man developed this personality (finite) and how he lost his individuality, by losing the place he occupied with his Creator in the beginning. This individuality is ever seeking to find expression through the faculties with which man has been endowed; for through these there may come expressions of the infinite, or God, into our lives.

Hugh Lynn Cayce, The Edgar Cayce Reader, Warner Books Inc., New York, 1969, pp.12- 13.

[4] If we do not expect the unexpected, we will never find it (Heraclitus), cf.Lawrence LeShan, The Medium, The Mystic and The Physicist, An Esalen Book, The Viking Press, New York, 1974, p. 142.

[5] The essential element in authoritarian religion and in the authoritarian religious experience is the surrender to a power transcending man. The main virtue of this type of religion is obedience, its cardinal sin is disobedience. Just as the deity is conceived as omnipotent or omniscient, man is conceived as being powerless, and insignificant...In authoritarian religion, God is a symbol of power and force, He is supreme because He has supreme power, and man in juxtaposition is utterly powerless.

Erich Fromm, The Psychoanalysis and Religion, Bantam Book, New York, Toronto, London, 1967, pp.34- 37.

[6] Xem Từ Viên tiên sư chân kinh, tr.39a và 17a.

[7] "When is a man in mere understanding?" I answer,"When he sees one thing separate from other." And when is a man above mere understanding? That I can tell you: "When a man sees All in all, then a man stands beyond mere understanding.". Lawrence Lesh LeShan, sThe medium, the mystic, and the physicist; toward a general theory of the paranormal. New York, Viking Press, 1974, p. 88.

[8] The distinction between authoritarian religion and humanistic religion not only cuts across various religions, it can exist within the same religion (libro citato p. 41)...While in humanistic religion God is the image of man's higher self, a symbol of what man potientially is or ought to become, in authoritarian religion God becomes the sole possessor of what was originally man's: of his reason and his love. The more perfect God becomes, the more imperfect becomes man. He projects the best he has onto God and thus impoverishes himself. Now God has all love, all wisdom, all justice - and man is deprived of these qualities, he is empty and poor. He had begun with the feeling of smallness, but he now has become completely powerless and without strength; all his powers have been projected onto God... (p. 48- 49) Particularly concerning the sincerity of the postulate of love the words hold true:"By their fruits shall ye know them." If religious teachings contribute to the growth, strength, freedom, and happiness of their believers, we see the fruits of love. If they contribute to the constriction of human potentialities, to unhappiness and lack of productivity, they cannot be born of love, regardless of what the dogma intends to convey. (p.62)

Erich Fromm, Psychoanalysis and Religion, Bantam Books, New York, Toronto, London, 1958.

[9] Lawrence LeShan, The Medium, the Mystic, and the Physicist. Toward a general theory of the paranormal, The Viking Press, New York, 1974, p.113.

[10] Tự kỳ dị giả thị chi, Can, đởm, Sở, Việt dã; Tự kỳ đồng giả thị chi, Vạn vật giai nhất dã. 自 其 異 者 視 之 , 肝 膽 楚 越 也 ; 自 其 同 者 視 之 , 萬 物 皆 一 也 . Nam Hoa Kinh, Thu Thủy 5.

[11] The Medium, the Mystic, the Physicist, p. 113 & 79- 95.

[12] Quần Ngọc: Cuối đời nhà Trần, Hoàng My tiên sinh ẩn cư nuôi hạc trên núi Quần Ngọc, huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Hồ Hán Thương cho vời về triều, ông nhất định không chịu ra.

[13] Cao Tiêu, California, September 1988. Bài này cũng làm để tặng Cụ Chi Điền Hoàng Duy Từ.


» Mục lục | Phi lộ | Chương: 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16  17  18  19  20