LỄ,
NGHĨA, LIÊM,
SỈ
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

Hôm nay nhân ngày lễ khai mạc niên khóa
Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật, tôi rất hân hạnh được cha Khoa trưởng ủy
nhiệm cho thuyết trình cùng quý vị về một đề tài rất cũ nhưng lại rất
mới, đó là Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ.
Trước khi vào đề, xin quý vị hãy chia vui
cùng chúng tôi khi thấy Viện Đại Học Minh Đức nói chung và phân khoa
Triết học nói riêng càng ngày càng phát triển.
Riêng khoa Triết học này đã hoàn toàn thay
đổi bộ diện.
Từ một phân khoa Triết học nó đã triển
dương thành một Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật. Từ một cơ sở khiêm tốn ở
đường Chi Lăng, Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật đã di chuyển về địa điểm
hiện thời với những phòng ốc khang trang, với một ban giám đốc tăng
cường, với một ban giáo sư chọn lựa cùng nhiều ban học mới.
Đà phát triển nay đã trực tiếp biểu dương
được ý chí cương quyết và lòng tha thiết muốn vươn lên, muốn tiến tới
của Cha Khoa Trưởng cũng như của Ban Giám Đốc. Nó cũng còn biểu dương
được ý nguyện của trường là tích cực góp phần xây dựng quốc gia, đào tạo
nhân tài cho đất nước.
Chắc quý vị cũng đã nhận được rằng với hai
chữ Minh Đức, Viện Đại Học Minh Đức đã cố nói lên cái quyết tâm muốn
phục hồi những giá trị tinh thần của tiền nhân, muốn hòa hài Á Đạo, lẫn
Âu thuật, ngõ hầu tạo nên những con người toàn diện, những nhân tài chân
chính, đích thực cho quốc gia.
Cũng vì muốn tạo nên những con người toàn
diện, nên ngoài chương trình nhân văn triết học, nghệ thuật chọn lựa,
Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật Minh Đức sẽ còn đem võ thuật vào Đại Học
đường. Chủ đích là mỗi sinh viên khi tốt nghiệp sẽ thành một võ sư thực
thụ nữa.
Nhưng ngoài vấn đề trí dục, thể dục, Đại
Học Nhân Văn và Nghệ Thuật chúng tôi còn tha thiết đến vấn đề đức dục,
còn tha thiết đề cao đến giá trị tinh thần, đề cao tinh thần nhân loại.
Chúng tôi cố tâm đào tạo cho sinh viên trở
thành những người tài đức song toàn.
Chúng tôi quan niệm rằng đại học không
phải chỉ là nơi để truyền thụ văn chương, kỹ thuật, triết lý suông, mà
chính còn phải là môi trường để tạo nên những con người toàn diện, biết
sống xứng đáng của danh hiệu con người, biết trọng nhân cách, danh dự,
biết kính trên, nhường dưới, biết xả kỷ vị tha, biết hy sinh cho đại
nghĩa.
Chính vì thế trong bài thuyết trình của
tôi nhưng cũng là của trường này, chúng tôi muốn chọn đề tài: Lễ, Nghiã,
Liêm, Sỉ.
Đề cập đến Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ ngày hôm
nay, trong giờ phút long trọng của buổi lễ khai trường này, tức là muốn
dùng chiêu bài Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ để đặt nặng vấn đề đức dục, vấn đề
giá trị tinh thần, tình tương thân, tương kính và tình đoàn kết để phuc
vụ cho xứ sở, phụng vụ cho tương lai.
Sở dĩ chúng tôi đề cập đến vấn đề Lễ,
Nghĩa, Liêm, Sỉ nhất là thấy từ ít lâu nay, do ảnh hưởng chiến tranh tàn
phá, cũng như do ảnh hưởng nếp sống vật chất văn minh, người Việt Nam
chúng ta đã mục kích nhiều cảnh băng đọa tinh thần, những nếp sống phù
du sốc nổi, những thái độ buông thả quá trớn, không có đếm xỉa gì đến
đạo lý cương thường.
Nay là thời hậu chiến, là thời chúng ta
phải sửa sang lại tất cả những tàn phá về phương diện vật chất lẫn tinh
thần đó. Những tàn phá về vật chất có thể được sửa chữa bằng tiền bạc,
nhưng những tàn phá về tinh thần thì chỉ có thể sửa chữa được bằng công
trình cổ súy và phục hưng lại nền đạo lý cổ truyền, khuyến khích mọi
người phải tu tỉnh phải sống theo cương thường, phải tiết độ, phải cần
cù lao tác.
Hầu chuyện cùng quý vị và anh em sinh viên
hôm nay về Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ chúng tôi cũng còn có mục đích là tiếp
tay với cụ Trọng Nghĩa, một vị thượng khách của trường, hiện có mặt nơi
đây, một vị lão thành khả kính đã gần 80 tuổi đầu mà từ nhiều năm nay đã
tốn công, tốn của để hô hào trên mặt báo chương cũng như trên các đài
truyền thanh, truyền hình để quảng bá sâu rrộng vào trong quần chúng 4
chữ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ ngõ hầu vãn hồi nhân tâm, thế đạo. Vì thế mà mấy
năm nay, chúng ta thường thấy trên mặt các báo Chính luận, Hòa bình,
Sóng thần, Tiền tuyến, những khẩu hiệu: Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ.-Lễ, Nghĩa,
Liêm, Sỉ còn, Việt Nam còn v.v…
Thưa quý vị,
Chủ trương dùng bốn chữ Lễ, Nghĩa, Liêm,
Sỉ để phục hưng tinh thần đạo đức cho quốc gia dân tộc là một chủ trương
cố hữu từ ngàn xưa.
Cách đây 2600 năm, Quản Trọng (- 645) khi
làm tướng quốc nước Tề, đã áp dụng 4 chữ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ để làm quốc
sách chấn hưng tinh thần đạo đức cho dân.
Quản Tử nói: «Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ là Tứ
duy tức là bốn đầu dây của một nước. Bốn đầu dây ấy nếu không dương lên
được thì nước sẽ diệt vong.»
Nguyên văn của thiên Mục dân trong sách
Quản Tử như sau:
«Nước có 4 đầu dây. Một đầu dây đứt thì
phải nghiêng. Hai đầu dây đứt thì nước phải nguy. Ba đầu dây đứt thì
nước phải đổ. Bốn đầu dây đứt thì nước phải diệt.
«Nếu nghiêng thì còn làm cho ngay lại
được; nếu nguy có thể làm cho yên được; nếu đổ có thể nâng lên được; nếu
diệt vong, thì không thể nào gây dựng lại được nữa.
«Thế nào là tứ duy?
Một là Lễ, hai là Nghĩa, ba là Liêm, bốn
là Sỉ.
Lễ là không vượt quá chừng mực tiết độ.
Nghĩa là không hành động theo lối riêng tư
(mà làm điều hợp lý).
Sỉ là không làm điều sằng bậy.
Bởi không vượt quá chừng mực nên người
trên sẽ vững ngôi.
Bởi không hành động theo lối riêng tư, nên
người dân sẽ không xảo trá.
Bởi không che dấu lỗi xấu của mình, nên
hành vi tự nhiên sẽ hoàn hảo.
Bởi không làm điều xằng bậy, nên những
chuyện gian tà sẽ không sinh.»
Ngày nay, khảo lại vấn đề, xin quý vị hãy
cùng tôi đào sâu hơn cân nhắc kỹ càng hơn, có như vậy chúng ta mới
thưởng thức được cái hay cái đẹp của người xưa. Tôi xin lần lược bàn về
từng chữ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ.

LỄ
Lễ là một danh từ rất bao quát, hàm súc
rất nhiều ý nghĩa.
1) Lễ trước hết là một danh từ chung bao
quát mọi định luật thiên nhiên chi phối vạn vật quần sinh. (Ensemble des
lois naturelles)
2) Lễ là nghi lễ, là tất cả các bổn phận
con người đối với trời đất, tổ tiên (Céremonies, rites religieux,
rituel, céremonial).
3) Lễ là tất cả các quy luật chi phối sinh
hoạt tâm thần con người. (Lois morales)
4) Lễ là tất cả các các tổ chức chính trị
xã hội (organisation politique et sociale) có thể đem đại hòa, đại thuận
đến cho nhân quần.
5) Lễ là những cách cư xử tiếp nhân, đối
vật thanh lịch, khéo léo (Bonnes manières, convenances, décence, bonne
conduite, bonne tenue, courtoisie, bienséance, politesse).
6) Lễ là phong tục, tập quán hay nói đúng
hơn là tất cả những gì gọi là thuần phong mỹ tục (Usages et coutumes,
tradition).
Gần đây các học giả Au Châu, như Escarra,
như Needham
đã tìm hiểu sâu xa về chữ Lễ.
Các ông cho thấy rằng dân Trung Hoa cũng
như các dân tộc khác, xưa nay thường sống theo hai bộ luật.
Một là theo bộ luật tự nhiên, do Hóa công
đã ấn định. Bộ luật này được gắn liền vào với tính chất vạn hữu nhân
quần. Bộ luật này chi phối vạn hữu từ các vì tinh tú trên trời, đến con
người nơi gian thế.
Trung Hoa gọi những định luật tự nhiên là
Lễ.
Hai là theo bộ luật nhân tạo, do chính
quyền lập ra. Bộ luật này vì là nhân tạo, nên có khi hợp lý có khi không
hợp lý và thường có tính cách gò bó, khô khan, cứng cỏi không uyển
chuyển như những định luật tự nhiên.
Trung Hoa gọi những định luật tự nhiên này
là Pháp, hay Pháp luật.
Từ khi đức Khổng ra đời cho đến khi các
Nho gia chân chính sau này, nhất nhất đều chủ trương dạy con theo nững
định luật tự nhiên, theo những định luật tâm lý, nhân sinh, tức là phải
theo Lễ.
Chủ trương Lễ trị này cũng còn được gọi là
Nhân trị.
Chủ trương Lễ trị hay Nhân trị có thể toát
lược như sau:
Muốn sống một đời sống cá nhân, gia đình,
quốc gia hay xã hội hạnh phúc, ý nghĩa, đầm ấm, hòa hợp, cần phải biết
rõ định luật thiên nhiên chi phối vạn vật, chi phối sinh hoạt cá nhân và
đoàn thể.
Muốn tìm cho ra những định luật thiên
nhiên cần phải:
Biết quan sát ngoại cảnh.
Biết tâm lý.
Khảo lịch sử, phong tục.
Dựa theo lẽ phải.
Có vậy mới suy ra được hoạt động, cư xử lý
tưởng. Những định luật thiên nhiên chi phối con người có thể quy kết lại
thành 3 đề mục:
1) Con người sinh ra đời cần phải biết
thích ứng với hoàn cảnh. Chẳng những thế lại còn phải biết lợi dụng hoàn
cảnh để mà sống cho vui, cho mạnh.
2) Mặt khác, con người sinh ra đời còn có
nhiệm vụ truyền giòng giống.
3) Những nhiệm vụ chính yếu nhất của con
người là phải tiến hóa để tiến tới chân, thiện, mỹ.
Suy ra ta sẽ có những tiêu chuẩn, những
định tắc sau đây để hướng dẫn hành vi, sinh hoạt của ta.
1) Phải biết vệ sinh, phải biết hiếu sinh.
2) Phải lo cho có một dòng dõi hoàn hảo,
lành mạnh.
3) Phải lo gia tăng sinh lực, trau dồi
tình cảm, mở mang trí tuệ, nâng cao phẩm giá, nhân cách con người, vươn
mãi lên theo hướng chân, thiện, mỹ.
Vậy cái hay là cái gì làm cho đời sống ta
thêm mạnh, thêm sướng, thêm trật tự, thêm an lạc, thêm hòa hợp,thêm văn
minh, thêm tiến bộ.
Cái dở là cái gì làm cho đời sống cá nhân,
gia đình, xã hội, quốc gia trở nên rối loạn, bệnh hoạn, vô lý.
Nói cách khác, cái gì làm ta sống xứng
đáng với danh nghĩa con người, cái gì nâng cao giá trị con người, nâng
cao phẩm cách con người, khiến con người tiến về phía tinh thần, trở nên
thanh cao là hay.
Cái gì làm con người trở nên cục cằn, ti
tiện, gian manh, tàn ác, trở nên thoái hóa giống như muông thú là dở.
Thánh quân, hiền phụ xưa khi lập ra lễ,
lập ra những định tắc nhân luân đã dựa trên những tiêu chuẩn thiên nhiên
hết sức chắc chắn.
1) Vì thấy trời đất liệt bày lẽ tôn ti
trật tự, nên các Ngài minh định rằng xã hội này cần phải có tôn ti trật
tự, mới có thể sống thái bình hoan lạc, vì thế nên các Ngài đã minh định
phận vụ cho mỗi hạng người.
2) Các Ngài minh định rằng con người cần
phải theo định luật tự nhiên thì mới có thể có đời sống hay, đẹp; mà đã
nói đến định luật thì phải nói đến tiết độ. Cho nên các Ngài suy ra rằng
con người không thể sống một cuộc đời buông thả, nhưng làm gì cũng có
một chừng mực, tiết độ.
3) Các Ngài minh định rằng con người sinh
ra ở đời cần phải nhân nhượng lẫn nhau, kính trọng lẫn nhau, mới có thể
đi đến chỗ đại hòa, đại thuận.
Nếu phàm gặp trường hợp bất đồng ý kiến
nào, người xưa cũng cố điếu đình, nhân nhượng để đi đến cỗ ý hiệp tâm
đầu tránh mọi chuyện đổ vỡ. Chính vì thế mà ta thường hay nói: Lễ
nhượng.
4) Các Ngài cũng chủ trương rằng muốn được
lòng người khác, con người ta phải luôn luôn khiêm cung, nhún mình,
trọng người. Chính vì thế mà khi nói đến Lễ, ta thường liên tưởng đến
hai chữ Lễ phép, Lịch sự.
5) Các Ngài cũng thường quan niệm rằng
thuần phong, mỹ tục chính là kinh nghiệm của tiền nhân. Chúng gói ghém
tất cả những cách thức tốt đẹp để đối phó với mọi hoàn cảnh, để giải
quyết mọi công việc, vì thế cần phải bảo trọng.
Tóm lại nếu mọi người trong một quốc gia
xã hội:
- Sống theo những định luật tự nhiên.
- Không tự do buông thả.
- Biết lo trau dồi tâm thần cho một ngày
một nên cao khiết, trang nghiêm.
- Nhường nhịn nhau kính trọng lẫn nhau,
lịch sự tử tế với nhau.
- Sống theo điều hay lẽ phải thì sẽ đem
đến cho mình một đời sống xứng đáng, sẽ tạo cho quốc gia xã hội một
quang cảnh hạnh phúc, đầm ấm, hòa hợp.
Mới hay Lễ chi phối mọi hành vi cử chỉ của
con người, những cách giao tiếp của con người. «Lễ không cho phép đi quá
trớn, quá giới hạn, mực thước đã qui định, không cho phép xâm phạm quyền
lợi của người khác, vũ nhục, khinh khi hay sàm sở với người khác.»
Mục đích của Lễ là:
- Dạy dân cho biết nhân luân, biết hiếu,
biết kính.
- Nuôi dưỡng những tính tốt.
- Ngăn chặn những tính xấu.
- Điếu hòa đời sống tình cảm tâm tình.
- Xác định tôn ti, thiện ác, thị phi.
- Đem lại hòa hợp, ngăn chặn sự chia rẽ,
loạn lạc.
- Đào luyện cho con người ngày một thêm
thanh lịch, thêm nhân cách.
Hiểu Lễ là những định luật tự nhiên, là
những cử chỉ, những cách đối đãi đẹp đẽ mà muôn thế hệ đã lọc lõi, lưu
truyền lại trong các nếp sống hay đẹp của dân gian, ta sẽ thấy thánh
hiền Đông Á xưa đã có chủ trương hoàn toàn phù hợp với chủ trương của
các bậc thượng nhân, thượng trí mọi nơi, mọi đời trên thế giới.
Aritote cũng đã phân biệt hai loại lề
luật:
- Lề luật trời hay lề luật tự nhiên.
- Lề luật người hay lề luật nhân tạo.
Cicéron cũng cho rằng: Luật tự nhiên chính
là luật trời, cố sức dạy con người làm điếu hay tránh điều dở.
Âu Châu xưa cũng cho rằng: Luật nhân tạo
kém vua chúa; luật thiên nhiên hơn vua chúa. Vua chúa mà dạy làm điều gì
trái với luật tự nhiên thì dân chúng có quyền chống đối.
Thánh Thomas cũng cho rằng lề luật thiên
nhiên chính là thiên lý, chính là sự khôn ngoan của trời hướng dẫn mọi
hoạt động mọi biến chuyển.
Luật con người làm ra chỉ đúng là luật khi
nào phù hợp với lề luật thiên nhiên, còn nếu chúng đi ngược lại với luật
thiên nhiên thì không còn phải là luật nữa.
Hiểu Lễ là những định luật tự nhiên giúp
con người sống xứng đáng với danh nghĩa con người, sống hòa hợp với mọi
người, đoàn kết với mọi người, ta mới hiểu rõ ràng được nững câu sau đây
của Lễ ký và Tứ thư:
«Con chim anh vũ tuy biết nói nhưng vẫn là
chim. Con khỉ con vượn tuy biết nói nhưng vẫn là cầm thú, nên nếu con
người không biết lễ thì tuy biết nói cũng vẫn là có lòng cầm thú.
«Cầm thú, vì không biết lễ nên mới có sự
loạn luân, chung chạ.
«Cho nên thánh nhân lập ra lễ để dạy dân,
để con người biết theo lễ mà ăn ở khác với loài vật.»
Lễ là điều gì hợp lý.
Lễ nghĩa là đầu mối của con người.
Cho nên lễ phát nguyên từ trời, có tầm
hoạt động lan khắp trần gian, bao quát vạn sự biến chuyển theo thời,
thích ứng với mọi nghề nghiệp, hoạt động con người. Nơi tâm con người lễ
giúp làm nảy nở các đức tính tự nhiên. Trong hành vi con người lễ bao
quát mọi cách thức tặng dữ, trao đổi, mọi hành động, mọi phép lịch sự,
xã giao, mọi vấn đề ăn uống, quan hôn, táng tế, bắn cung, đánh xe, yết
triều, thăm hỏi…
«Lễ nghĩa quy định những gì hay, những gì
phải cho con người, nên rất cần yếu đối với con người. Nó dạy con người
biết làm sao để trở nên đức hạnh thật sự, làm sao để hòa thuận với
người. Nó giúp cho xương thịt con người trở nên cứng cát, rắn chắc, dạy
con người cách nuôi người sống, chôn kẻ chết, tôn kính quỉ thần. Nhờ Lễ
như là một cửa lớn, mà con người tìm ra được thiên đạo, sống thuận với
nhân tình. Vì thế mà thánh nhân cho rằng cần phải biết lễ.
«Quốc phá, gia vong, nhân tâm ly tán chính
là vì con người không còn biết cách sống theo những định luật của trời
đất, của nhân sinh…»
Cho nên muốn trị dân có hai cách.
Thượng sách thời dùng lễ trị dân. Khi ấy
người trên làm gương đáng cho người dưới, sống theo định luật thiên
nhiên, theo vật lý, tâm lý, thiên lý, theo danh dự, dạy dân biết nhường
nhịn lẫn nhau, biết xấu hổ mỗi khi mình làm điều gì xằng bậy. Đó là Nhân
trị, đó là Vương đạo.
Hạ sách là luật pháp trị dân, dùng thủ
đoạn trị dân, dùng hình phạt đe nẹt dân, lúc ấy dân sẽ tìm cách để trốn
tránh lề luật và không còn biết xấu hổ vì những hành vi bất chính của
mình nữa. Đó là Pháp trị, đó là Bá đạo.
Các Pháp gia xưa như Hàn Phi Tử (chết năm
232, năm thứ 15 Tần Thủy Hoàng), Thương Ưởng (chết năm 338) (làm tướng
quốc đời vua Tần Hiếu Công) đã có một đời dùng luật pháp nghiêm minh để
trị dân, nhưng cuối cùng đếu thất bại, vì đó gò bó miễn cưỡng, vô nhân
đạo không phù hợp với tâm lý con người.
Âu Châu ngày nay cũng đề cao Pháp trị,
cũng dùng những lề luật hình pháp bên ngoài để trị dân, cũng dùng những
thủ đoạn để thằng thúc, nhuyễn hoặc dân, chỉ bắt bẻ dân trên những hình
thức bên ngoài, chỉ cần dân tuân theo những thể chế, qui ước bên ngoài
mà thả lỏng lòng dục của dân, mặc cho các tính xấu của dân tha hồ phát
triển, miễn sao là dân khéo léo tránh né được con mắt dòm hành của pháp
luật, của các nhà cầm quyền, thế là đủ.
Vì thế nên thế giới ngày nay đã trở nên
thác loạn. Cá nhân thác loạn vì có thể sống buông thả vô kỷ cương; gia
đình thác loạn, sự tương kính tương thân trong gia đình dần dần mất đi;
xã hội thác loạn, vì giá trị con người đã mất, vì lòng trọng kính thương
yêu nhau cũng chẳng còn.
Cho nên ngày nay bàn về Lễ tức là muốn kêu
gọi mọi người chúng ta hãy sống một cuộc đời hẳn hoi, chừng mực theo lẽ
phải, xứng với danh nghĩa cao quý của con người, cổ súy tình tương thân,
tương nhượng, tương, kính, cố gắng bảo tồn những thuần phong mỹ tục,
những nề nếp đẹp đẽ của tiền nhân, để xã hội quốc gia đi đến chỗ đại hòa
đại thuận.

NGHĨA
Nếu Lễ là những định luật tự nhiên, là tất
cả những điều hay lẽ phải cầm cân nảy mực cho cuộc sống con người toàn
diện, cả công lẫn tư, từ tinh thần đến vật chất, thì Nghĩa là những gì
hay, những gì đẹp phải đem áp dụng vào đời sống xã hội, vào đời sống
giao tế con người. Như vậy Lễ có phạm vi lớn hơn, còn Nghĩa có phạm vi
hạn hẹp hơn, vì Nghĩa chỉ chi phối con người xã hội.
1) Cho nên Nghĩa trước hết phải được hiểu
là mọi cách cư xử hẳn hoi.
Nghĩa cũng còn là những bổn phận mà mỗi
người phải tuân giữ khi đóng mỗi một vai trò trong xã hội.
Người xưa quy định mười bổn phận, gọi là
thập nghĩa. Mỗi một hạng người trong xã hội lại có một bổn phận khác
nhau:
Vua phải nhân.
Thần phải trung.
Cha phải khoan từ.
Con phải hiếu thảo.
Anh phải hẳn hoi.
Em phải kính thuận.
Chồng phải đường hoàng.
Vợ phải nhu thuận.
Người lớn phải thi ân.
Người nhỏ phải vâng phục.
Nếu ai cũng ăn ở cho đúng với phương vị,
đúng với bổn phận mình, thì thân tu, gia tề, quốc trị, thiên hạ bình.
Sở dĩ ngày nay chúng ta chứng kiến những
cảnh loạn lạc trong nhân quần, những cảnh băng đọa trong gia đình, ngoài
xã hội, chính là vì vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra
cha, con chẳng ra con, chồng chẳng ra chồng, vợ chẳng ra vợ, anh chẳng
ra anh, em chẳng ra em.
3) Nghĩa cũng là sự công chính, sự chính
trực, cho nên sự bất nghĩa thường được hiểu là gian tà, bất lương, bất
chính.
Tôn chỉ người xưa là phải sống cho quang
minh chính đại dẫu phải nghèo hèn vì thế cũng cam, còn hơn là theo đường
gian tà mà được hưởng giàu sang phú quý.
Đức Khổng nói: «Ăn cơm thô, uống nước lã,
co cánh tay mà gối đầu trong cảnh đơn bạc như vậy mà nhà đạo đức vẫn lấy
làm vui. Chớ do nơi những hành vi bất nghĩa mà trở nên giàu có và sang
trọng, thì ta coi cảnh ấy như mây nổi.»
4) Nghĩa chính là sự công bình xã hội.
Sống trong xã hội này, có ta mà cũng có ngươì. Ta muốn sống hẳn hoi, thì
cũng phải cho người được sống hẳn hoi nữa.
Cho nên người anh hùng trọng nghĩa là
những người sẳn sàng chiến đấu để dẹp tan những nỗi bất bằng, luôn luôn
ra tay để bảo vệ những kẻ cô đơn hèn yếu.
«Anh hùng đã gọi tiếng rằng,
Giữa đường chẳng thấy bất bằng mà tha.»
(Kiều)
5) Con người sinh ra ở đời tất nhiên phải
có liên lạc chặt chẽ với nhau.
Giây liên lạc thiêng liêng nhất được tạo
nên bởi huyết thống hay tình cảm, yêu đương. Ví như ta nói tình phụ tử,
tình bằng hữu.
Mối dây liên lạc thứ hai cũng không kém
phần quan trọng. Đó là tình nhân loại, mối tình này được tạo nên do tiếp
xúc với nhau, hoặc do những cách đối xử đẹp đẽ với nhau. Có tình tức
phải có nghĩa, có thương tức là phải có bổn phận. Ta thường nói:
«Một ngày nên nghĩa chuyến đò nên quen» là
vì vậy. Ta cũng còn nói:
Nghĩa quân thần, nghĩa phu thê v.v…
Như vậy, chữ nghĩa còn thường gói ghém
tình thương, tình yêu. Mà thật ra, Nghĩa chính là biểu dương của lòng
yêu thương. Không thương nhau, không yêu nhau, thì khó mà đối đãi với
nhau cho đẹp được.
6) Nghĩa là con đường hướng thượng, con
đường lý tưởng của cuộc đời.
Lễ ký cho rằng nếu ta biết giữ Lễ, nghĩa
là nếu ta tuân theo những định luật của trời đất, ta sẽ đạt được thiên
lý, và sẽ sống thuận nhân tình.
Trong khi đó thì Mạnh Tử lại cho rằng nếu
ta biết chuyên lo làm việc nghĩa, chuyên lo làm điều hay lẽ phải thì
trung đời ta, thì ta sẽ bồi dưỡng khí hạo nhiên của trời đất nơi mình
ra. Nói cách khác, nếu ta luôn làm điều hay lẽ phải, nếu trong bất kỳ
trường hợp nào ta cũng cố xử sự cho hay cho đẹp, cho hoàn toàn thì tức
là ta đã thực hiện được sự hoàn thiện, đã thực hiện được tinh hoa nhân
loại.
Nếu nói theo từ ngữ Đại Học, thì làm việc
Nghĩa, làm theo điều hay lẽ phải, ta sẽ làm cho ánh sáng Minh Đức trong
ta rãi sáng dần ra bên ngoài, và có thể làm cho ánh sáng ấy lan tỏa ra
khắp năm châu.
Như vậy tức là muốn thực hiện một cuộc đời
lý tưởng, ta phải làm điều nghĩa, phải sống cho lý tưởng trong bất ký
trường hợp nào.

LIÊM
Chữ Liêm có nghĩa là thanh liêm, liêm
khiết.
Một người liêm khiết luôn luôn giữ cho
nhân cách mình được vẹn toàn thanh danh mình được trọn vẹn, không lợi
dụng địa vị mình để chiếm công vi tư, để bóc lột nhũng nhiễu đồng loại.
Sách Chu Quan xưa đã dùng chữ Liêm để bao
quát mọi đức tính của một người đứng ra đảm đương công vụ.
Theo Chu Quan, thì một công bộc quốc gia
liêm chính phải: có đức, có tài, biết kính trọng nghề nghiệp, vui vẻ với
mọi người, công chính vô tư, biết lễ, biết phép, biết hay dở phải trái,
tóm lại một người liêm chính la một người tài đức xứng với danh vị của
mình, với chức tước, phận vị của mình.
Liễu Di Trung bình về chữ Liêm như sau:
«Liêm là thấy của người, không ham được
một cách phi pháp. Thế tức là biết xét nét đâu là giới hạn giữa công và
tư của mỗi người không dám làm điều xấu rồi tìm cách che đậy.
Quản Tử cho rằng: Không che đậy điều xấu,
tức là đức hạnh vẹn toàn. «Thế là Liêm có mục đích bồi dưỡng và kiện
toàn nhân cách vậy.
«Lễ nghĩa là đại pháp để trị người. Liêm
sỉ là đại tiết để giúp con người nên người.
«Vì nếu không liêm thì của gì cũng lấy,
không sỉ thì việc gì cũng làm.
«Người mà đến như thế, thì họa bại vong
loạn còn cái gì, mà chẳng đến.
«Phương chi kẻ làm quan mà cái gì cũng dám
lấy cái gì cũng dám làm, thì làm sao mà thiên hạ không loạn, quốc gia
không mất cho được.»
Gương thanh liêm xưa nay rất nhiều, nhưng
có lẽ cảm động nhất là gương Gia Cát Vũ Hầu. Gia Cát Khổng Minh suốt
trong 12 năm trời giúp vua Thục, ra thời làm tướng võ, vào thời làm
tướng văn, binh quyền nắm hết trong tay, mà rút cuộc bản thân cũng chẳng
giàu có gì, lại còn gởi thân nơi chiến địa. Đến như con cái cũng chẳng
được thừa hưởng gì công danh, lợi lộc của cha. Lúc xuất chính Gia Cát có
800 gốc dâu, 50 mảnh ruộng thì đến lúc chết cũng vẫn chỉ có 50 mảnh
ruộng, 800 gốc dâu. Thực là liêm khiết hết mức.
Mạo Tôn Cương bình về Khổng Minh như sau:
Tào Tháo, Tư Mã Ý làm tướng cũng nắm hết quyền binh như Khổng Minh. Ba
người cùng có những thần cơ diệu toán khiến mọi người khâm phục. Nhưng
một bên thì soán đoạt, một bên thì trung lương mà được. Một bên thì bụng
riêng tư, bên thì lòng vô tư. Bên thì giao quyền lại cho con cháu, mưu
đồ cho con cháu, bên thì không giao cho con cái, không mưu chiếm cho con
cháu, chỉ trao người hiền tài, chỉ lo cho quốc gia. Tháo chết giao quyền
cho Phi. Ý sắp chết giao quyền cho Sư Chiêu. Vũ Hầu thì không thế. Khi
lâm chung giao việc thừa tướng cho Tưởng Uyển, Phí Vy. Việc Đại tướng
quân thì giao cho Khương Duy. Còn Gia Cát Chiêm, Gia Cát Thượng không hề
dự đến. Ngoài 800 gốc dâu và 50 mảnh ruộng, gia đình Gia cát không con
chút gì riêng để làm giàu. Thế là cái ông Khổng Minh ra tướng võ vào
tướng văn, với cái ông Khổng Minh ôm gối gảy đàn…chỉ là một, chẳng có gì
khác vậy. Xưa kia lúc sắp bước chân ra khỏi lều tranh, lòng đã những
mong sau khi thành công sẽ chu du Ngũ Hồ như Phạm Lãi, sẽ tịch cốc như
Trương Lương. Thế mà không được như sở nguyện, lại chết giữa mặt trận
gió lạnh sao rơi ở Ngũ Trượng Nguyên! Than ôi! Con người như thế, dễ gì
tìm thấy trong đám công danh phú quý ở đời? (Tử Vi Lang dịch thuật, Tam
Quốc Chí diễn nghĩa, IV, tr.1856, 1857)
Như vậy, người xưa khi nói đến liêm khiết,
những muốn đề cao nhân cách con người khi ra giúp nước, và khuyên người
cầm quyền phải luôn luôn vì nước vì dân, không màng lợi lộc, chỉ cốt sao
cho hẳn hoi trọn vẹn, tiết sạch giá trong.

SỈ
Sau hết người xưa thường đề cao chữ Sỉ. Sỉ
là biết xấu hổ. Nhưng đối với người xưa, xấu hổ không phải là vì tiền
bạc thua người, áo xống kém người, nhưng xấu hổ vì đã không làm tròn
phận sự mình, xấu hổ vì những điếu xằng bậy mình đã làm, xấu hổ vì đã
không theo được lý tưởng mình đã vạch ra.
Trong Luận Ngữ, Đức Khổng khen Tử Lộ: «Mặc
áo dài bằng vải cũ rách, đứng chung với những người mặc áo lông hồ lông
hạc mà chẳng hổ thẹn, đó là trò Do chứ!»
Ngài cũng còn nói: «Kẻ sĩ chuyên tâm cầu
đạo, nhưng còn hổ thẹn vì nỗi áo xấu, cơm thô, thì chưa đáng được nghe
bàn luận đạo lý.»
Luận Ngữ cho rằng:
Điều đáng xấu hổ, là bên trong thời gian
ác, xấu xa mà bên ngoài thời dùng lời nói hay, bộ tịch khéo léo, lịch sự
để che đậy; bề trong thì ooán ghét người mà bên ngoài lại giả tảng thân
thiết với người.
Điều đáng xấu hổ là khi trong nước loạn
ly, mà mình dùng những phương tiện bất chính để trở nên sang trọng dư
dật.
Điều đáng xấu hổ làlúc nào cũng bo bo nghĩ
đến lợi lộc cơm áo riêng tư, còn vận nhà, vận nước thì mặc cho gió cuốn,
sống vùi.
Người xưa chỉ xấu hổ khi tài đức không
xứng với chức vị khi không có tài đức mà dám cầm trọng trách, đẻ cho cơ
đồ tan hoang đổ vỡ. Chín vi tế mà trong một cuộc đối thoại với Mạnh Tử,
Lương Huệ Vương tỏ ra xấu hổ vì trrong khi cầm quyền đã thua trận, mất
đất.
Ngươi xưa chỉ xấu hổ khi mình đã ở cấp
lãnh đạo mà không làm được cho đạo đức thi hành.
Lễ Ký cho rằng người quân tử khi cầm quyền
xấu hổ 5 điều:
1) Có địa vị mà lời ăn tiếng nói không
xứng đáng.
2) Lời ăn tiếng nói xứng đáng mà hành động
không xứng đáng.
3) Đã có đức độ rồi lại làm mất đức độ.
4) Trị dân mà dân bỏ ra đi.
5) Người khác trị dân cũng có phương tiện
như mình mà lại thâu lượm được kết quả gấp đôi.
Mạnh Tử cho rằng:
«Biết xấu hổ rất hệ trọng với con người.
Những người chuyên sống xảo trá, quỷ quyệt đã bỏ mất tấm lòng hổ thẹn
của mình rồi. Khi đã không còn có liêm sỉ như mọi người, thì làm sao mà
còn là giống người được nữa!»
Tóm lại có biết trọng danh dự thì mới xứng
đáng là con người. Làm người mà bán rẻ khí tiết danh dự thì làm sao mà
còn có thể gọi là con người được nữa?
Thưa quí vị và quí bạn,
Đầu niên khóa mà trình báy cùng quí vị và
quí bạn đề tài Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ tức là muốn nói lên ý nguyện của
trường Đại Học Nhân Văn và Nghệ Thuật Minh Đức muốn đề cao những giá trị
vĩnh cửu của con người, muốn khuyến khích các bạn sinh viên ra công trau
dồi trí não, rèn luyện xác thân.
Chúng tôi thành khẩn ao ước các bạn sẽ trở
thành những mẫu người xứng đáng biết trọng nhân cách, danh dự, biết sống
theo những định luật tự nhiên biết tự xử tự giác, biết kính biết nhường,
biết yêu chuộng lý tưởng biết tha thiết với những điều hay lẽ phải.
Chúng tôi hết sức ao ước quý bạn luôn luôn
cố gắng phát huy mọi tiềm năng, tiềm lực các bạn, hãy cố gắng vạch ra
cho mình con đường hướng thượng, con đường lý tưởng và luôn luôn hướng
về tinh hoa cao đại.
Chúng tôi ước mong quí bạn lúc nào cũng
sống cho hay, cho đẹp trong bất kỳ hoàn cảnh nào, và bất kỳ là đối với
ai.
Chúng tôi ước mong các bạn sẽ là những
trung tâm sống động quy tụ lại tinh hoa, tú khí của trời đất, tinh hoa
của cả hai nền văn minh Âu Á.
Chúng tôi cũng xin tặng quý bạn bốn câu
thơ cổ:
«Minh kính chỉ thủy dĩ tồn tâm,
Thái sơn, kiều nhạc dĩ lập thân.
Thanh thiên, bạch nhật dĩ ứng sự,
Thanh phong minh nguyệt dĩ đãi nhân.»
Tạm dịch:
Lòng như nước lắng gương trong,
Thân như non Thái phong long cao vời.
Thanh thiên, bạch nhật đối đời,
Trăng trong gió mát với người ở ăn.
Đến đây tôi xin kết thúc bằng một câu Luận
Ngữ:
«Người quân tử trước học văn chương để mở
mang trí thức mình, kế đó nương theo lễ giáo mà kiễm giữ lấy nết mình
nhờ vậy mà khỏi trái với đạo lý.»
Ước mong anh em sinh viên sẽ lấy đó để làm
những phương châm hướng dẫn mình trên con đường tu thân, cầu học. Ước
mong anh em sẽ trọng lễ, nghĩa, liêm, sỉ như là những nấc thang để tiến
tới chân, thiện, mỹ.●
CHÚ THÍCH
Đã đăng Tập san Minh Đức, số 8, tháng 12-1973 & 01-1974.
Xem Trương Kỳ Quân, Trung Hoa ngũ thiên niên sử, quyển 3, chương X,
tr.127.
Cf. Séraphin Couvreur, Mémoires sur les bienséances et les cérémonies
(Li Ki) Tome I. P.IX.
Cf. Jean Escarra, Le droit chinois, Editions Henri Vetch, Pékin,
Librairie du Recueil Sirey. Paris, 1936.
Cf.-Joseph Needham, Science and Civilisation in China Tome 2 p.518-584.
Cf. Needham, Science
and Civilisation in China Tome 2, pp.518-538. Human Law and the laws of
nature in China and the West.
-Jean Escarra, Le Droit Chinois, p.17.
Jean Escarra, Le droit chinois, p.59.
Cf. Nguyễn văn Thọ, Chân dung Khổng Tử, tr.181-182.
…Hỗn độn nguyên khí
ký phân, khinh thanh vi thiên tại thượng, trọng trọc vi địa tại hạ, nhi
chế lễ giải pháp chi nhi lập tôn ti chi vị dã. (Khổng Đĩnh Đạt) 5
Couvreur, Li Ki, I, p.527, notes)
Khi nguyên khí đã phân, thì khí thỉnh
thanh ở trên thành trời, khí trọng trọc ở dưới thành đất, nên người lập
ra lễ, phỏng theo đó mà lập ra thứ vị thấp cao:
…Phù Lễ giả sở dĩ chương nghi, biệt vi, dĩ
vi dân phường giả dã. Cố quí tiện hữu đằng, y phục hữu biệt, triều đình
hữu vị, tắc dân hữu sở nhượng. (Lễ Ký, Phương Ký, XXX)
Phù Lễ giả, tiên
vương dĩ thừa thiên chi đạo, dĩ trị nhân chi tình. (Lễ ký, Lễ vận, IX) :
Lễ là tiên vương vâng theo cái đạo của trời để trị cái tình của người.
-Lễ hồ, lễ hồ, sở dĩ chế trung dã. (Lễ ký,
Ai công vấn). Lễ để điều chế cho vừa đúng mức.
Thị dĩ quân tử cung
kính, tốn tiết, thoái thượng dĩ minh lễ. (Lễ ký, Khí lễ, I). Vì thế nên
người quân tử cung kính, sống cho có chừng mực, tiết độ, nhún mình,
nhường người để làm sáng tỏ chữ Lễ…L’idéal suprême du Kiun Tseu (quân
tử) est, en toutes circonstances de faire preuve, d’une juste mesure,
d’une modération rituelle, qui se traduit par le gout du compromis, des
concessions réciproques, de la cote plus ou moins taillée. Abuser de son
avantage invoquer «son droit» sont des choses mal vues en Chine.
Le grand arrt est de céder sur certains
points, afin de réserver une monnaie d’échange pour obtenir des
avantages ailleurs. Toute la philosophie chinoise est incluse dans cette
notion de Yang (Nhượng) céder, faire preuve de modération…(Jean Escarra,
Le Droit chinois, pp.17, 18)
Quoi qu’il en soit,
cet enseignement confucéen de la suprématie des rites surr la loi
traduisant des notions longuement élaborées, depuis des oigines dans la
conscience du peuple chinois demeure vivance…(Jean Escarra, Le Droit
chinois, p.19)
…Il y a là des textes qui reflètent
intensément ce qu’il y a de permanent dans la civilisation chinoise et
qui à ce titre, sont un précieux complément des lois civiles récemment
promulguées. (Ibid. 162)
Tứ thể cử chính,
phu cách sung doanh, nhân chi phì dã. Phụ tử đốc, huynh đệ mục, phu phụ
hòa, gia chi phì dã. Đại thần pháp, tiểu thần liêm, quan chức tương tự
quân thần tương chính, quốc chi phì dã.
Tử viết: Chế độ tại
lễ, văn vi tại lễ, hành chi ký tại nhân hồ! (Lễ ký, Trọng Ni yến cư,
XXV). Lễ quy định mực thước phải giữ, hành động hay đẹp phải theo, nhưng
giữ được là tùy nơi người.
Tử viết: …Quân tử
lễ dĩ sức tình (Lễ ký, Tăng tử vấn). Người quân tử lấy lễ làm đẹp tâm
tình.
- Phù lễ, tiên vương dĩ thừa thiên đạo, dĩ
trị nhân chi tình. (Lễ ký, Lễ vận IX). Lễ là tiên vương vâng theo cái
đạo của trời, để trị cái tình của người.
- Lễ giả nhân chi tình nhi vi chi tiết
văn, dĩ vi dân phường giả dã. (Lễ ký, Phường ký, XXX). Lễ là nhân cái
thường tình của người ta mà đặt ra tiết độ, văn vẻ để làm cái ngăn giữ
cho dân.
- Phù Lễ giả, sở dĩ định thân sơ, quyết
hiềm nghi, biệt đồng dị minh thị phi dã (Lễ ký, Khúc lễ thượng, I). Lễ
là cốt để ohân ra trật tự, khiến cho vạn vật kông có điều gì hồ đồ, hỗn
độn.
- Phù Lễ giả, sở dĩ định thân sơ, quyết
hiềm nghi, biệt đồng dị minh thị phi dã (Lễ ký, Khúc lễ I). Lễ cốt để
định thân sơ, tránh hết lẫn lộn, nghi ngờ, phân biệt cái gì giống nhau,
cái gì khác nhau cho thấy rõ cái nào là phải, cái nào là sai…
- Nhân hữu lễ tắc an, vô lễ tắc nguy, cố
viết: lễ giả bất khả bất học dã (Lễ ký, Khúc lễ, I). Người có lễ sẽ bình
an, không có lễ sẽ nguy, cho nên nói lễ cần phải được học hỏi vậy.
Lex Oeterna nihil
aliud est quam summa ratio divinae sapientine secun dum quod est
diectiva omnium actuum et motionum.
Cảm vấn: «Hà vị hạo
nhiên chi khí?» Viết: «Nan ngôn dã. Kỳ vi khí dã chí đại chí cương; dĩ
trực dưỡng chi nhi vô hại, tắc tắc hồ thiên địa chi gian. Kỳ vi khí dã,
phối nghiã giữ đạo; vô thị, nỗi dã. Thị tập nghĩa sở sinh dã. Phi nghĩa
tập nhi thủ chi dã.» (Mạnh Tử, Công tôn Sửu, chương cú thượng, 2)
Dám hỏi thầy: Sao gọi là khí hạo nhiên?
- Khó giải lắm. Cái khí rộng lớn, bao la,
cứng cỏi vững vàng lắm. Nếu mình thuận theo lẽ thẳng mà bồi dưỡng nó,
đừng làm tổn hại nó thì nó sẽ lan ra khắp trong khoảng trời đất này. Cái
khí ấy phối hợp với việc nghĩa việc đạo băng không nó sẽ hư hoại đi.
Quân tử hữu ngũ sỉ:
Cư kỳ vị nhi vô ngôn: quân tử sỉ chi.
Hữu kỳ ngôn vô kỳ hành, quân tử sỉ chi.
Ký đắc chi nhi hựu thất chi, quân tử sỉ
chi.
Địa chi dư, nhi dân bất túc, quân tử sỉ
chi.
Chúng quả quân nhi bội yên, quân tử sỉ
chi.
Mạnh Tử viết: «Sỉ chi ư nhân, đại hỹ. Vi
cơ biến chí xảo giả, vô sở dụng sỉ yên. Bất sỉ bất nhược nhược nhân, hà
nhược nhân hữu?»
|