THIÊN VĂN VỚI
TẾT VỚI XUÂN
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

X uân đã về! Hương sắc
Xuân chẳng những tràn ngập vũ trụ mà còn tràn ngập lòng người, tràn ngập báo
chí!
Số Phương Đông lần
này, vì Tết, vì Xuân, đã tạm ngừng đăng tải những bài vở thường xuyên, đã thay
đổi cả nội dung lẫn hình thức để đón Xuân.
Vì thế nên loạt bài về
thiên văn thông thường của tôi, đến số này cũng tạm gián đoạn.
Nhưng chẳng lẽ trong
khi trời, đất, người rộn rã đón Xuân mà riêng mình lại thờ ơ, lãnh đạm với Xuân.
Cho nên trong khi:
Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ,
Xuân
mãn càn khôn, phúc mãn đường.
Tôi cũng muốn viết một
bài có hương sắc Xuân, để cùng độc giả xa gần vui Xuân, và cũng là mượn dịp gửi
đến quí vị độc giả thân mến những cảm tình nồng hậu và những lời chúc tụng chân
thành của tôi nhân buổi đầu Xuân.
Suy đi tính lại, tôi
thấy không gì hơn là, trong khi chúng ta vui Xuân, là làm được cho các vì sao
trên trời cùng chúng ta rộn rực niềm Xuân, làm được cho vũ trụ cùng với chúng ta
rộn rã niềm Xuân. Cho nên thay vì viết một đề tài thông thường, tôi sẽ xin mạn
đàm về: Thiên văn với Tết, với Xuân.

Ngày Nguyên đán
Ngày Nguyên đán đối
với dân tộc Á Đông dĩ nhiên là một ngày trọng đại, vì Nguyên đán là:
Sáng đầu năm,
Sáng
đầu tháng,
Sáng
đầu ngày.
Vì lẽ đó, người xưa
gọi ngày Nguyên đán là ngày Tam Thủy, hay Tam Nguyên.
Có cái lạ là ngày
Nguyên đán lại không trùng với ngày Lập Xuân. Ví dụ như năm Canh Tuất (1969) thì
Lập Xuân là ngày 28 tháng chạp, năm Kỷ Dậu; năm Tân Hợi (1970), Lập Xuân là ngày
9 tháng giêng; đến năm Nhâm Tí này, Lập Xuân lại là ngày 21 tháng chạp Tân Hợi…
Ngày Nguyên đán thường
nhằm vào ngày đầu tháng giêng, nhưng đó không phải là một công lệ cố định.
Trong bài Tết
Nguyên đán qua các nước và các thời đại đăng trong số Xuân Trung Bắc Chủ
Nhật, năm Nhâm Ngọ (1942), ông Lê Hồng Phong ghi đại khái như sau:
Đời vua Hoàng Đế (1697
tcn), dân Trung Hoa ăn Tết vào ngày 1 tháng 11 ta bây giờ.
Vua Nghiêu
(2356-2255), vua Thuấn (2255-2205) lại tính tháng đầu năm vào tiết Vũ Thủy, tức
là vào khoảng trung tuần tháng Février, hay hạ tuần tháng giêng ta bây giờ.
Đến thời nhà Hạ
(2205-1766) mới lấy tháng Dần làm tháng giêng và lấy ngày 1 tháng giêng làm ngày
Nguyên đán.
Nhà Thương (1766-1122)
lại lấy tiết Đại Hàn để khởi tính tháng giêng, tức là khoảng hạ tuần tháng
Janvier hay thượng tuần tháng chạp ta bây giờ.
Nhà Chu trở lại theo
Hoàng Đế, lấy tháng Tí tức là tháng 11 bây giờ làm tháng đầu năm.
Nhà Hán thời bắt chước
vua Nghiêu, vua Thuấn, lấy tiết Vũ Thủy làm đầu năm.
Như vậy tết Nguyên đán
ngày nay nhằm ngày 1 tháng giêng là theo tục lệ đời nhà Hạ…
Hai chữ Nguyên
đán đã được dùng tự lâu đời. Xuân Thu Tả Truyện viết:
«Nguyên
đán là ngày lên ngôi của các vua chúa đời xưa. Mỗi đời vua đều bắt đầu bằng ngày
đó.»
Nói thế có nghĩa là
dẫu vua có lên ngôi một vài tháng trước, nhưng năm cũ vẫn được kể là thuộc triều
vua trước. Từ ngày Nguyên đán trở về sau, mới được kể là triều đại của tân quân.
Sáng sớm ngày Nguyên
đán, trong triều ca, đình thần chúc vua vạn tuế. Ngoài dân gian, mọi người cũng
chúc nhau sang giàu, hạnh phúc, buôn may bán đắt, sinh con đẻ cái, thăng quan
tiến chức, công thành danh toại, v.v.

Mùa Xuân
Ta thấy năm Âm lịch
xưa bắt đầu:
- Hoặc là vào đầu
tháng giêng, tức là vào đầu mùa Xuân.
- Hoặc là vào giữa
tháng 11, tức là vào ngày Đông Chí.
Ta có thể nói:
- Ngày Đông Chí (15
tháng 11 ta, 21-25 tháng 12 Tây) là ngày đầu năm Thiên văn (début de l’année
astronomique).
- Ngày đầu Xuân (1
tháng giêng ta) là ngày đầu năm nhân sự (début de l’année humaine ou civile).
Ngày Đông Chí là
ngày «nhất
Dương sinh»,
là ngày mặt trời như quay gót lại trên đường trời, là ngày mà vừng Dương như
sống lại.
Ngày tái sinh của mặt
trời ấy từ xưa đã được nhiều nước ăn mừng rất lớn, nhất là các nước quanh vùng
Địa Trung Hải, vì dân chung quanh vùng ấy thờ thần Mithra (thần mặt trời). Sau
này giáo hội La Mã, vào khoảng thế kỷ IV, đã chính thức chấp nhận ngày lễ ấy làm
ngày lễ Giáng Sinh.
Nhưng vì ngày Đông Chí
tiết trời còn lạnh lẽo quá, nên người ta mới chọn tháng giêng làm tháng đầu năm
nhân sự, để tiện khởi sự công việc đồng áng.
Đối với người Trung
Hoa:
- Tháng 11 ta (tháng
Tí) ứng vào quẻ Phục (nhất Dương).
- Tháng 12 ta (tháng
Sửu) ứng vào quẻ Lâm (nhị Dương).
- Tháng giêng ta
(tháng Dần) ứng vào quẻ Thái (tam Dương).
Vì thế, nói về
tháng giêng, ta thấy các cụ xưa thường dùng chữ
«Tam
Dương khai Thái»
三
陽
開
泰.
Mùa Xuân là mùa vạn
vật chuyển mình sống động lại. Chữ Xuân
春
có nghĩa
là động, sống động.[5]
Mùa Xuân, sau những
giọt mưa Xuân, các loài đông miên (animaux hibernants) bừng tỉnh dậy, và mầm
mộng cây cối cũng bắt đầu thoát ra khỏi vỏ.
Mùa Xuân gồm có 3
tháng:
- Tháng giêng (tháng
Dần). Dần nghĩa là tấn tuồng vũ trụ bắt đầu được trình diễn. Chữ Dần
寅
thêm bộ thủy thành chữ diễn
演).
- Tháng hai (tháng
Mão). Mão nghĩa là cửa trời đất mở ra để vạn vật đua sống.
- Tháng ba (tháng
Thìn). Thìn có nghĩa là chấn động, phân phát. Chữ Thìn
辰
thêm bộ vũ 雨
trên đầu thành chữ chấn
震.
Mùa Xuân cũng như các
mùa khác, còn được chia thành 6 tiết khí. Mỗi tiết hay khí
được chia thành 6 hậu. Như vậy mỗi tiết hay khí có 15 ngày, mỗi hậu là 5
ngày.
Thiên Nguyệt Lệnh sách
Lễ Ký đã mô tả những hiện tượng thiên nhiên quan sát được trong mùa Xuân,
qua các tiết hậu như sau:
- Lập Xuân (đầu tháng
giêng: primum ver).
1. Gió
thổi làm tan băng giá (đông phong giải đống).
2. Các
loài sâu bọ sống trong đất bắt đầu giao động (trập trùng thủy chấn).
3. Cá ngoi
lên trên lớp băng (ngư thướng băng).
- Vũ Thủy (mưa rơi;
cuối tháng giêng)
4. Rái cá
bắt cá (bắt cá tế thần: lại tế ngư).
5. Chim
hồng chim nhạn bắt đầu bay về (hồng nhạn lai).
6. Mưa bắt
đầu rơi (thủy vũ thủy).
- Kinh Trập (các loài
sâu bọ giao động; đầu tháng hai).
7. Đào bắt
đầu nở hoa (đào thủy hoa).
8. Chim
oanh bắt đầu líu lo (thương anh minh).
9. Chim
ưng hóa thành chim gáy (?) (ưng hóa vi cưu).
- Xuân Phân (giữa mùa
Xuân: Équinoxe du printemps; cuối tháng hai).
10. Nhạn
đen trở về (huyền điểu chí).
11. Bắt
đầu có sấm (lôi nãi phát thanh).
12. Bắt
đầu có chớp. Các loài đông miên phá tổ ra ngoài (thủy điện, trập trùng cảm động,
khải hộ thủy xuất).
- Thanh Minh (tiết
trời trong sáng; đầu tháng 3).
13. Ngô
đồng (vông) bắt đầu nở hoa (đồng thủy hoa).
14. Chuột
đồng hóa thành chim cút (?) (điền thử hóa vi như).
15. Cầu
vồng bắt đầu mọc (hồng thủy hiện).
- Cốc Vũ (mưa để nuôi
lúa; cuối tháng 3).
16. Bèo
bắt đầu sinh (bình thủy sinh).
17. Các
mầm mộng nhất tề mọc lên (cứ giả tất xuất, giả tất đạt).
18. Chim
tu hú vỗ cánh rỉa lông trên các ngàn dâu (minh cưu phất kỳ vũ, đái thắng giáng
vu tang).
Về hàng thập Can, Xuân
ứng với chữ Giáp, Ất.
- Giáp là phá vỏ mà
ra.
- Ất là hãy còn cụp,
chưa vươn lên được.
Như ta đã thấy, hiện
tượng thoát khỏi lòng đất, thoát khỏi vỏ là một hiện tượng thiên nhiên quan
trọng trong ngày Xuân. Vì thế nên trong ngày Xuân thuở xưa, vua và quần thần
phải ra đồng cày mỗi người một hay vài ba luống, chẳng những là để làm gương cho
dân nên bắt tay ngay vào công việc đồng áng, mà còn là để làm một động tác tượng
trưng: phá vỡ mặt đất để giúp cho muôn vật sớm vươn lên.
Về bát quái, Xuân ứng
với quẻ Chấn, vì chấn là sấm động. Người xưa cho rằng ngày Xuân sấm động làm
rung chuyển lòng đất cho muôn loài có sức mọc lên.
Về màu sắc, Xuân ứng
với màu xanh, vì màu xanh là màu của cây cỏ lúc đang xuân.
Về phương hướng, Xuân
ứng với phương đông, vì Xuân cũng ấm áp, cũng sáng láng như mặt trời mới mọc ở
phương đông.
Về đức hạnh, Xuân ứng
với đức Nhân, nên trong mùa Xuân, nhà vua xưa tránh sự sát phạt, mà chỉ tưởng
thưởng, cầu hiền.
Đối với tứ linh, Xuân
ứng với rồng. Rồng là con vật đông miên; lúc mưa Xuân sẽ tỉnh dậy và dùng sừng
húc tung đất ra để sống lại cuộc sống vẫy vùng, ngang dọc như xưa. Thiên văn học
sẽ khai thác sự tương ứng này.

Thiên văn với
Tết với Xuân
Những điều vừa trình
bày trên sẽ giúp ta hiểu rõ những liên lạc giữa Thiên văn với Tết với Xuân.
Chúng ta cũng nên nhớ
rằng người xưa cho rằng trời đất người phải hài hòa cộng tác với nhau. Cho nên,
người xưa đặt tên các sao dựa vào các công việc và các ước mơ của con người, để
tùy theo khí tiết, tùy theo sự vần xoay của bốn mùa, cứ xem sao là biết mình
phải làm gì.
Cũng vì thế mà Xuân
ứng với chòm sao Thanh Long trong Nhị thập bát tú.
Chòm sao Thanh Long
gồm 7 nhóm sao là: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.
Giác là sừng rồng,
Cang là cổ rồng,
Đê là ngực rồng,
Phòng là bụng rồng,
Tâm là tim rồng,
Vĩ và Cơ là đuôi rồng.
1. Sao Giác
(a
, s de la Vierge)
Léopold Saussure
viết: «Sao
Giác, sao Cang tượng trưng cho ngày Lập Xuân của Trung Hoa.»
Ngày Xuân, vạn vật
dưới gian trần dùng mầm, dùng đầu, dùng sừng để húc ra khỏi đất, khỏi vỏ thì ở
trên trời sao Giác chính là sừng rồng cũng như muốn húc để giúp muôn loài chóng
được trổ sinh.
2. Sao Thiên
Điền (phụ tinh của sao Giác)
Phía Bắc sao Giác có
sao Thiên Điền (gồm hai sao
s
t
de la Vierge). Sao Thiên Điền như muốn nhắc lại sự tích đã ghi trong Nguyệt
Lệnh của Lễ Ký:
Tháng đầu Xuân, vua
đem cày lên xa giá, dẫn công khanh, đại phu, chư hầu, thân chinh ra cày tại tịch
điền.
3.
Sao Tiến Hiền (phụ tinh của sao Giác)
Phía Tây sao Giác có
sao Tiến Hiền (đó là các sao
y
, x, g và k de la Vierge). Sao này nhắc nhở nhà vua ngày Xuân nên đi tìm hiền
tài còn mai danh ẩn tích trong nước.
4. Sao Cang
(i
, x ,
l
, m
de la Vierge)
Sao Cang ngoài nghĩa
là cổ rồng, còn có nghĩa là buổi sớm. Sao Cang như muốn nhắc nhớ rằng sáng sớm
ngày đầu Xuân, vua phải thiết triều cho bá quan chúc tụng, để đánh dấu một năm
mới, một triều đại mới.
5. Sao Đê
(các sao
a
, b
, g
, i
de la Balance)
Sao Đê mọc vào khoảng
Xuân Phân, khi vạn vật đã đi đến chỗ thành toàn. Nếu sao Đê mà sáng sủa, thì
trần gian sẽ được hạnh phúc. Nếu nó mờ tối, thì thiên hạ sẽ lắm tai ương, tật
bệnh.
6. Sao Đế
Tịch (phụ tinh của sao Đê)
Sao Đế Tịch (d de
Bayer, no 208 de Flamsteed) nhắc nhớ rằng ngày Xuân, vua ban yến
diên cho chư hầu và quần thần.
Ngày Xuân là những
ngày ăn uống thoải mái. Chẳng những vua chúa yến diên mà nhà nông cũng mặc tình
ăn uống. Sách Trí phú kỳ thư có một bài thơ ngũ ngôn trường thiên tả cảnh
tết nhất, uống ăn của nhà nông xưa. Xin lược dịch thành mấy câu lục bát sau đây:
«Nhà
nông trọng buổi đầu năm,
Cỗ bàn làng xóm
đãi đằng mua vui.
Trẻ già
áo xống hẳn hoi,
Rủ nhau thức dậy
lúc trời hừng đông.
Cụ ông
đầu bạc răng long,
Vẫn cùng con cháu
thung dung cười đùa.
Cụ bà
hiền lại thêm từ,
Mái sương phơ
phất, lòa xòa mang tai.
Cỗ bàn
bày sẵn suốt ngày,
Ăn ăn uống uống
no say phỉ tình.
Gọi
nhau ngồi xếp vòng quanh,
Người già kẻ yếu
thời dành ưu tiên…
Ruộng
đồng cần sức canh điền,
Phải nên xới bón,
phải nên gieo trồng.
Đầu năm
chẳng khá ở không,
Đầu Xuân là
lúc việc đồng bắt tay.»
[23]
7. Sao Phòng
(b
, d
, h
, r
du Scorpion)
Phòng vừa có nghĩa là
bụng rồng, vừa có nghĩa là chuồng trâu bò. Ý nói rằng: mùa Xuân, vào khoảng Xuân
Phân, người ta có thể thả trâu bò ra đồng ăn cỏ được rồi.
Sao Phòng mọc
vào khoảng Xuân Phân. Lúc ấy cũng nên cho ngựa đi giống. Sách Chu Lễ
viết: «Ngày
Xuân Phân là lúc Âm Dương giao hợp, cho nên nên cho ngựa đi giống.»
8. Sao Điếu
Linh và sao Kiện Bế (phụ
tinh của sao Phòng)
Sao Điếu Linh (sao Cái
Khóa: các sao w 3363 và 3365 du Scorpion hay
d
và h
du Scorpion) và sao Kiện Bế (v , w du Scorpion) nhắc nhớ nhà vua rằng trong
tháng giữa mùa Xuân nên để cho nhân dân được thanh thản. Cho nên trong thời kỳ
này, nhà vua giảm bớt hình phạt cho dân, tha cùm xiềng cho phạm nhân, không bắt
người bừa bãi, không xét xử việc hình án.
Lại cũng nên để cho
vạn vật thong dong thoải mái, nên thời kỳ này, vua truyền cấm không được vét ao
hồ, đốt rừng rú, quấy phá những cây còn non. Lại truyền săn sóc trẻ nhỏ, nuôi
dưỡng trẻ mồ côi.
Thế là trong ngày
Xuân, nhà vua bắt chước Trời thi ấn bố đức cho thiên hạ.
9. Sao Đông
Hàm, Tây Hàm (phụ tinh của
sao Phòng)
Phía Bắc các sao Phòng
và Tâm có sao Đông Hàm (x ,
y
, w du Serpentaire) và sao Tây Hàm (A
, q
, h
, S de la Balance).
Hàm là kết hợp, hòa
hợp. Đại khái các sao này nhắc nhớ không nên bê tha sắc dục trong tháng giữa
Xuân kẻo sinh con có tật nguyền.
10. Sao Tâm
(s
, c
du Scorpion)
Sao Tâm có nhiều ý
nghĩa:
a. Nó nhắc nhớ lễ đốt
lửa mới ngày Thanh minh vào buổi sáng sớm. Vì thế có thơ rằng:
Hàn thực, hoa gian, thiên thụ tuyết,
Thanh minh, nhật
xuất, vạn gia yên.
(Tuyết lẫn ngàn
cây ngày Hàn thực,
Khói tuôn vạn
nóc, sớm thanh minh.)
[27]
b. sao tâm cũng nhắc
nhớ nhà vua nên thương dân, mở kho lẫm mà chẩn tế cho người nghèo, vì mọi người
là tâm của trời đất, mà vua thì đứng đầu mọi người.
11. Sao Vĩ
(9 sao ở đuôi chòm Scorpion; tức là
e
, M
, 2
, 1
, n , q
, i
, x , l
, v du Scorpion)
Sao Vĩ mọc vào khoảng
cuối tháng 3. Sao Vĩ còn có tên là Triết Mộc. Sách Điền Gia Lịch cho rằng
đốn cây vào kỳ sao Vĩ mọc tức là vào khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4, sẽ đỡ bị
mọt.
12. Sao Cơ
(g
, d
, e
du Sagittaire et
b
du Télescope)
Sao Cơ tương ứng với
đuôi rồng. Theo từ nguyên, chữ Cơ còn có nghĩa là cái bồ đựng phân bón. Ý nói
rằng vào khoảng cuối tháng 3 phải bón ruộng, đồng thời cũng phải diệt cỏ dại làm
hại hao mầu. Sách Trí phú kỳ thư có câu thơ:
«Xuân
thiên thủy mãn, tu lăng biểu,
Hảo biện
thanh tiền, mịch phẩn khôi.»
(Mùa Xuân nước
lớn nên làm cỏ,
Biện sẵn tiền
nong, sắm phân tro.)
Trên đây là chỉ là đại
cương về ý nghĩa của ít nhiều vì sao đối với ngày Xuân ngày Tết.
Vì khuôn khổ của tờ
báo, tôi đã lược qua nhiều chi tiết, đã bỏ bớt nhiều phụ tinh và chỉ trình bày
những điêèu chính yếu.
Tuy vậy bài này vẫn
giúp ta có được những nhận định sau:
- Người xưa bàn về
Thiên văn mà không lạc vào huyền thoại, mà vẫn giữ được tính cách thiết thực hữu
ích.
- Các vì sao hoặc là
nhắc nhớ những công trình phải làm trong triền năm, hoặc là khuyến thiện trừng
ác.
- Người xưa đã muốn
biến bầu trời với muôn tinh tú thành tấm gương khổng lồ phản chiếu lại công việc
của trần hoàn, làm cho trời đất người trở thành một khối duy nhất bất khả phân.
Dịch Kinh viết:
«Tại
thiên thành tượng, tại địa thành hình.»
Hình thời đà rõ rệt, tượng thời còn mung lung, nhưng hai đàng vẫn hòa hài như là
hình với bóng.
Volney viết:
«Các
tinh tú, hoặc từng vì sao, hoặc từng nhóm sao, đã được đặt tên theo những công
việc của người, hay của thiên nhiên, và bầu trời trở thành một tấm gương phản
chiếu lại những công việc nơi trần thế.»
Người xưa chẳng những đã dùng văn tự, sách vở mà còn dùng các vì sao trên trời
để viết công chuyện trần hoàn. Như vậy chứng tỏ người xưa có những ước mơ to
tát: muốn cho mình có một tầm kích vô biên, vì mỗi vì sao vĩ đại trên trời mới
nói lên được có một động tác nào đó của con người. Còn gì vinh dự cho con người
hơn bằng sự đã dám lấy vũ trụ làm nhà, lấy mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh và Nhị
thập bát tú làm lịch, và các vì tinh tú trên trời làm những ngôn ngữ để chép nên
lịch sử của mình…
Để kết thúc bài này,
tôi xin chân thành cầu chúc quý vị độc giả:
Vui như Tết, đẹp như Xuân,
Cùng muôn tinh tú
chung phần thanh cao.

CHÚ THÍCH
Đã đăng tạp chí Phương Đông, số kép 8-9, tháng 2,3-1972, Xuân Nhâm
Tý.
[2]
Tài liệu trên của ông Lê Hồng Phong chưa chắc đã chính xác. Nhà Chu, theo
Xuân Thu và Lễ Ký (thiên Nguyệt Lệnh), chắc chắn đã lấy
tháng giêng làm tháng đầu năm. Đầu sách Xuân Thu viết: «Xuân vương chính
nguyệt.» Lễ Ký (thiên Nguyệt Lệnh) cũng bắt đầu bằng
câu: «Mạnh Xuân chi nguyệt.»
[3]
Nguyên đán tiên vương chi chính thời dã. Lý đoan ư thủy. Tả Truyện,
cf. Gustave Schegel, Uranographie chinoise, p. 94.
[4]
Le 25-XII était l’anniversaire du Dieu solaire et particulièrement celui de
Mithra et ce n’est que depuis le 4e siècle que ce jour fut adopté pour la
date -
inconnue -
de la naissance de Jésus. cf. La Dignité humaine, p. 139.
[5]
Dương khí động vật ư thời vi Xuân. Xuân xuẩn dã. Vật xuẩn sinh nãi động vận. (Tiền Hán Thư luật lịch chí) (G. Schlegel, p.83, note 4)
[6]
Giải theo Uyên Hải Tử Bình.
[7]
Giải theo Gustave Schegel, Uranographie chinoise, p.42.
[8]
Giải theo Uyên Hải Tử Bình.
[9]
Giải theo Uyên Hải Tử Bình.
[10]
Nhị thập bát tú gồm có bốn chòm sao: Thanh Long (Đông), Chu Tước (Nam), Bạch
Hổ (Tây), Huyền Võ (Bắc) ứng với Tứ Linh: Long , Tước, Hổ, Qui.
[11]
Giác là sừng rồng. cf. G. Schlegel, sđd., p.87.
[12]
Cang nhân cảnh dã (Thuyết Văn). Cang điểu lung (Nhĩ Nhã - Thích
điểu). G. Schlegel, sđd., p.98, note 1.
[13]
Đê: Đông phương Thanh Long thất tú, Đê hung (Thạch Thân, Tinh Kinh)
G. Schlegel, sđd., p.102, note 1.
[14]
Phòng: Đông phương Thanh Long thất tú, Phòng phúc (Thạch Thân, Tinh Kinh)
G. Schlegel, sđd., p.113, note 2.
[15]
Hỏa (tức tâm): Thanh Long chi trung tinh (Thư Kinh - Nghiêu điển truyện)
G. Schlegel, sđd., p.138.
[16]
Vĩ: Thanh Long chi vĩ dã (Tinh Kinh) G. Schlegel, sđd., p.153,
note 3. Cơ: Cơ long vĩ da (Nhĩ Nhã, Quách chú) G. Schlegel, sđd.,
p.161, note 2. Cơ tại thanh long chi mạt, cố vân long vĩ. (Hình sớ)
G. Schlegel, sđd., p.161, note 3.
[17]
Ainsi par exemple, les cornes du Dragon … sont dans l’Uranographie chinoise
le signe du Li-tch’ouen (lập xuân) le repère du commemcement de l’année. cf.
L. Saussure, Les Origines de l’Astronomie chinoise, p.280.
[18]
G. Schlegel, sđd., p.87.
[19]
Cf. Nguyệt Lệnh, Lễ Ký. Nguyễn văn Thọ, Khổng Học Tinh Hoa,
p.342.
[20]
G. Schlegel, sđd., p.92.
[21]
G. Schlegel, sđd., p.93-96.
[22]
G. Schlegel, sđd., p.102-104.
[23]
Điền gia trọng nguyên nhật,
Trí tửu hội lân
lý.
Tiểu đại dịch tân
y,
Tương giới vị minh
khởi.
Lão ông niên dĩ
mại,
Hàm tiếu lộng tử
tôn.
Lão ẩu huệ thả từ,
Bạch phát bị lưỡng
nhĩ.
Bôi bàn nhật la
liệt,
Ẩm thực trí cam
chỉ.
Tương hô đoàn loan
tọa.
Liêu úy ai mộ tư,
Điền khao tạ nhân
lực.
Phân nhưỡng yếu sự
lý.
Tân tuế bất cảm
nhàn.
Nông sự tự tư
thủy.
Trí phú
kỳ thư. cf. G. Schlegel, sđd., p. 108.
[24]
Biot, le Tcheou-li, Tome II, tr.260.
[25]
G. Schlegel, sđd., p. 126-131.
[26]
G. Schlegel, sđd., p. 131-132.
[27]
G. Schlegel, sđd., p. 138-151.
[28]
G. Schlegel, sđd., p. 150.
[29]
Tứ nguyệt phạt mộc bất chú. Trí phú kỳ thư, Điền Gia Lịch) G.
Schlegel, sđd., p. 156.
[31] Hệ Từ Thượng, chương I.
[30]
G. Schlegel, sđd., p.161-168.
[32] «Les étoiles indivuellement ou en groupes, avaient reçu des noms tirés des
opérations de l’homme ou de la nature pendant la révolution solaire; et le
ciel astronomique était devenu comme un miroir de réflexion de ce qui se
passait sur la terre.» G. Schlegel, sđd., p.74. - Volney édit de
1826, Tome V, tr. 168. |