THÚ DÙNG TRANH TẾT
ĐỂ CHÚC TẾT
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

L úc còn bé, ở
ngoài Bắc, tôi nhớ cứ vào mỗi dịp Tết là mọi người dân quê lại đua nhau đi sắm
tranh Tết về treo nhà: tranh gà, tranh lợn, tranh cóc, tranh chuột, tranh cá,
tranh Nhị Thập Tứ Hiếu, tranh chinh Đông, chinh Tây, v.v.
Lúc ấy tuy chưa biết
gì về nghệ thuật, nhưng tôi cũng rất thích học thuộc lòng những sự tích và những
lời lẽ viết trong tranh như:
Yêu trẻ trẻ đến nhà,
Trọng
già, già để tuổi cho.
Hay:
Thuyền theo lái, gái theo chồng.
Hay: Thuận vợ
thuận chồng tát bể đông cũng cạn. v.v.
Lớn lên, ra tỉnh học,
ít khi tôi còn được dịp ngắm tranh Tết bình dân, mỗi độ xuân sang.
Sau này vào miền Trung
phục vụ, tôi hầu như quên bẵng đi mất những loại tranh Tết ấy.
Thế nhưng, năm 1961,
nhân một chuyến ghé Paris ít ngày, một hôm đang thơ thẩn ở khu Quartier Latin,
nơi có nhiều Việt Kiều ở, bỗng nhiên tôi nhìn thấy một hiệu sách Việt Nam. Tò mò
tôi ghé vào xem, thì thấy hiệu sách đó rất là sơ sài, chỉ bày bán ít truyện Tàu
cổ, và những bức tranh lợn, tranh gà cổ điển.
Tôi hết sức ngạc nhiên
vì thấy ở ngay Paris mà người ta lại thích những loại tranh Tết bình dân mộc mạc
ấy.
Rồi tôi lại được biết
rằng hiện có những họa sĩ chuyên khảo về những loại tranh mộc bản kể trên. Hơn
thế nữa, vào năm 1960, ông Maurice Durand cũng đã cho ấn hành quyển Imagerie
populaire vietnamienne rất phong phú và giá trị.
Từ đấy tôi lưu tâm đến
tranh Tết và dần dần tôi mới nhận ra tầm quan trọng của những tranh Tết về nhiều
phương diện như:
- Dân tộc học,
- Nghệ thuật dân tộc
cổ truyền,
- Thú chơi chữ chơi
tranh của tiền nhân,
- Cách dùng tranh Tết
để tuyên truyền cho chính quyền, v.v.
Cho nên trước khi bàn
về thú dùng tranh tết để chúc tết, tôi muốn bàn qua về các khía cạnh của
tranh Tết.
Trước hết là về phương
diện dân tộc học, tranh Tết đã có cả ngàn năm lịch sử.
Có người cho rằng
tranh Tết đã có từ thời nhà Lý (1010-1225), có người lại cho rằng nó đã có từ
thời nhà Hồ (1400-1414), và được phát triển mạnh nhất vào cuối thời Lê
(1533-1788).
Chính vì thế mà tranh
Tết có một sắc thái dân tộc hết sức độc đáo và một truyền thống hết sức độc đáo.
Tất cả đều đậm đà sắc thái Việt Nam, từ những bản khắc, những giấy tranh, cho
đến những màu sắc, những hình ảnh, những đề tài, nhưng không vì thế mà giảm mất
giá trị, mất phong vị.
Về phương diện nghệ
thuật, tranh Tết thực là một loại nghệ thuật hết sức bình dân và hết sức
Việt Nam.
Tranh Tết chỉ có mấy
nơi làm nhưng chuyên môn nhất, lâu đời nhất và theo đúng nề nếp cổ truyền nhất
là tranh làng Đông Hồ (Bắc Ninh). Thứ đến là những tranh Hàng Trống, sản xuất
tại phố Hàng Trống, Hà Nội. Cuối cùng là tranh Nam Đàn (Nghệ An) phỏng theo kỹ
thuật cổ truyền của làng Đông Hồ.
Những bản khắc tranh
thường bằng gỗ thị, thớ gỗ vừa cứng vừa nhuyễn, lại không bị mọt, nên có nhiều
khi một bản khắc được dùng cả trăm năm.
Những giấy làm tranh
thường là giấy bản hồ bằng thứ phấn trắng làm nền. Thứ phấn này lấy ở vỏ con sò
(điệp) nung lên và đem tán nhỏ gọi là phấn điệp.
Màu sắc thì có
năm màu, gọi là thuốc cái:
1- Phấn trắng lấy ở vỏ
sò tán (điệp), nên gọi là thuốc điệp.
2- Xa thanh (xanh óng
ánh xà cừ).
3- Mực Tàu.
4- Kim nhũ.
5- Ngân nhũ.
Ngoài ra cũng còn có
nhiều màu khác. Mỗi màu lại có nhiều sắc thái.
Như đỏ thì có: hoa
hiên, điều, son, cánh quế thẫm, cánh sen nhạt, phấn hồng, màu hoa đào.
Vàng thì có vàng thẫm,
vàng nhạt, hoa lý.
Xanh thì có xanh nhạt
màu hồ thủy hay hòa bình, hay nguyệt bạch, xanh lá cây, xanh lam, v.v.
Nâu thì có cánh kiến.
Các màu khi trộn với
nhau, hay khi tô lên giấy, người ta thường pha thêm vào chút hồ tẻ loãng cho bớt
thấm, bớt loang ra giấy.
«Màu
đen thì lấy ở than rơm, than lá tre càng đun nấu và ủ lâu ngày càng đậm lại lúc
in, màu đen dần dà lại có một chất xôm xốp rất quý; màu xanh lấy ở rỉ đồng; màu
lam lấy ở lá chàm; màu vàng lấy ở hạt dành hoặc hoa hòe; màu trắng thì lấy ở vỏ
sò, vỏ hến hầm đốt, dùng làm điệp quét lên giấy bản, hoặc dùng để in lên tranh
xen lẫn với các màu khác, tạo ra một sắc thái riêng biệt và quý.»

Ông Lê Văn Hòe trong
bài Lẽ sống của tranh gà, tranh lợn trong số Xuân Văn Nghệ 1953, đã bình
về tranh Tết như sau:
«Tranh
gà, tranh lợn đỏ như xôi gấc, vàng như mầu lúa chín, xanh như lá mạ, hay vàng
như nghệ kho cá, xanh như nấm non, đỏ như ngô già, nâu như đất cầy, toàn những
màu sắc quen thuộc thân mến từ bao nhiêu đời người rồi. Những màu sắc in sâu vào
tâm não nông dân hết thế hệ này đến thế hệ khác, thành những màu sắc dân tộc
rồi. Những màu sắc xanh đỏ chói rực rỡ của tranh Tầu tranh Tây nó chướng quá, nó
không mộc mạc quen thuộc như những màu xanh đỏ, thô kệch điềm đạm thật thà của
tranh lợn, tranh gà.»
Đề tài của tranh thật
hết sức giản dị: con gà, con lợn, con cóc, con cá, cậu bé con, ông lão già, quả
đào, quả lựu, quả phật thủ, hoa sen, hoa cúc, v.v. hoặc những cảnh sinh hoạt của
đồng quê hư đi cầy, đi cấy, gặt lúa, xay thóc, tát nước, hái dừa, làm mùa, úp
nơm, mò cua, bắt óc, gánh mạ, dắt trâu đi cầy, cho trâu nằm nghỉ, v.v. hoặc
những cảnh ăn chơi ngày hội, ngày hè như đánh đu, đô vật, rước rồng, v.v.
Cách phục sức của
người trong tranh cũng hết sức mộc mạc: trẻ con thì để trái đào, đàn ông thì búi
tóc củ hành, đàn bà thì vấn khăn, tóc đuôi gà, mặc yếm, mặc váy, xúng xính với
những thắt lưng, ruột tượng, v.v.
Chính vì cái giản dị
ấy, cái mộc mạc ấy, mà tranh được dân chúng ưa chuộng.
Hơn nữa những tranh
Tết xưa đem bán ra với một giá bình dân, rẻ mạt, nên dẫu nghèo đến đâu cũng có
thể mua được vài bức đem về dán tại nhà.
Tranh Tết tuy là mộc
mạc, nhưng không vì thế mà kém đi phần cao siêu. Nó cũng đã diễn đạt được hết
những hoài bão, ước mơ của quần chúng, những sự châm biếm, hài hước, những lời
chúc tụng, và cũng có những lối chơi chữ, dùng tranh làm chữ để chúc Xuân, mà
chỉ những người có ăn có học mới thưởng thức được hết cái thi vị của chúng. Lát
nữa đây chúng ta sẽ trở lại vấn đề quan trọng này.
Những bậc thức giả xưa
cũng đã sớm biết dùng tranh Tết để phổ biến đạo lý vào trong dân gian, vì thế
mới có những loại tranh Nhị thập tứ hiếu, Chính khí ca, loại tranh phương ngôn,
v.v.
Người Pháp thời còn đô
hộ nước ta đã sớm nhận ra tầm quan trọng của tranh Tết nên đã mượn chúng làm lợi
khí tuyên truyền cho chính phủ Pháp.
Ví dụ, trên bức tranh
con gà trống, ta thấy đề: Pháp Nam phục hưng và những lời thơ sau
đây:
Sung sướng như chúng ta,
Thực là nhờ Lang
Sa.
Giếng sâu mạch
nước tốt,
Cây cao bóng rợp
xa.
(Nên nhớ: biểu tượng
của nước Pháp là con gà trống. Đó cũng là cách chơi chữ.)
Hoặc trong bức tranh
thần Vũ Đinh giữ cửa, ta thấy ghi:
«Nước
Pháp chẳng bao giờ quên cái sứ mạng thiêng liêng giữ thái bình thịnh trị cho
Đông Dương.»
Thế tức là ngụ ý coi
nước Pháp là thần Vũ Đinh che chở cho nhà Việt Nam.
Nhân tiện cũng nên ghi
nhận rằng tranh Tết thời Pháp thuộc cũng đổi chủ đề ít nhiều (nhất là những
tranh Tết Hàng Trống) và mang nhiều ảnh hưởng văn minh Tây Phương, muốn khuyên
dân nên theo nếp sống mới, như đi xe đạp, hút thuốc lá, đánh tennis, tập thể
dục, v.v.

A.
CHÚC TẾT BẰNG TRANH CHỮ
Gọi là tranh chữ vì
nhiều tranh chỉ có một chữ, mỗi chữ lại được vẽ rất lớn, cũng có khi còn được
điểm tô bằng nhiều hình ảnh rất công phu. Những tranh chữ thường có những
sau đây:
- Phú, Quí, Thọ,
Khang, Ninh.
- Phúc, Đức.
- Phúc, Thọ.
- Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín.
Tranh chữ Phúc còn
thấy có câu: Phúc như Đông Hải. Tranh chữ Thọ còn thấy có câu: Thọ tỷ
Nam Sơn.
Tranh chữ cũng có thể
là vừa tranh vừa chữ. Trong bức tranh, trên mỗi hình vẽ lại có một câu chúc tụng
ngắn. Ví dụ:
- Tiến lộc tiến tài
(vẽ trên hai lọ lục bình có cắm hoa sen, do hai vị quan văn hay hai vị thần
văn cầm).
- Tích ngọc đôi kim
(vàng bạc chất đống).
- Chiêu tài tiến
bảo (có thêm tiền của; tranh hai chú bé: một chú cầm quả đào để chữ tích
ngọc đôi kim, một chú cầm quả phật thủ đề chữ chiêu tài tiến bảo).
- Cao thăng lộc vị
(vẽ hai vị quan cầm ngọc như ý, bên cạnh có ghi bốn chữ cao thăng lộc vị).
- Nhất bản vạn lợi
(ghi trên bức tranh vẽ các cảnh nhà nông như xay thóc, đập lúa, gánh lúa,
vác cầy ra ruộng, cấy lúa).
- Đinh tài tương
vượng (con cái của cải đều vượng; hình hai chú bé ôm nhau ngồi bên cạnh hũ
vàng, người anh đang cầm quyển sách, trên có ghi đinh tài tương vượng).
- Trường sinh, bình
an (tranh ông lão gánh hai quả lựu, mang chữ trường sinh; tranh ông
lão gánh hai quả đào, mang chữ bình an).
- Đào hiến thiên
xuân (đào dâng nghìn tuổi xuân; tranh ông lão cầm quả đào).
- Lựu khai bách tử
(quả lựu mở sinh trăm con; tranh ông lão cầm quả lựu bóc dở, cho trông thấy
hạt).
- Phú quý vinh hoa
vạn vạn niên (đề trên tranh vẽ ba đứa trẻ đang chơi với hoa, với chim).
- Nhất gia hòa khí
tử tôn hiền (đề trên tranh vẽ ba đứa trẻ đang chơi chim, cá).
- Xuất môn nghinh
bách phúc, nhập hộ chúc tam đa (đề trên bức tranh hai đứa trẻ đầu đội dĩa
đào, dĩa lựu, tay mang lộc bình cắm hoa sen, hoa cúc).
-
Thiên hạ thái bình, quốc gia thịnh trị.
- Thiên hạ
thái bình, nhân dân an lạc
(viết trên tranh vẽ người nông phu ngồi nghỉ dưới gốc cây, bên cạnh cái cày, ấm
nước và con trâu nằm nghỉ; hoặc trên tranh vẽ người nông phu ngồi nghỉ dưới bóng
liễu, bên cạnh cái bừa và con trâu nằm nghỉ).

B. CHÚC TẾT BẰNG
HÌNH ẢNH
Người xưa nhiều khi
không dùng chữ, mà chỉ dùng hình ảnh để nói lên lời chúc nguyện. Có hai cách sử
dụng hình ảnh:
1. Coi hình ảnh như là
một tượng trưng
2. Coi hình ảnh như là
một chữ
1.
Coi hình ảnh như là một tượng trưng
- Quả đào tượng trưng
cho sự sống lâu.
- Quả lựu tượng trưng
cho sự đông con cái.
- Con lợn đực tượng
trưng cho sự sung túc.
- Con lợn cái với bầy
con tượng trưng cho sự sung túc và con cái đầy đàn.
- Con gà mái với bầy
con tượng trưng cho gia đình đông đúc, đầm ấm.
- Con công tượng trưng
cho sự bình an thịnh vượng.
- Con hạc biểu hiện sự
sống lâu.
- Con cóc tía tượng
trưng cho sự giàu có, can đảm, và cái gì quý báu, khó kiếm ra được.
- Cậu bé con tượng
trưng cho con cái đầy đàn.
- Quan văn tượng trưng
cho tước lộc.
- Ông già tượng trưng
cho sự sống lâu.
- Quyển sách tượng
trưng cho sự may mắn về đàng công danh, khoa cử.
- Rồng tượng trưng cho
hạnh phúc.
- Phượng tượng trưng
cho sự trường thọ.
- Cá vượt vũ môn tượng
trưng cho sự thi đỗ.

2. Dùng hình ảnh
thay chữ
Người ta cũng có
thể dùng hình ảnh thay chữ, vì hình ảnh ấy đọc giống hay gần giống một
chữ Hán nào đó, ví du:
- Vẽ con gà (Kê
雞) thay chữ Cát
吉 (tốt lành) vì
chữ Kê đọc gần như như Cát.
- Vẽ cái bình
(Bình
瓶) để thay chữ
Bình
平 (bình an).
- Vẽ con cá
(Ngư
魚) thay cho chữ
Dư
餘 (dư thừa), vì
Ngư và Dư đọc gần như nhau.
- Vẽ hoa sen
(Liên
蓮, Hà
苛) thay chữ
Liên
連 (liên tục)
hay thay chữ Hòa
和 (hòa hợp).
- Vẽ quả thị, cành
thị (Thị
柿) thay chữ Sự
事 (sự việc) vì
hai chữ đọc giống nhau.
- Vẽ ngọc như ý
thay cho hai chữ Như Ý
如 意.
- Vẽ hoa cúc
(Cúc
菊) thay chữ Cửu
久 (lâu), Cư
居 (ở) hay Cử
舉
(tất cả).
- Vẽ con dơi
(Biên Phúc
蝙 蝠) thay chữ
Phúc
福 (hạnh phúc).
Vẽ 5 con dơi thời đọc là Ngũ Phúc
五 福.
- Vẽ con mèo
(Miêu
貓) thay chữ Mạo
耄 (già 80
tuổi).
- Vẽ con bướm
(Điệp
蝶) thay chữ
Điệt
耋 (già 70
tuổi).
- Vẽ bông hoa
(Hoa
花) thay chữ
Vinh Hoa
榮 華.
- Vẽ cái kích
(Kích
戟) thay chữ Cát
吉 (tốt lành).
- Vẽ ống sáo
(Sinh
笙) thay chữ
Sinh
生 (sinh nở) hay
chữ Thăng
升
(bay lên).
- Vẽ quả lựu
(Lựu
榴) thay chữ Lưu
(đời).
- Vẽ cây bầu
(Đại) thay chữ Đại
代 (đời).
- Vẽ con hươu
(Lộc
鹿) thay chữ Lộc
祿
(lộc), v.v.
CÁCH DÙNG HÌNH
ẢNH ĐỂ CHÚC TỤNG
Hiểu được các cách ngụ
ý trên, ta sẽ hiểu cách dùng hình ảnh để chúc Tết.
Ví dụ:
1. Vẽ hình quả đào
với 5 con dơi là Ngũ Phúc. Mà Ngũ Phúc theo Hồng Phạm Cửu Trù trong Kinh Thư
là:
+ Giàu (Phú
富)
+ Sống lâu (Thọ
壽)
+ Khỏe mạnh (Khang
ninh
康 寧)
+ Yêu nhân đức (Du
hiếu đức
攸 好 德)
+ Chết êm ái (Khảo
chung mệnh
考 終 命)
2. Vẽ hoa cúc
(tượng trưng phúc thọ) với một
giải lụa dài
(bàn trường) là muốn chúc:
Phúc thọ bàn trường
福 壽 ○長
. Vẽ hoa
cúc với con chim hoàng tước là chúc cử gia hoan lạc
舉 家 歡 樂 (cả nhà
yên vui), vì Cúc
菊 đọc gần như
chữ Cử
舉 , chữ Hoàng
黃 đọc gần như
chữ Hoan
歡 (vui).
3. Vẽ quả phật thủ
với con bướm là chúc Điệp thọ
耋 壽 (sống lâu
đến 70-80), vì quả phật thủ tượng trưng cho Thọ hay Phúc, con bướm (Điệp
蝶 ) thay chữ
Điệp (Điệt)
耋 là già 70
tuổi.
4. Vẽ quả phật thủ
(phúc) với quả đào (thọ) và quả lựu (đông con) là chúc: đa
phúc, đa thọ, đa nam tử.
5. Vẽ quả
phật thủ, quả đào, quả lựu với 9 miếng ngọc như ý là có ý chúc:
tam đa cửu như
三 多 九 如 , nghĩa
là chúc cho phúc thọ, con cháu đầy đàn, bền vững. Theo Kinh Thi (Tiểu nhã- Thiên
bảo), cửu như là:
-
Như núi (như sơn
如 山),
-
Như gò (như phụ
如 阜),
-
Như đồi (như cương
如 岡),
- Như nổng (như
lăng
如 陵),
-
Như sông nước cuồn cuộn chảy (như xuyên chi phương chí
如 川 之 方 至),
-
Như mặt trăng lâu dài (như nguyệt chi hằng
如 月之 恆 ),
-
Như mặt trời đang lên (như nhật chi thăng
如 日之 升),
-
Như núi Nam trường thọ (như Nam sơn chi thọ
如 南山 之 壽),
-
Như tùng bách luôn tươi xanh (như tùng bách chi mậu
如 松 柏 之 茂).
6. Vẽ quả lựu
đã bóc vỏ một phần để lộ hạt ra là có ý chúc: lựu
khai bách tử
榴 開 百 子 (lựu mở
sinh trăm con).
Nếu vẽ quả lựu với
5 cậu bécon là ý chúc cho con cái sau này đều dương danh hiển đạt như 5 con
của ông Đậu Yên Sơn đời Tống.
Có khi lại vẽ quả
lựu (Lựu
榴 > Lưu
流 )
với cái mũ (Quan
冠 > Quan
官), cái đai
lưng (Đái
帶), cái
thuyền (Thuyền
船 > Truyền
傳),
đó là chúc: Quan đái truyền lưu
官 帶傳 流 (được
phong quan tước nhiều thế hệ).
7. Vẽ cành thị
(Thị
柿 > Sự
事) với ngọc
như ý (Như ý
如 意)
với một giải lụa dài (bàn trường) là có ý chúc: Sự
sự như ý bàn trường
事 事 如 意 ○長 (làm
gì cũng được như ý mãi mãi).
Vẽ cành thị với cái
kích (Kích
戟 > Cát
吉), cái
khánh (Khánh
慶), con cá
(Ngư
魚 > Dư
餘) là
chúc cho: Sự sự cát khánh hữu dư
事 事吉 慶 有 餘 (làm
gì cũng được tốt lành thắng ý nhiều).
Vẽ hai quả
thị với ngọc như ý là chúc sự sự như ý
事 事 如 意.
8. Vẽ cây ngô đồng
(Đồng
桐 > Đồng
同 : cùng với)
với con hươu (Lộc
鹿 > Lộc
祿)
và chim hạc (trường thọ) là có ý chúc Lộc thọ đồng lộc hạc
祿 壽 同 鹿 鶴 (được
bổng lộc và sống lâu như hươu, hạc).
Vẽ
chim hỉ thước
喜 鵲 (Hỉ
喜 : vui) đậu
cây ngô đồng (Đồng
桐 > Đồng
同 : cùng
với) là có ý chúc Đồng hỉ
同 喜 (mọi
người
cùng vui vẻ).
9. Bông sen (Liên
蓮 ) chỉ sự liên
tục, liên tiếp (Liên
連 ), nên vẽ
đứa trẻ cỡi trên lưng con kỳ lân tay cầm bông sen và ống sáo (Sinh
笙 > Sinh
生) là ý
chúc: Liên sinh quý tử
連 生 貴 子 (liên
tiếp sinh quý tử).
10. Vẽ
4 đứa trẻ con, mỗi đứa một
vẻ: đứa cầm cành táo
(Tảo
棗: cây táo >
Tảo
早 : sớm),
đứa cầm ống sáo (Sinh
笙 > Sinh
生), đứa cầm
cái ấn quan văn, đứa cầm cái kích quan võ là có ý chúc: sớm sinh con cái sau
này thành quan văn hay quan võ.
11. Vẽ cậu bé con
ăn mặc sang trọng (Phú
富), cổ đeo
cái khánh (Khánh
慶: may mắn hạnh
phúc) đang ngắm bầy cá vàng (Ngư
魚 > Dư
餘) là ý
chúc: Giàu có, đông con, hạnh phúc có thừa).
12. Cành mai
梅 dùng thay chữ
Mỗi
每 (mọi người)
hay chữ Mi
眉 (làn mi).
Cành trúc
竹 dùng thay chữ
Chúc
祝 (chúc tụng).
Do đó vẽ Chim hỉ thước (Hỉ
喜: vui)
đậu cành mai
每 (mọi người)
cành trúc là ý chúc cho mọi người đều vui vẻ. Có người giải là Hỉ mi
喜 眉 (mặt mày
vui vẻ).
Vẽ trúc mai
là chúc mọi người
may mắn.
Vẽ mai, trúc với
con mèo (Miêu
貓 : mèo > Mạo
耄: già 80)
và con bướm (Điệp
蝶: bướm > Điệp
耋: già
70) là ý chúc mọi người
sống lâu đến 70-80 tuổi.
13. Cành quế chỉ sự
thanh quý, nên vẽ đứa trẻ cầm cành quế, hoa sen (Liên), và ống sáo
(Sinh) là ý chúc: Liên sinh quý tử
連 生 貴 子 (liên
tiếp sinh quý tử).
14. Hoa mẫu đơn là hoa
phú quý, còn chim phượng theo đạo Lão là chim Đan điểu, thứ chim linh,
chim quý ở động thần tiên, nên vẽ mẫu đơn với chim phượng là ý chúc: Sẽ
có được mọi điều quý báu nhất trong đời.
Vẽ mẫu đơn với con
gà (Kê 雞
> Cát
吉) là
chúc: phú quý cát tường
富 貴 吉 祥.
15. Con gà trống gọi
là Công kê
公 雞 , nên có
thể thay cho chữ Công
功 (công
nghiệp). Gà có thể gáy. Chữ Nho gáy là Minh
鳴, mà Minh
鳴 thì đọc giống
như chữ Danh
名. Nên vẽ
gà trống là đã đủ chúc được
công danh
功 名.

C. NHỮNG CÁCH
CHÚC TẾT CÓ TÍNH CÁCH BÙA CHÚ
Ngoài ra còn có những
hình thần thánh dán ngoài cửa hoặc trong nhà để trừ tà, giáng phúc, như:
- Thần Vũ Đinh (môn
thần) trừ tà.
- Thần Huyền Đàn (trấn
môn).
- Thần Tử Vi (trấn
trạch).
Các hình thần
trên đây thường được vẽ kèm theo các hình Nhị Thập Bát Tú, Tứ linh, Tứ tượng,
Thái Cực, Ngũ hành, Bát quái, Long mã phụ đồ, Thần quy phụ thư, v.v. cho tăng
thêm vẻ thần bí. Chính vì thế mà tất cả các loại hình trên được
gọi chung là bùa trấn trạch. Tuy
nhiên chúng cũng là những lời ước nguyện. Ước nguyện được sống yên ổn, hạnh phúc
dưới sự che chở của chư thần, không bị tà ma quấy nhiễu.
Trên đây tôi chỉ khảo
tranh Tết về loại tranh chúc tụng. Thật ra còn nhiều loại tranh như:
- Tranh thờ,
- Tranh giáo hóa
(Chính khí ca, Nhị Thập Tứ Hiếu, phương ngôn, v.v.),
- Tranh lịch sử (Ngô
Quyền, Trưng, Triệu, Trần Hưng Đạo, Đinh Tiên Hoàng, v.v.),
- Tranh truyện (Truyện
Kiều, Thạch Sanh, Nhị Độ Mai, Phan Trần, Hoa Tiên, Chinh Đông, Chinh Tây, Tam
Quốc, Tây Du, v.v.)
- Tranh trào lộng
(riễu những tệ đoan xã hội, những thói văn minh rởm, hoặc riễu Tây chế Tàu,
v.v.)
- Tranh sinh hoạt dân
gian và đồng quê, v.v.
Nều mà đem bàn cả, thì
không biết bao giờ mới nói hết.
Bàn qua về tranh Tết,
về ý nghĩa những lời chúc tụng và những cách dùng để chúc Tết trong các tranh
Tết, ta mới thấy chúng tuy đơn sơ, mộc mạc, nhưng không kém phần cao siêu, và đã
chiếm được một địa vị khả quan trong nền văn hóa nước nhà.
Nó vừa thấp lại vừa
cao.
Thấp vì những hình ảnh
của chúng rất là đơn sơ mộc mạc, dân dã, dù một đứa bé con cũng thích, cũng
hiểu. Cao vì dẫu một học giả uyên thâm cũng khó lòng mà biết hết cái hay ho ý vị
của nó.
Tôi ước mong một ngày
gần đây, bộ Văn Hóa Giáo Dục cũng sẽ in bán cho dân chúng miền Nam những tranh
Tết mộc mạc rẻ tiền như vậy.
Làm văn hóa mà đi sâu
được vào tới mọi thôn xóm của dân gian, vào được tới mọi hang cùng ngõ hẻm, để
đem lại cái hương vị của nghệ thuật, cái màu sắc của ngày xuân, ngày tết, cái
bản sắc của dân tộc, cái tinh hoa của nền đạo lý cổ truyền, đem lại được cho dân
gian một ước mơ, hay nói đúng hơm một niềm tin tưởng vào hạnh phúc tương lai,
giúp cho họ ăn tết, hưởng xuân vui hơn, như thế chẳng phải là một sự đóng góp
văn hóa giá trị hay sao?
Để kết thúc bài
này, tôi xin mượn hai bài thơ chúc bình an, trường sinh của tranh Tết xưa
để chúc mừng năm mới quý vị độc giả. Hai bài thơ này đề trên hai bức tranh
bình an và trường sinh.
Trên bức bình an
vẽ một ông lão tráng kiện, gánh một gánh quả, mỗi bên có một trái đào lớn,
trái thì ghi chữ bình, trái thì ghi chữ an, với bài thơ rằng:
Tự đâu mà lại gánh an bằng,
Tuổi tác xem
chiều hãy khỏe lưng.
Thôi đã giã ơn
công cán ấy,
Đem cho vâng lấy,
để cho mừng.
Cho vâng lấy, để
cho mừng,
Hãy ra sức gánh
an bằng về đây.
Bức tranh thứ hai cũng
vẽ một cụ già tráng kiện, râu tóc đẹp đẽ, gánh hai quả lựu, một quả ghi chữ
trường, một quả ghi chữ sinh, với bài thơ như sau:
Gã nào thong thả
gánh tràng sinh,
Lão tráng hùng
hào mới biết danh,
Song đã có lòng
đem lại đấy,
Ơn cho mặc đội,
sở cung mình.
Ơn mặc đôi, sở
cung mình,
Mỗi năm một gánh
trường sinh đến nhà.
Kính chúc quý vị bình
an trường thọ.
Xuất môn nghinh
bách phúc,
Nhập hộ chúc tam
đa.
và vui hưởng một xuân
mới trong bầu không khí hoan lạc.

|