»
mục lục
Chư thần cư ngụ
trong thân thể con
người
[1]
* Rolf Homann (1941-2003)
* Lê Anh Minh
dịch
Chủ
đề của Huỳnh Đình
Kinh được khẳng
định ngay từ đầu của
bản Ngoại Cảnh:
«Lão Quân nhàn cư
tác thất ngôn, giải
thuyết thân hình cập
chư thần.»
老君閑居作七言,解說身形及諸神
(Lão
Quân lúc thư nhàn,
viết thơ 7 chữ, để
giải thích về thân
hình con người và
các thần linh trong
đó).
Sự mô tả về chư thần
trong thân thể con
người (nhân thân chư
thần
人身諸神)
này rất chi tiết và
chiếm phần lớn nhất
trong văn bản
Huỳnh Đình Kinh.
Sự trình bày này và
các lý thuyết liên
quan đã ảnh hưởng
đến sự phát triển về
sau của thuyết nhân
thân chư thần.
[3]
Tuy
nhiên không phải
thuyết nhân thân chư
thần được phát triển
đầu tiên trong
Huỳnh Đình Kinh,
mà Huỳnh Đình
Kinh cho đến nay
được biết đến như là
một tác phẩm tối cổ
nêu ra danh xưng chư
thần quan trọng nhất
trong thân thể con
người và mô tả các
chức năng của các
ngài.
Từ
đời Hán người ta đã
biết đến nhân thân
chư thần rồi. Tuy
nhiên các lý thuyết
dẫn đến sự phát
triển thuyết nhân
thân chư thần đã bắt
nguồn từ các quan
niệm xa xưa về sự
hợp nhất giữa đại vũ
trụ (Makrokosmos) và
tiểu vũ trụ
(Mikrokosmos).
Trong
quyển Trung Quốc
Đạo giáo sử
中國道教史,
tác giả Phó Cần Gia
傅勤家
đã trình bày sự phát
triển của thuyết chư
thần trong thân thể
nơi chương Nhân
thân trung chi thần
人身中之神
(thần
ngụ trong thân thể
con người) như sau:
«Thái
Bình Kinh
太平經
đã nói rõ nhân thân
chư thần. Thiên
Tinh thần huấn
精神訓
của quyển Hoài
Nam Tử
淮南子
đã phân khí làm hai
loại thần: âm và
dương. Khí là sinh
mệnh của vũ trụ,
cũng là hoạt động
lực. Theo Đạo giáo,
nếu khí bên trong
thân thể con người
tương giao qua lại
liên tục với khí của
vũ trụ, tức là con
người sống. Do đó
mới có công phu
luyện thổ cố nạp
tân
吐故納新
(nhả hơi cũ, nuốt
hơi mới), tức là
công phu luyện khí,
luyện đan. Rồi họ
lại xem khí là thần;
nơi ngũ tạng trong
thân thể mỗi tạng
đều có thần lai
vãng. Cho nên muốn
sống lâu thì phải
nhìn thẳng (trực
quán
直觀)
các vị thần này và
phải hợp nhất (đồng
thể
同體)
với các ngài.»
[4]
Phó
Cần Gia cũng giải
thích ở đây sự phát
sinh nhân thân chư
thần là từ cùng một
khí mà khí này tạo
ra nhân thân và vũ
trụ. Về khía cạnh
khí, Porkert đã
giảng rõ trong quyển
Thuật ngữ về Khí
trong kinh sách y
học Trung Quốc:
«Sự biến đổi của sự
sinh hóa đặt nền
tảng trên khí. Trong
muôn vật của vũ trụ
không có gì mà không
phát sinh từ khí.
Khí bao trùm vũ trụ
và khí tác động vũ
trụ từ bên trong.
Khí tác động những
thứ khác: mặt trời,
mặt trăng, hành
tinh, định tinh
chiếu sáng; sấm mưa
mây gió hình thành;
vạn vật suốt bốn mùa
sinh, trưởng, thu,
tàng. Sự hiện hữu
của con người hoàn
toàn tùy thuộc vào
khí.»
[5]
Ta có
công thức ngắn gọn:
Khí =
năng lực tạo ra đại
vũ trụ.
Khí =
năng lực tạo ra tiểu
vũ trụ.
[6]
Một
câu phát biểu tương
tự cũng có thể áp
dụng với tinh
精.
Haloun cũng nhìn
nhận: «Khí tương đối
đơn giản. Ý nghĩa
ban đầu chỉ là
«không khí» (air),
là «không khí dày
dặc» (thick air).
Chúng ta có giả
thuyết là: Khí là
nền tảng vật chất
của vũ trụ (the
physical basis of
the universe)...
Thuyết của người
Trung Quốc là: Khí
tác động thông qua
một tác nhân gọi là
tinh
精,
thường được phiên
dịch là «tinh túy»
(essence).»
[7]
Trong
Quản Tử, sự
tạo thành của tinh
đối với vũ trụ và
con người được nhấn
mạnh rõ hơn: «Tinh
của vạn vật ban cho
chúng sự sống. Ở
dưới đất thì tinh
sinh ra ngũ cốc; ở
trên trời thì tinh
là la liệt tinh tú.
Khi lưu chuyển giữa
trời đất, tinh được
gọi là quỷ thần. Khi
tàng chứa nơi ngực
của con người, tinh
được gọi là thánh
nhân.»
[8]
Vì
rằng khí và tinh
chuyển hóa nhau nên
tôi thấy không cần
tiếp tục khai triển
vấn đề này. Porkert
cũng nhận thấy:
«Tinh hóa thành khí
(Tinh hóa vi khí
精化為氣).»
và «Khí hóa thành
tinh (khí hóa vi
tinh
氣化為精).»
[9]
Hai
câu trên đưa đến kết
luận rằng vũ trụ và
thân thể con người
được tạo thành bằng
những chất liệu
giống nhau. Nhưng
điều này chưa thể
dẫn đến kết luận
rằng chư thần trong
nhân thể phát sinh
từ cơ sở của các giả
thiết trên, mà điều
này chỉ dẫn đến quan
niệm về sự thống
nhất giữa đại vũ trụ
và tiểu vũ trụ. Về
khía cạnh này, Phó
Cần Gia đã bảo: «...
tức là tạng phủ đều
có thần. Theo Đạo
giáo, con người được
xem là một tiểu
thiên địa, cho nên
thần trong trời đất
đều hiện hữu trong
thân thể con người
chúng ta.»
[10]
Phó
Cần Gia chỉ nêu ra
mà không giải thích
điều này. Tôi muốn
thử chỉ ra mối liên
hệ giữa đại vũ trụ
và tiểu vũ trụ và
thử giải thích chư
thần trong thân thể
con người đã phát
sinh như thế nào.
Thiên
Thiên văn huấn
天文訓
trong
Hoài Nam Tử
đã giảng: «Các khiếu
(lỗ) và tứ chi của
nhân thể đều có liên
hệ với trời. Trời có
cửu trùng (trung
ương và 8 hướng) thì
người có cửu khiếu.
Trời có bốn mùa để
bố trí thứ tự 12
tháng thì người có
tứ chi để điều khiển
12 quan tiết. Trời
có 12 tháng để xếp
thứ tự 360 ngày thì
người có 12 quan
tiết để điều khiển
360 lóng xương và
khớp xương. Cho nên
khi làm việc mà ai
không thuận theo
trời tức là đi ngược
lại sự sống của bản
thân.»
[11]
Thiên
Tinh thần huấn
精神訓
trong
Hoài Nam Tử
còn giảng chi tiết
hơn về sự thống nhất
giữa trời và người:
«Cho nên đầu tròn
tượng trưng trời,
chân vuông tượng
trưng đất. Trời có
bốn mùa, ngũ hành,
cửu giải, 360 ngày;
người cũng có tứ
chi, ngũ tạng, cửu
khiếu, 360 lóng
xương. Trời có gió,
mưa, lạnh, nóng;
người cũng có tiếp
nhận, cho tặng, vui
vẻ, giận dữ. Thế
nên, mật là mây,
phổi là khí, gan là
gió, thận là mưa, tỳ
là sấm, để người
cùng kết hợp với
trời đất.»
[12]
Bên
cạnh những «đức
tính» của trời, sự
phân chia bầu trời
thành từng vùng
[13]
cũng phóng rọi vào
con người. Rõ rệt
nhất là thí dụ về
nhật nguyệt và các
hành tinh. Chúng
không chỉ được xem
là các hiện tượng
thiên nhiên mà còn
được xem là hệ thống
thứ tự các thiên
quan
天官.
Theo Karlgren, chữ
quan
官
này
là: «Nơi công thự,
công sở (official’s
residence, office);
chức việc hành chánh
(public charge);
quan lại (official,
officer); chức vụ
(function), thi hành
chức năng (to
function).»
[14]
Lời
chú của Sách ẩn
索隱
về thuật ngữ
thiên quan
天官
[15]
nơi
quyển 27 (Thiên
quan thư
天官書)
của Sử Ký Tư Mã
Thiên đã giải
rằng: «Thiên văn có
5 quan. Quan tức là
tinh quan. Chòm sao
(tinh tòa) có tôn
ti, nên những
quan nơi con
người cũng có địa vị
khác nhau. Thế gọi
là thiên quan.»
[16]
Trong
tác phẩm Tuân Tử
荀子,
các thiên quan được
chuyển sang cho con
người: «Chức vụ của
trời đã xác lập,
công việc của trời
đã thành, hình đủ
thì thần sinh. Ưa,
ghét, mừng, giận,
thương, vui được
chứa cả trong đó,
thế gọi là thiên
tình
天情
(tình cảm tự nhiên
được trời phú bẩm).
Tai, mắt, miệng,
mũi, hình thể đều có
thể giao tiếp với
bên ngoài nhưng
không thể thay thế
nhau, thế gọi là
thiên quan
天官.
Tâm ở giữa, hư tĩnh,
để làm chủ ngũ quan,
thế gọi là thiên
quân
天君.»
[17]
Quan niệm tương tự
trên đây cũng thấy
xuất hiện nơi chương
13 của Quản Tử:
«Trong thân thể con
người, tâm là chủ
tể. Nhiệm vụ của cửu
khiếu là thể hiện
các chức năng biệt
lập của các quan
năng. Tai và mắt là
các giác quan để
nghe và nhìn.»
[18]
Các
quan niệm trên được
Lương Khâu Tử
梁邱子
lập
lại trong
Huỳnh
Đình Ngoại Cảnh:
«Mắt
trái là mặt trời
(thái dương); mắt
phải là mặt trăng
(thái âm).»
[19]
Trong
Hoàng Đế Nội Kinh
Tố Vấn
黃帝內經素問,
12 bộ
phận cơ thể được mô
tả chi tiết là 12
quan: «Tâm là cơ
quan của vua chúa,
là nơi thần minh
xuất ra. Phổi là cơ
quan của đại tướng,
ban ra sự trật tự và
điều tiết. Gan là cơ
quan của tướng quân,
đề ra chiến lược và
kế hoạch. Mật là cơ
quan trung chính,
cho ra sự quyết
đoán. Trong lồng
ngực là cơ quan của
thần sứ, phát ra vui
vẻ sung sướng. bao
tử và lá lách là kho
lúa gạo, phát ra năm
vị. Ruột già là cơ
quan truyền đi vật
uế tạp, biến hóa
chúng. Ruột non là
cơ quan nhận lấy
nhiều tạp chất để
đưa vào ruột già,
biến hóa chúng. Thận
là cơ quan làm việc
mạnh mẽ, phát sinh
kỹ xảo. Tam tiêu là
cơ quan dẫn lối âm
dương khai thông
ngòi nước cho khỏi
bế tắc, nước từ đó
thoát ra. Bàng quang
(bọng đái) là cơ
quan quản lý thủ đô
và châu quận, nước
tàng chứa ở đây.»
[20]
Những
thí dụ ít ỏi trên
đây đã minh xác
rằng: trên cơ sở là
sự thống nhất giữa
đại vũ trụ và tiểu
vũ trụ, các thiên
quan trên trời cũng
hiện hữu dưới đất và
nơi thân thể con
người.
Thiên
quan, tức là các
tinh tú, là nơi thần
minh cư ngụ: «Nơi
cung giữa là sao
Thiên cực, là nơi
sáng nhất, vốn là
nơi thường trú của
thần Thái Nhất.»
[21]
Vì
thiên quan có thần
minh cư ngụ, nên
thiên quan tương ứng
ở con người cũng có
thần minh cư ngụ.
Quản Tử nói: «Có
thần trú nơi thân
thể con người, thần
có lúc cũng đi, có
lúc cũng đến. Nhưng
không ai biết được
điều này. Khi mất
thần, con người mê
loạn.»
[22]
Quan
niệm cụ thể về nhân
thân chư thần đã
thấy vào đời Hán,
qua lời chú của Hà
Thượng Công về «Cốc
thần»
谷神
trong
Lão Tử Đạo Đức
Kinh: «Cốc là
nuôi dưỡng. Nếu con
người có thể nuôi
dưỡng thần thì họ sẽ
bất tử. Thần đây là
thần của ngũ tạng.
Thần của gan là hồn
魂,
thần của phổi là
phách
魄,
thần của tim là thần
神,
thần của thận là
tinh
精,
thần của tỳ là chí
志,
ngũ tạng bị thương
tổn hết thì năm thần
này xuất ra khỏi
nhân thể.»
[23]
Sự
liên hệ ngũ tạng với
ngũ thần (gan-hồn,
phổi-phách,
tim-thần, thận-tinh,
tỳ-chí) được nêu ra
trên đây cũng tương
đồng với quan niệm
của y học Trung
Quốc.
[24]
Thần
của ngũ tạng có liên
hệ mật thiết với
thần của bốn mùa và
thần của ngũ hành.
Thái Bình Kinh
太平經
có nói như vậy,
nhưng không kể chi
tiết tên của các vị
thần này: «Thần của
bốn mùa và thần của
ngũ hành khi nhập
vào thân thể con
người thì thành chư
thần của ngũ tạng,
khi xuất ra thì trở
thành thần của bốn
mùa và thần của ngũ
hành.»
[25]
Thái
Bình Kinh
cũng nói như vậy ở
một đoạn khác: «Khí
của bốn mùa và ngũ
hành nhập vào bụng
của con người thì
sinh ra chư thần của
ngũ tạng, có màu sắc
tương ứng với màu
sắc của bốn mùa và
trời đất.»
[26]
Chư
thần (ở đây gọi là
«kỵ
thần»
騎神)
của trung ương và
bốn phương hướng
được mô tả trong
Thái Bình Kinh
như sau: «Kỵ thần
hướng đông cầm cây
mâu, kỵ thần hướng
nam cầm cây kích, kỵ
thần hướng tây cầm
cung nỏ và cái rìu,
kỵ thần hướng bắc
cầm cái thuẫn mạ
vàng và cây đao, kỵ
thần trung ương cầm
kiếm và cái trống.
Khi nghĩ đến các vị
thần này thì trước
tiên hãy nhìn vào
chư thần trong thân
mình (nội thần) và
hãy nhìn chư thần
bên ngoài mình
(ngoại thần); hoặc
trước tiên nhìn
dương thần, sau đó
nhìn nội thần.»
[27]
Những
quan niệm xuyên qua
ít ví dụ nêu trên đã
được khai triển rộng
hơn vào đời Đông
Hán: Số lượng chư
thần trong nhân thể
phát triển đến 36000
vị; những vị thần
quan trọng nhất được
mô tả cụ thể về danh
xưng, chức vụ, vóc
dáng, y phục.
Maspero đã viết rõ:
«Thực sự toàn thân
con người tràn ngập
thần linh. Không
những mỗi đan điền,
mỗi tạng, mỗi phủ
đều có ít nhiều thần
linh mà mọi cơ quan
hay nói đơn giản là
mọi thứ có vẻ có
nhân tính đều hình
thành một thực thể
biệt lập, như mắt,
tai, tóc, v.v. Mỗi
vị thần này đều có
tên họ, biệt hiệu,
tước vị. Thần có y
phục, nơi cư ngụ,
chức nghiệp, và vai
trò trong sự hài hòa
chung của sự sống
của thân thể đó.»
[28]
Có
nhiều phương hướng
khác nhau trong sự
phát triển chư thần
trong nhân thể:
«Nhưng trong tất cả
chư thần trong nhân
thể này, người ta
phân biệt ngay hai
loại khác nhau: một
loại đơn thuần
liên quan các bộ
phận của thân người
(ordre purement
physiologique)… và
một loại thần
liên quan đến bản
thể vũ trụ
(ordre
ontologique).»
[29]
Loại
thần thứ hai này
phân làm hai nhóm:
một nhóm ứng với 24
khí tiết và một nhóm
được tạo sinh theo
cửu thiên
九天.
[30]
Trong
loại thần liên quan
đến các bộ phận của
thân thể con người
(die physiologischen
Gottheiten), ta thấy
có 7 vị thần đầu, 5
vị thần của ngũ
tạng, và 6 vị thần
của lục phủ. Đại
Đỗng chân kinh
大洞真經
còn đặc biệt phát
triển tiếp số chư
thần này: từng bộ
phận được ấn định có
thêm nhiều vị thần
nữa. Nhưng số chư
thần được nêu ra
trong Đại Đỗng
chân kinh thì
khác xa với số chư
thần được nêu trong
các đạo thư hay đạo
kinh tương tự về sau
đến nỗi người ta
không thể suy đoán
được. Để minh họa
điều này, tôi trích
dẫn Lão Tử Trung
Kinh
老子中經:
«8 vị thần phổi (phế
thần) là Thái Hòa
Quân
太和君,
tên gọi [ở] phủ
Thượng Thư
尚書
của Ngọc Chân Cung
玉真宮.
Các quan tùy tùng có
3600 người, cỡi
chiếc xe bằng khí
mây trắng, do bạch
hổ kéo hoặc họ cỡi
bạch long (rồng
trắng). 9 vị thần
tim (tâm thần) là
Thái Úy Công
太尉公,
gọi là Nguyên Quang
元光,
Thái Thủy Nam Cực
Lão Nhân
太始南極老人,
ở Giáng Cung
絳宮.
Các quan tùy tùng có
3600 người, cỡi
chiếc xe bằng khí
mây đỏ; chim đỏ tạo
thành cái lọng trên
xe, rắn đỏ làm thành
tay nắm. Xe do chim
đỏ kéo hoặc họ cỡi
xích long (rồng đỏ.)
7 vị thần gan (can
thần) là Lão Tử Quân
老子君,
tên gọi [ở] phủ Lan
Đài
蘭臺
của Minh Đường Cung
明堂宮.
Các quan tùy tùng có
3600 người, cỡi
chiếc xe bằng khí
mây xanh, do rồng
xanh kéo hoặc họ cỡi
nai trắng. 5 vị thần
mật (đảm thần) là
Thái Nhất Đạo Quân
太一道君,
cư ngụ nơi Tử Phòng
Cung
紫房宮.
Họ cỡi chiếc xe bằng
khí mây màu ngọc,
trên có cái lọng che
ngũ sắc, do 6 con
rồng bay kéo. Các
quan tùy tùng có
3600 người.»
[31]
Về
chư thần khác của
đầu và các bộ phận
trong thân, Lão
Tử Trung Kinh
còn cho những chi
tiết tương tự.
Loại
thần liên quan đến
bản thể vũ trụ
(ontologische
Gottheiten) tương
ứng với 24 khí tiết
được Maspero mô tả
như sau: «Một nhóm
thần nổi tiếng khác
là 24 thần (nhị thập
tứ thần) mà mỗi vị
cùng một lúc vừa cai
quản một bộ phận
trong thân thể con
người vừa ứng với 24
khí tiết. Nơi thân
thể con người (=tiểu
vũ trụ), 24 khí tiết
là 24 vòng tròn
chồng lên nhau, phân
đều từ đỉnh đầu
xuống lòng bàn chân;
và trong đại vũ trụ,
chúng là 24 nửa
tháng dương lịch do
một năm được chia
ra, sao cho tiết Hạ
Chí là ngay đỉnh
đầu, tiết Thu Phân
và Xuân Phân là ngay
rốn, và tiết Đông
Chí là ở bàn chân.»
[32]
Sự
phân loại thông
thường nhất là
3x8=24 thần căn cứ
vào 3 bộ (tam bộ
三部
=
đầu, ngực, bụng) của
thân thể con người.
Mỗi bộ có 8 cảnh
thần.
Thượng bộ bát cảnh
thần
上部八景神
gồm
có:
1.
Thần não (não thần
腦神)
tên Giác Nguyên Tử
覺元子,
tự Đạo Đô
道都;
2.
Thần tóc (phát thần
髮神)
tên Huyền Phụ Hoa
玄父華,
tự Đạo Hành
道衡;
3.
Thần da (bì phu thần
皮膚神)
tên Thông Chúng
Trọng
通眾仲,
tự Đạo Liên
道連;
4.
Thần mắt (mục thần
目神)
tên Linh Giám Sinh
靈監生,
tự Đạo Đồng
道童;
5.
Thần tủy ở cổ (hạng
tủy thần
項髓神)
tên Linh Mạc Cái
靈膜蓋,
tự Đạo Chu
道周;
6.
Thần xương sống (lữ
thần
膂神)
tên Ích Lịch Phụ
益歷輔,
tự Đạo Trụ
道柱;
7.
Thần mũi (tỵ thần
鼻神)
tên Trọng Long Ngọc
仲龍玉,
tự Đạo Vi
道微;
8.
Thần lưỡi (thiệt
thần
舌神)
tên Thủy Lương Trĩ
始梁峙,
tự Đạo Kỳ
道岐.
Trung
bộ bát cảnh thần
中部八景神
gồm
có:
1.
Thần yết hầu (hầu
thần
喉神)
tên Bách Lưu Phóng
百流放,
tự Đạo Thông
道通;
2.
Thần phổi (phế thần
肺神)
tên Tố Linh Sinh
素靈生,
tự Đạo Bình
道平;
3.
Thần tim (tâm thần
心神)
tên Hoán Dương Xương
煥陽昌,
tự Đạo Minh
道明;
4.
Thần gan (can thần
肝神)
tên Khai Quân Đồng
開君童,
tự Đạo Thanh
道清;
5.
Thần mật (đảm thần
膽神)
tên Đức Long Câu
德龍拘,
tự Đạo Phóng
道放;
6.
Thần thận trái (tả
thận thần
左腎神)
tên Xuân Nguyên Chân
春元真,
tự Đạo Khanh
道卿;
7.
Thần thận phải (hữu
thận thần
右腎神)
tên Tượng Tha Vô
象他無,
tự Đạo Ngọc
道玉;
8.
Thần tỳ (tỳ thần
脾神)
tên Bảo Nguyên Toàn
寶元全,
tự Đạo Khiên
道騫.
Hạ bộ
bát cảnh thần
下部八景神
gồm
có:
1.
Thần bao tử (vị thần
胃神)
tên Đồng Lai Dục
同來育,
tự Đạo Triển
道展;
2.
Thần ruột cùng (cùng
trường thần
窮腸神)
tên Triệu Đằng Khang
兆騰康,
tự Đạo Hoàn
道還;
3.
Thần ruột già và
ruột non (đại tiểu
trường thần
大小腸神)
tên Bồng Tống Lưu
蓬送留,
tự Đạo Trù
道廚;
4.
Thần trong ruột
(động trung thần
胴中神)
tên Thụ Hậu Bột
受厚勃,
tự Đạo Hư
道虛;
5.
Thần hoành cách mô
(hung cách thần
胸膈神)
tên Quảng Anh Trạch
廣英宅,
tự Đạo Trung
道中;
6.
Thần hai hàng xương
sườn (lưỡng lặc thần
兩肋神)
tên Tịch Giả Mã
辟假馬,
tự Đạo Thành
道成;
7.
Thần tả dương (tả
dương thần
左陽神)
tên Phù Lưu Khởi
扶流起,
tự Đạo Khuê
道圭;
8.
Thần hữu âm (hữu âm
thần
右陰神)
tên Bao Biểu Minh
包表明,
tự Đạo Sinh
道生.
[33]
Tên
28 vị thần này không
thống nhất với tên
các thần thuộc nhóm
liên quan các bộ
phận của thân người
(physiologische
Gottheiten) [đã kể
trong Lão Tử
Trung Kinh].
Chư
thần liên quan bản
thể vũ trụ
(ontologische
Gottheiten) tương
ứng với Cửu thiên
九天
đã
bắt nguồn từ một
thuyết của Trung
Quốc về sự sáng thế:
«Cửu thiên có vai
trò quan trọng trong
việc tạo dựng thế
giới và cửu thiên
sinh trưởng trong
thân người.»
[34]
Cửu
thiên ở đây là 9 khí
hình thành thế giới.
Các khí này bắt
nguồn từ nguyên khí
元氣.
Trước tiên nguyên
khí phân làm 3 khí,
rồi phân thành 9
khí: «Cửu khí biến
đổi một loạt . Mặt
trời, mặt trăng,
tinh tú, âm dương,
ngũ hành, đều tiếp
nhận sự sống từ cửu
khí.»
[35]
Trong
thân thể con người,
cửu khí hay cửu
thiên thể hiện ra là
cửu cung
九宮.
Cửu cung tọa lạc nơi
mỗi ba bộ phận. Cửu
cung nơi thượng bộ
(=đầu) thường được
mô tả chi tiết, còn
cửu cung nơi trung
bộ (=mình) và hạ bộ
(=phần dưới) thì
chưa được biết rõ.
Chỉ trong một văn
bản duy nhất sau đây
là Thượng Dương
Tử Kim đan đại yếu
上陽子金丹大要,
tôi
tìm thấy sự mô tả
chi tiết về cửu cung
ở trung bộ: «Tim
(nơi thần cư ngụ) là
Giáng tiêu cung
絳霄宮.
Thận (nơi thần cư
ngụ) là Đan nguyên
cung
丹元宮.
Gan (nơi thần cư
ngụ) là Lan đài cung
蘭臺宮.
Phổi (nơi thần cư
ngụ) là Thượng thư
cung
尚書宮.
Tỳ (nơi thần cư ngụ)
là Huỳnh đình cung
黃庭宮.
Mật (nơi thần cư
ngụ) là Thiên hoằng
cung
天霐宮.
Ruột non (nơi thần
cư ngụ) là Huyền
linh cung
玄靈宮.
Ruột già (nơi thần
cư ngụ) là Mộc linh
cung
木靈宮.
Bàng quang (nơi thần
cư ngụ) là Ngọc
phòng cung
玉房宮.»
[36]
Văn
bản đời Nguyên trên
đây rõ ràng là một
cố gắng muộn màng
nhằm hệ thống hóa
cửu cung nơi trung
bộ thân người. Qua
sự tổng kết các cơ
quan của trung bộ và
hạ bộ nhưng lược bỏ
cửu cung nơi hạ bộ,
sự cố gắng này không
có giá trị gì.
Huỳnh
Đình Kinh
có sự đặc biệt: với
tư cách làmột đạo
kinh xưa nhất nói về
chư thần trong thân
thể con người, kinh
này dung chứa cả ba
sự khai triển đã nêu
trên đây. Trọng tâm
của sự mô tả này là
chư thần liên quan
đến các bộ phận
trong thân người
(physiologische
Gottheiten). Trong
Huỳnh Đình Nội
Cảnh Kinh, thần
ở đầu được liệt kê
danh tính ở chương 7
(Chí đạo
至道)
và các thần ngũ tạng
được liệt kê danh
tính ở chương 8 (Tâm
thần
心神),
nhưng các thần lục
phủ thì không kể
danh tính ra. Gần
phân nửa của
Huỳnh Đình Nội Cảnh
Kinh mô tả tỉ mỉ
nhất về chư thần ngũ
tạng.
[37]
Ở đây tôi muốn nêu
ra một sự khai triển
đặc biệt các thần
lục phủ theo quan
niệm đời Tống: «Theo
một quyển sách
khuyết danh tác giả
vào đời Tống đã minh
họa, mỗi phủ trong
lục phủ của thân
người được cho rằng
có động vật cư ngụ.
Hổ trắng ở phổi, rắn
và rùa ở mật, rồng ở
gan, phượng hoàng ở
tỳ, chim đỏ ở tim,
nai hai đầu ở thận.»
[38]
Thần gan có
hình rồng |
Thần mật có
hình rắn và rùa |
Thần phổi có
hình hổ trắng |
Thần tim có
hình chim đỏ |
Thần thận có
hình nai hai đầu |
Ở đây
danh xưng chư thần
ngũ tạng nêu trong
Huỳnh Đình Kinh
được mô tả thêm
hình dáng qua sự
trình bày của Hồ Âm
胡愔
trong Huỳnh Đình
Nội Cảnh Ngũ Tạng
Lục Phủ Đồ
黃庭內景五臟六腑圖.
Nhóm
chư thần tương ứng
với 24 tiết khí được
mô tả như sau trong
Huỳnh Đình Nội
Cảnh chương 23:
«Phép đối trị sự
sống thật đơn giản:
chỉ cần học theo
sách Động Huyền [của
Lão Quân] và sách
Ngọc Thiên (tức
Huỳnh Đình Kinh).
Ngoài ra, trong thân
hình có bát cảnh
thần [ở mỗi bộ trên,
giữa, dưới], thống
nhiếp khí toàn thân
thì 24 vị thần này
hiện ra.»
[39]
Sự
giải thích chư thần
liên quan đến 24
tiết khí không phải
duy nhất chỉ có ở
sách này. Chẳng hạn
Lãnh Khiêm
泠謙
trong
Huỳnh Đình Kinh
Bí Nghĩa đã
giảng rằng bát cảnh
tương ứng với bát
quái tức là 8 quẻ cơ
bản để hình thành 64
quẻ kinh Dịch. Còn
24 chân nhân ứng với
24 hào âm và dương
của bát quái.
[40]
Ngoài ra người ta
cũng có thể giải 24
chân nhân này ứng
với 24 tiếng đồng hồ
của một ngày (bát
cảnh thần ứng với 8
tiếng, nhân với 3
[sáng, chiều, tối]
là 24 thần).
Về
các thần tương ứng
với cửu cung của
trời, chương 7 của
Nội Cảnh đã
viết: «Chư thần nơi
mặt đều lấy nê hoàn
làm tông chủ, [trời
có cửu cung mà người
cũng thế] nên nê
hoàn [ở trung cung]
và 8 cung xung quanh
đều có 9 vị thần.»
[41]
Đến
đây, vấn đề vẫn còn
chưa giải quyết
xong: Chư thần trong
thân thể con người
để phục vụ mục đích
gì?
Theo quan niệm của
Thái Bình Kinh,
khi chư thần tồn tại
trong thân người mà
không bị thương tổn
thì con người ta
khỏe mạnh, nếu chư
thần rời bỏ thân ta
thì ta bệnh hoạn và
chết: «Cho nên thần
gan đi mất mà không
trở về thân ta, thì
mắt ta không sáng.
Khi thần tim đi mất
thì môi ta xanh tái.
Khi thần phổi đi mất
thì mũi ta bị nghẹt.
Khi thần thận đi mất
thì tai ta điếc. Khi
thần tỳ đi mất thì
miệng ta không cảm
nhận được vị ngọt.
Khi thần đầu đi mất
thì ta mắt ta tối
sầm. Khi thần bụng
đi mất thì bao tử ta
rối loạn, không thể
tiêu hóa thực phẩm.
Khi thần tứ chi đi
mất thì ta không thể
cử động và di chuyển
được.»
[42]
Tuy nhiên, khi chư
thần vẫn tồn tại
trong thân thể con
người thì, theo
Thái Bình Kinh
mô tả, người ta sẽ
có tình trạng như
sau: «Khi chư thần
tồn tại trong thân
thể ta, ta sẽ cảm
thấy tươi vui, sẽ
cảm thấy hạnh phúc
và không truy cầu
tài bảo hay ganh đua
với đời. Vì không
ham danh lợi, sau
một thời gian dài,
ta sẽ trông thấy
hình ảnh chư thần.»
[43]
Sau
đó, điều quan trọng
đối với sức khỏe con
người chính là
tam trùng
三蟲
–
kẻ thù tự nhiên của
con người cũng như
của nhân thân chư
thần
–
sẽ bị tiêu diệt
thông qua sự hành
khí và phục thực
đúng đắn. Tam trùng
cư ngụ nơi ba bộ
phận của con người.
Kaltenmark viết:
«Thượng trùng tấn
công mắt và gây tai
hại cho đầu. Trung
trùng hại bụng và
ruột. Hạ trùng gây
bệnh thận, làm cạn
tinh tủy, làm khô
xương, gây thiếu
máu.»
[44]
Tam
trùng được mô tả tỉ
mỉ chi tiết và sinh
động trong Thái
Thượng Trừ Tam Thi
Cửu Trùng Bảo Sinh
Kinh
太上除三尸九蟲保生經:
«Thượng trùng Bành
Cư
彭琚
có tên trẻ con là A
Ha
阿呵
ở trong đầu con
người. Nó tấn công
nê hoàn tức thượng
đan điền, khiến cho
người ta cảm thấy
nặng đầu, mắt tối
sầm, khóc chảy nước
mũi, tai điếc, răng
rụng, miệng hôi,
khuôn mặt nhăn nheo.
Nó làm con người mê
loạn, yêu thích xe
ngựa, say mê âm nhạc
và nữ sắc... Trung
trùng Bành Chất
彭質
có tên trẻ con là
Tác Tử
作子,
yêu thích ngũ sắc và
ngũ vị. Nó cư ngụ
nơi tim và bao tử
con người. Nó tấn
công tử cung (cung
màu đỏ) và trung
tiêu, khiến con
người nhầm lẫn và
mất trí nhớ. Nó làm
giảm tinh. Khi khí
sinh ra, tai họa
đến. Mặt khác, nó
gây sầu não. Khi âu
lo thái quá, miệng
khô, mắt trắng, răng
sâu. Ngày đêm nó làm
hại lục phủ ngũ
tạng. Nó gây ra bệnh
tật. Do nó mà người
ta ngủ nhiều và thấy
ác mộng... Hạ trùng
Bành Kiểu
彭矯
có tên trẻ con là Lý
Tế
李細,
cư ngụ nơi bụng và
chân con người. Nó
làm hại khí hải đến
nỗi khô cạn và làm
cho bách bệnh sinh
ra. Nó xúi con người
trộm cướp, ham mê nữ
sắc, danh vọng, và
ham mê trụy lạc, gây
tác hại. Người ta
không thể cản được
nó làm hại sinh mệnh
của họ. Nó khiến con
người kết hợp với ma
quỉ, quay lưng với
cuộc sống, cận kề
cái chết, cạn kiệt
tinh khí. Nó làm khô
tủy, cơ bắp đau
nhức, thịt nóng hực,
ý chí bạc nhược,
thân thể trống rỗng,
mông nặng nề, bàn
chân và đầu gối rã
rời. Nước tiểu và xú
khí thoát ra, và dần
dần tai họa đến...»
Tam
thi (tam trùng)
三尸 (三蟲)
Tam
trùng đã xuất hiện
từ đời Đông Hán, như
trong tác phẩm
Luận Hành
論衡
của Vương Sung
王充
đã
chép: «Người ta có
tam trùng trong
ruột. Côn trùng sống
nơi đầm lầy gọi là
con đỉa. Chúng ăn
chân người, còn ở
con người thì tam
trùng ăn ruột.»
[46]
Về
sau, do ảnh hưởng
của thuyết về chư
thần tương ứng với
cửu thiên, người ta
lại phân biệt xa hơn
nữa là tam thi cửu
trùng (cũng là kẻ
thù của con người).
Về cửu trùng thì
Thái Thượng Trừ Tam
Thi Cửu Trùng Bảo
Sinh Kinh cũng
đã mô tả sinh động.
Chư
thần trong thân thể
con người là đối
tượng của tĩnh tọa,
gọi là nội quán
內觀:
«Nội quán cũng cho
phép người ta nhìn
thấy các thần trong
thân thể... Nhiều
đạo kinh đã mô tả
chính xác chư thần
này, nêu ra danh
tánh của thần và
thường cho biết hình
dáng của thần để dễ
nhìn thấy và giao
tiếp với thần.»
[47]
Tuy
chư thần theo quan
niệm của Đạo giáo là
có cung điện cả trên
trời lẫn dưới đất,
nhưng chư thần không
thường trú nơi đó,
mà luôn dạo chơi
khắp nơi, nên thật
là khó khăn cho các
đạo sĩ được giao
tiếp với chư thần.
Điều đó cũng là một
điều thực dễ dàng
khi đạo sĩ luôn có
khả năng giao tiếp
chư thần nhờ tham
thiền nội quán chư
thần trong thân thể,
mà các vị này tương
ứng với chư thần
trên trời.
Tóm tắt chư thần nơi
ba bộ vị của thân
thể
I.
Thượng bộ
上部
của
thân thể:
a/
Chư thần liên quan
các bộ phận thân thể
theo Huỳnh Đình
Kinh:
1-
Thần Tóc = Thương
Hoa
蒼華
2-
Thần Trán = Tinh Căn
精根
3-
Thần Mắt = Minh
Thượng
明上
4-
Thần Mũi = Ngọc Lũng
玉壟
5-
Thần Tai = Không
Nhàn
空閑
6-
Thần Lưỡi = Thông
Mệnh
通命
7-
Thần Răng = Ngạc
Phong
崿鋒
b/
Chư thần liên quan
24 khí tiết
(Đạo Tạng
1051/W1388:
洞玄靈寶二十四生圖經
Động Huyền Linh Bảo
Nhị Thập Tứ Sinh Đồ
Kinh)
1-
Thần Tóc = Huyền Phụ
Hoa
玄父華
2-
Thần Trán = Giác
Nguyên Tử
覺元子
3-
Thần Mắt = Hư Giám
虛監
4-
Thần Mũi = Trọng
Long Tử
仲龍子
5-
Thần Lưỡi = Thủy
Lương Trĩ
始梁峙
6-
Thần Da = Thông
Tượng Trọng
通象仲
7-
Thần Tủy xương sống
= Linh Mô Cái
靈謨蓋
8-
Thần Xương sống =
Ích Lịch Chuyển
益歷轉
c/
Chư thần liên quan
cửu cung:
1-
Chư thần cung Minh
Đường
明堂:
ở giữa là Minh Kính
Thần Quân
明鏡神君;
bên trái là Minh
Đồng Chân Quân
明童真君;
bên phải là Minh Nữ
Chân Quân
明女真君.
2-
Chư thần cung Động
Phòng
洞房:
ở giữa là Hoàng Lão
Quân
黃老君;
bên trái là Nguyên
Anh Quân
元英君;
bên phải là Nguyên
Bạch Quân
元白君.
3-
Chư thần cung Nê
Hoàn
泥丸:
bên trái là Thượng
Nguyên Xích Tử
上元赤子;
bên phải có Đế Hương
帝鄉
(chỉ
có 2 thần đồng cư).
4-
Chư thần cung Lưu
Châu
流珠:
Lưu Châu Chân Quân
流珠真君.
5-
Chư thần cung Ngọc
Đế
玉帝:
Ngọc Thanh Thần Mẫu
玉清神母.
6-
Chư thần cung Thiên
Đình
天庭:
Thượng Thanh Chân Nữ
上清真女
7-
Chư thần cung Cực
Chân
極真:
Thái Cực Đế Phi
太極帝妃.
8-
Chư thần cung Huyền
Đan
玄丹:
Trung Hoàng Thái Ất
Chân Quân
中黃太乙真君.
9-
Chư thần cung Thái
Hoàng
太皇:
Thái Thượng Quân Hậu
太上君后.
II.
Trung bộ
中部
của
thân thể:
a/
Chư thần liên quan
các bộ phận thân thể
theo Huỳnh Đình
Kinh:
1-
Thần Tim = Đan
Nguyên
丹元
2-
Thần Phổi = Hạo Hoa
皓華
3-
Thần Gan = Long Yên
龍湮
4-
Thần Thận = Huyền
Minh
玄明
5-
Thần Tỳ = Thường Tại
常在
6-
Thần Mật = Long Diệu
龍曜
b/
Chư thần liên quan
24 khí tiết
(theo Đạo Tạng
1051/W1388: Động
Huyền Linh Bảo Nhị
Thập Tứ Sinh Đồ Kinh
洞玄靈寶二十四生圖經)
1-
Thần Tim = Hoán
Dương Xương
煥陽昌
2-
Thần Phổi = Tố Linh
Sinh
素靈生
3-
Thần Gan = Khai Quân
Đồng
開君童
4-
Thần Thận trái =
Xuân Nguyên Quân
春元君
5-
Thần Thận phải =
Tượng Tha Vô
象他無
6-
Thần Tỳ = Bảo Vô
Toàn
寶無全
7-
Thần Mật = Long Đức
Câu
龍德拘
8-
Thần Cuống họng =
Bách Lưu Phóng
百流放
c/
Chư thần liên quan
cửu cung:
(không có)
III.
Hạ bộ
下部
của
thân thể:
a/
Chư thần liên quan
các bộ phận thân thể
theo Huỳnh Đình
Kinh:
-
Thần Mật = Long Diệu
龍曜
b/
Chư thần liên quan
24 khí tiết
(theo
Đạo Tạng
1051/W1388:
Động Huyền Linh Bảo
Nhị Thập Tứ Sinh Đồ
Kinh
洞玄靈寶二十四生圖經)
1-
Thần Bao Tử = Đồng
Lai Dục
同來育
2-
Thần Ruột già ruột
non = Bồng Tống Lưu
蓬送留
3-
Thần Ruột thừa = Phi
Đằng Khang
非騰康
4-
Thần Đầu ruột = Thụ
Hậu Bột
受厚勃
5-
Thần Cách
(Zwerchfell:
diaphragm: cơ hoành)
= Quảng Anh Trạch
廣瑛宅
6-
Thần Mông = Tịch Giả
Mã
辟假馬
7-
Thần Tả dương = Phù
Lưu Khởi
扶流起
8-
Thần Hữu âm = Bao
Biểu Minh
包表明
c/ Chư thần liên
quan cửu cung:
(không có)
CHÚ
THÍCH
Đạo Tạng Tinh
Hoa, bộ 1,
tập 9, trang 89.
Phó Cần Gia
傅勤家,
Trung Quốc Đạo
giáo sử
中國道教史,
Đài Bắc, 1967,
tr. 104.
Haloun,
Nachschrift
eines Kollegs
über die
taoistischen
Kapitel (36, 37,
49) im Kuan-tzu
(Lời cuối của
một khóa giảng
về các chương
Đạo giáo 36, 37,
49 trong Quản
Tử), tr. 31.
Quản Tử,
trong Tứ Bộ
Bị Yếu, tr.
365, chương 16.
–
W.A. Rickett,
Kuan-tzu,
Hong Kong, 1965,
tr. 158, dịch:
«It is ever so
that the essence
of things is
what gives them
life. Below it
gives life to
the five grains;
above it creates
the ranked
stars. When
floating between
Heaven and
earth, we call
it the spirit.
When stored in
the breast (of a
person), we call
it the sage.»
«Thử ngôn tạng
phủ giai hữu
thần dã. Nhiên
Đạo giáo chi
thuyết thị nhân
thân vi nhất
tiểu thiên địa,
cố thiên địa chi
thần giai tồn
ngô nhân chi
thân trung.»
此言臟腑皆有神也.然道教之說視人身為一小天地,故天地之神皆存吾人之身中.
(Phó Cần Gia,
sđd., tr.
106). Quan niệm
về sự thống nhất
giữa đại vũ trụ
và tiểu vũ trụ
tuy vậy không
thuộc phạm vi
của Đạo giáo, mà
quan niệm này đã
phổ biến trong
xã hội Trung
Quốc cổ đại rồi.
Maspero, Le
Taoïsme,
1950, tr. 123,
đã chỉ ra sự
liên hệ này giữa
đại và tiểu vũ
trụ [qua chư
thần trong vũ
trụ và chư thần
trong thân thể
con người],
nhưng ông không
khai triển quan
niệm này. Nơi
trang 109, theo
tôi thì Maspero
đã lầm khi nói
về Bàn Cổ
盤古.
Ở đây là huyền
thoại nói về sự
sáng tạo vũ trụ
mang tính đồng
hình với con
người chứ không
phải là quan
niệm về đại và
tiểu vũ trụ.
Hoài Nam Tử,
Tứ Bộ Bị
Yếu, 424, chương
3, tr. 16a/b.
–
Thuật ngữ
thập nhị tiết
十二節
(12 quan tiết)
bao gồm: 2 cánh
tay trong, 2
cánh tay ngoài,
2 bàn tay, 2
đùi, 2 ống chân,
2 bàn chân.
Trung Y Danh Từ
từ điển
中醫名詞辭典,
Hongkong, 1964,
tr. 4, giải: «Tứ
chi các hữu tam
đại tiết, hợp
danh thập nhị
tiết.»
四肢各有三大節合名十二節
(Mỗi
chi của tứ chi
đều có ba quan
tiết lớn, gọi
chung là 12 tiết).
Lại có 360 (hoặc
366) tiết,
Homann tôi vẫn
chưa rõ, có lẽ
là số lượng các
đốt xương, khớp
xương (Gelenke,
Knochen).
Hoài Nam Tử,
Tứ Bộ Bị
Yếu, 424, chương
7, tr. 2a.
[LAM chú]
Theo Thiên văn
học Trung Quốc,
bầu trời được
phân thành 9
vùng gọi là cửu
dã
九野
ứng với mặt đất
là Cửu Châu
九州
(tức Trung Quốc
cổ đại,
Thượng Thư - Vũ
Cống liệt kê
9 châu là: Ký
冀,
Duyện
兗,
Thanh
青,
Từ
徐,
Dương
揚,
Kinh
荊,
Dự
豫,
Lương
梁,
Ung
雍).
Cửu châu theo
Đạo giáo là 9 cơ
quan trong thân
thể con người.
Tu chân Thái
Cực hỗn nguyên
đồ
修真太極混元圖
nói: Nhân thân
chi trung vạn
tượng tồn yên,
dĩ cửu châu ngôn
chi. Thận vi Ký
châu, bàng quang
vi Từ châu, can
vi Thanh châu,
đảm vi Duyện
châu, tâm vi
Dương châu, tiểu
trường vi Kinh
châu, tỳ vi Dự
châu, phế vi
Lương châu, đại
trường vi Ung
châu.
人身之中萬象存焉,以九州言之.腎為冀州,膀胱為徐州,肝為青州,膽為兗州,心為揚州,小腸為荊州,脾為豫州,肺為梁州,大腸為雍州
(Vạn tượng đều
tồn tại trong
thân thể con
người, lấy cửu
châu để nói điều
này. Thận: Ký
châu, bọng đái:
Từ châu, gan:
Thanh châu, mật:
Duyện châu, tim:
Dương châu, ruột
non: Kinh châu,
lá lách: Dự
châu, ruột già:
Ung châu.)
Bernhard
Karlgren,
Grammata Serica
Resensa,
Stockholm, 1957,
tr. 62.
[LAM chú]
Bản tiếng Anh
của Bernhard
Karlgren (phiên
âm là Cao Bản
Hán
高本漢)
được dịch ra Hán
văn là Hán
Văn Điển
漢文典,
Thượng Hải Từ
Thư xbx, tu đính
bản, Thượng Hải,
1992. Nơi trang
81, các dịch giả
(Phan Ngộ Vân
潘悟雲,
Dương Kiếm Kiều
楊劍橋,
Trần Trọng
Nghiệp
陳重業,
Trương Hồng Minh
張洪明)
đã dịch Quan
官
/kwan; kuan;
guān/ là: (1)
phủ quan và nơi
quan làm việc
官府,
辦事處;
(2) công chức
公職;
(3) nhân viên
hành chánh
行政人員,
quan viên
官員;
(4) chức vụ
職務,
nhậm chức
任職.
Tôi đã kiểm lại
lời dịch trên
trong ấn bản
Stockholm, 1964,
tr. 62: kwán/
kuán/ kuan:
official’s
residence,
office (Li);
office, public
charge (Tso);
official, office
(Lunyü);
function, to
function (Li).
Đó là các ý
nghĩa mà
Karlgren tìm
thấy trong Lễ
Ký (Li),
Tả Truyện
(Tso), và
Luận Ngữ
(Lunyü).
–
Hứa Thận
許慎,
Thuyết Văn Giải
Tự
說文解字,
Trung Hoa Thư
Cục, Bắc Kinh,
1996, tr. 304,
giải: Sử sự quân
dã, tòng miên
tòng đôi do
chúng dã, thử dữ
sư đồng ý.
史事君也從宀從猶眾也此與師同意
(quan lại phục
vụ vua; do chữ
miên [mái
nhà] ghép với
đôi [nghĩa
như đông người],
cùng ý nghĩa với
sư
師
[giả tá của sự
事
= phục vụ]).
Sử Ký hội chú
khảo chứng
史記會注考證,
Tōkyō, 1932, (10
tập), tập 4,
quyển 27, tr. 1.
Hoàng Đế Nội
Kinh Tố Vấn,
chương 3, tr.
1a/b.
Sử Ký hội chú
khảo chứng
史記會注考證,
Tōkyō, 1932, (10
tập), tập 4,
quyển 27, tr.
3/4; Chavannes,
sđd., quyển 3,
tr. 339, dịch:
«Dans le Palais
central,
l’étoile
T’ien-ki (Faîte
du ciel) est la
plus brillante;
elle est la
résidence de
T’ai-i (l’Unité
suprême).»
Đạo Đức chân
kinh chú
道德真經注,
Đạo Tạng
363/W676. ch. 6,
tr. 5a.
Hoàng Đế Nội
kinh tố vấn,
ch. 3, tr. 7b,
8b.
Thái Bình
Kinh hợp hiệu
太平經合校,
sđd., tr. 292.
Thái Bình
Kinh hợp hiệu,
sđd., tr.
292.
Thái Bình
Kinh hợp hiệu,
sđd., tr.
293.
Maspero, sđd.,
tr. 117, 118.
Homann chú:
«Gauchet dường
như đã lầm khi
liệt kê 24 thần
này vào loại
thần liên quan
đến các bộ phận
của thân thể con
người.» («Mir
scheint, daß
hier Gauchet ein
Irrtum
unterlaufen ist,
denn er rechnet
diese 24
Gottheiten den
physiologischen
Gottheiten zu.»)
(Gauchet, sđd.,
tr.71)
Đạo Tạng Tinh
Hoa, bộ 7,
tập 2, tr. 278.
[LAM chú]
Tôi dịch theo
bản chữ Hán
Lão Tử Trung
Kinh, tức là
quyển 18 của
Vân Cấp Thất
Thiêm (in
trong Đạo
Tạng Yếu Tịch
tuyển san (khan)
道臧要藉選刊,
Thượng Hải Cổ
Tịch xbx, 1995,
quyển 1, tr.
140): “Phế thần
bát nhân Đại
(Thái) Hòa Quân
dã, danh viết
Ngọc Chân Cung
Thượng Thư phủ
dã. Kỳ tòng quan
tam thiên lục
bách nhân, thừa
bạch vân khí chi
xa, tham giá
bạch hổ hoặc
thừa bạch long.
Tâm thần cửu
nhân Thái Úy
Công dã. Danh
viết Giáng Cung
Thái Thủy Nam
Cực Lão Nhân
Nguyên Quang dã.
Kỳ tòng quan tam
thiên lục bách
nhân, thừa xích
vân khí chi xa,
chu tước vi cái,
đan xà vi bính,
tham giá chu
tước hoặc thừa
xích long. Can
thần thất nhân
Lão Tử Quân dã.
danh viết Minh
Đường Cung Lan
Đài phủ dã. Kỳ
tòng quan tam
thiên lục bách
nhân, thừa thanh
vân khí chi xa,
tham giá thanh
long hoặc thừa
bạch lộc. Đảm
thần ngũ nhân
Thái Nhất Đạo
Quân dã. Cư Tử
Phòng Cung, thừa
ngũ thái huyền
hoàng tử cái
châu ngọc vân
khí chi xa, tham
giá lục phi
long, tòng quan
tam thiên lục
bách nhân.»
肺神八人大和君也.名曰玉真宮尚書府也.其從官三千六百人,乘白雲氣之車,驂駕白虎或乘白龍.心神九人太尉公也.名曰絳宮太始南極老人元光也.其從官三千六百人,乘赤雲氣之車,朱雀為蓋,丹蛇為柄,驂駕朱雀或乘赤龍.肝神七人老子君也.名曰明堂宮蘭臺府也.其從官三千六百人,乘青雲氣之車,驂駕青龍或乘白鹿.膽神五人太一道君也.居子房宮,乘五彩玄黃紫蓋,珠玉雲氣之車,驂駕六飛龍.其從官三千六百人.
Maspero,
Taoïsme,
1950,
tr.117-118.
[LAM chú]
Lịch pháp Trung
Quốc cổ đại căn
cứ vào vị trí
mặt trời trên
vòng Hoàng Đạo
黃道
mà chia một năm
thành nhị
thập tứ tiết khí
二十四節氣
(24 tiết khí)
hay nhị thập
tứ khí
二十四氣
(24 khí). Một
tháng âm lịch
chia làm 2 phần:
nửa đầu gọi là
tiết khí
節氣,
nửa sau gọi là
trung khí
中氣.
Tháng nhuần thì
không có trung
khí. Sau đây là
24 tiết khí: (1)
Lập xuân
立春
(đầu xuân, 5/2
dương lịch, vị
trí trên đưòng
Hoàng đạo là
Aquarius), (2)
Vũ thủy
雨水
(ẩm ướt, 19/2,
Pisces), (3)
Kinh trập
惊蟄
(sâu nở, 5/3,
Pisces), (4)
Xuân phân
春分
(giữa xuân,
20/3, Aries),
(5) Thanh minh
清明
(trong sáng,
5/4, Aries), (6)
Cốc vũ
谷雨
(mưa rào như hạt
thóc, 20/4,
Taurus), (7) Lập
hạ
立夏
(sang hè, 5/5,
Taurus), (8)
Tiểu mãn
小滿
(đầy ít, 21/5,
Gemini), (9)
Mang chủng
芒種
(tua rua, 6/6,
Gemini), (10) Hạ
chí
夏至
(giữa hè, 21/6,
Cancer), (11)
Tiểu thử
小暑
(nắng nhạt, 7/7,
Cancer), (12)
Đại thử
大暑
(nắng nhiều,
23/7, Leo), (13)
Lập thu
立秋
(vào thu, 7/8,
Leo), (14) Xử
thử
處署
(nắng ít, 23/8,
Virgo), (15)
Bạch lộ
白露
(sương trắng,
8/9, Virgo),
(16) Thu phân
秋分
(giữa thu, 23/9,
Libra), (17) Hàn
lộ
寒露
(sương lạnh,
8/10, Libra),
(18) Sương giáng
霜降
(sương sa,
23/10, Scorpio),
(19) Lập đông
立冬
(sang đông,
7/11, Scorpio),
(20) Tiểu tuyết
小雪
(tuyết ít,
22/11,
Sagittarius),
(21) Đại tuyết
大雪
(tuyết nhiều,
7/12,
Sagittarius),
(22) Đông chí
冬至
(giữa đông,
21/12,
Capricorn), (23)
Tiểu hàn
小寒
(chớm lạnh, 6/1,
Capricorn), (24)
Đại hàn
大寒
(giá rét, 21/1,
Aquarius).
[LAM chú]
Homann tham khảo
Werner nhưng
chép sơ sài,
lược bỏ tên và
tự của từng vị
thần. Tôi kiểm
tra lại mục này
trong: Werner,
A Dictionary
of Chinese
Mythology,
New York, 1961,
và trong Trương
Chí Triết (sđd.)
để bổ sung thêm
chi tiết phần
viết của Homann.
Lời giải của
Werner và Trương
Chí Triết giống
như lời giải
trong Nhị
thập tứ sinh đồ
kinh
二十四生圖經
và Nhị thập
tứ thần hành sự
quyết
二十四神行事訣.
Đạo Tạng
186/W393: Động
huyền Linh bảo
tự nhiên Cửu
thiên sinh thần
chương kinh giải
nghĩa
洞玄靈寶自然九天生神章經解義,
ch. 1, tr. 8b.
[LAM chú]
Vì chưa tìm được
bản kinh chữ Hán
này, tôi dịch
theo lời dịch
tiếng Đức của
Homann. Thật ra
còn có các giải
thích khác nhau
về cửu khí:
–
Trong Huỳnh
Đình Nội Cảnh
Kinh, chương
1 (Thượng
thanh
上清),
đã đề cập cửu
khí: «Cầm tâm
tam điệp, vũ
thai tiên, cửu
khí ánh minh,
xuất tiêu gian;
Thần cái, đồng
tử, sinh tử yên,
thị viết ngọc
thư, khả tinh
nghiên.»
琴心三疊儛胎仙,九氣映明出霄間,神蓋童子生紫煙,是曰玉書可精研
(Hòa khí
thông thần, tích
tinh lũy khí,
dưỡng chí tồn
thần, luyện
thành đại dược,
cổ vũ chân
nguyên để kết
thai tiên. Chân
khí của cửu cung
sáng chiếu đến
chỗ tối cao thì
thần mi và mắt
tự nhiên phát;
đây là yếu chỉ
của Huỳnh Đình
ngọc thư, kẻ có
thực tâm tu
luyện hãy nghiên
cứu kỹ.) Nơi
đây, mỗi đan
điền có 3 nguyên
khí, vị chi là
9. Vụ Thành Tử
chú rằng: Khí
của cửu thiên
nhập vào mũi con
người, chu lưu
trong 9 cung của
não, sáng chiếu
lên trên nên gọi
là ‘xuất tiêu
gian’. Cửu
thiên sinh thần
kinh nói:
Nuôi dưỡng Tam
nguyên, cửu khí
kết hình. (Cửu
thiên chi khí,
nhập vu nhân tỵ,
chu lưu não
cung, ánh minh
thượng đạt, cố
viết xuất tiêu
gian. Cửu
thiên sinh thần
kinh viết:
Tam nguyên dục
dưỡng, cửu khí
kết hình.
胎仙,九氣映明出霄間,神蓋童子生紫煙,是曰玉書可精研).
(Phương Xuân
Dương, sđd.,
tr. 408).
Đạo Tạng
736/W1053,
Thượng Dương Tử
Kim đan đại yếu,
chương 4,
tr. 4b.
Thái Bình
Kinh hợp hiệu,
1960, tr.
27.
Đạo Tạng,
580/W864 (Thái
Thượng Trừ Tam
Thi Cửu Trùng
Bảo Sinh Kinh
太上除三尸九蟲保生經),
tr. 7a-7b.
[LAM chú]
Tam trùng
三蟲
cũng gọi tam
thi
三尸
hay tam bành
三彭.
Tuy nhiên trong
cách gọi «tam
thi cửu trùng»
của đạo kinh nói
trên thì cửu
trùng gồm:
1. Phục trùng
伏蟲,
2. Hồi trùng
回蟲,
3. Bạch trùng
白蟲,
4. Nhục trùng
肉蟲,
5. Phế trùng
肺蟲,
6. Vị trùng
胃蟲,
7. cách trùng
鬲蟲,
8. Xích trùng
赤蟲,
9. Khang trùng
蜣蟲.
Người Việt Nam
nói «nổi cơn tam
bành» (ý nói nổi
giận đùng đùng)
nhưng ít ai biết
tam bành là
thuật ngữ của
Đạo giáo. Về tam
thi hay tam bành
và tên gọi, có
các thuyết khác
nhau:
–
Trung Hoàng
Kinh
中黃經
nói: «Thượng
trùng ở trong
đầu não, trung
trùng ở trong
minh đường, hạ
trùng ở trong
bụng và bao tử.»
一者上蟲居腦宮,二者中蟲居明堂,三者下蟲居腹胃
(Nhất giả thượng
trùng cư não
cung, nhị giả
trung trùng cư
minh đường, tam
giả hạ trùng cư
phúc vị).
–
Thái Thượng Tam
Thi Trung Kinh
太上三尸中經
thì nói: «Thượng
thi tên Bành Cư,
thích báu vật, ở
trong đầu con
người. Trung thi
tên Bành Chất,
thích ngũ vị, ở
nơi bụng con
người. Hạ thi
tên Bành Kiểu
thích sắc dục, ở
trong chân con
người.»
上尸名彭倨,好寶物,在人頭中.中尸名彭質,好五味,在人腹中.下尸名彭矯,好色欲,在人足中
Thượng thi danh
Bành Cư, hiếu
bảo vật, tại
nhân đầu trung.
Trung thi danh
Bành Chất, hiếu
ngũ vị, tại nhân
phúc trung. Hạ
thi danh Bành
Kiểu, hiếu sắc
dục, tại nhân
túc trung).
–
Ngọc Xu Kinh
Chú
玉樞經注
nói: «Thượng thi
tên Thanh Cô,
trung thi tên
Bạch Cô, hạ thi
tên Huyết Cô.»
上尸名青姑,中尸名白姑,下尸名血姑
(Thượng thi danh
Thanh Cô, trung
thi danh Bạch
Cô, hạ thi danh
Huyết Cô).
[LAM chú]
Homann chép
nhầm: Minh Đồng
Chân Quân
明童真君,
Minh Nữ Chân
Quan
明女真官,
Minh Kính Quân
明鏡君.
Thật ra nơi cung
Minh Đường, ở
giữa là Minh
Kính Thần Quân
明鏡神君;
bên trái là Minh
Đồng Chân Quân
明童真君;
bên phải là Minh
Nữ Chân Quân
明女真君.
Tôi chỉnh lại là
Minh Kính
Thần Quân
[thêm chữ
Thần] và
Minh Nữ Chân
Quân [không
phải Quan].
Ở đây tôi cũng
nói thêm: quan
niệm Minh Đường
của Nho giáo và
quan niệm Minh
Đường của Đạo
giáo hoàn toàn
khác nhau. Theo
Nho gíáo, Minh
Đường là nhà
thái miếu của
thiên tử để tế
tự. Cổ Đại
Hán ngữ từ điển
(Thương Vụ
Ấn Thư Quán, Bắc
Kinh, 2000, tr.
1075) giải ngắn
gọn: «Cổ đại
thiên tử tuyên
minh chính giáo
đích địa phương.
Phàm triều hội,
tế tự, khánh
thưởng, tuyển
sĩ, dưỡng lão,
giáo học đẳng
đại điển, quân
tại thử cử
hành.»
古代天子宣明政教之地方.凡朝會,祭祀,慶賞,選士,養老,教學等大典,均在此舉行
(Nơi thiên tử
làm rõ chính trị
và tôn giáo. Nói
chung những việc
lớn như triều
hội [chư hầu],
cúng tế, khen
thưởng, tuyển
chọn kẻ sĩ,
dưỡng lão, dạy
học, v.v. đều cử
hành tại đây.)
Tên gọi Minh
Đường có từ đời
Chu. Trước đời
Chu, nhà thái
miếu không gọi
là Minh Đường,
như đời nhà Hạ
gọi là Thế Thất
世室,
đời nhà Ân gọi
là Trùng Ốc
重屋.
Thật ra có nhiều thuyết khác nhau về Minh Đường. Theo Nguyệt Lệnh
月令
trong Lễ Ký
禮記,
Minh Đường có 9 cung: cung giữa là Thái Miếu
太廟
hay Thái Thất
太室;
3 cung phía Nam thì chính giữa là Minh Đường, hai bên là tả cá
左個
và hữu cá
右個;
3 cung phía Bắc thì chính giữa là là Huyền Đường
玄堂,
hai bên là tả cá và hữu cá; 3 cung phía Đông thì chính giữa là là Thanh
Dương
青陽,
hai bên là tả cá và hữu cá; 3 cung phía Tây thì chính giữa là là Tổng Chương
總章,
hai bên là tả cá và hữu cá. Cung Minh Đường ở phía Nam được lấy làm tên chỉ
cho 9 cung. 9 cung này có 36 cửa một cánh (hộ
戶)
và 72 cửa sổ (dũ
牖),
và mái lợp bằng cỏ mao
茅.
(xem: Từ Hải,
tr. 632)
Minh Đường
theo
Nguyệt lệnh
trong Lễ Ký
|
Minh Đường theo Đạo giáo:
Cửu cung: (0) = Thủ thốn song điền - (1) Minh Đường - (2)
Động Phòng - (3) Đan Điền - (4) Lưu Châu - (5) Ngọc Đế - (6) Thiên
Đình - (7) Cực Chân - (8) Huyền Đan - (9) Thái Hoàng |
Theo Đạo giáo, Minh Đường là một trong 9 cung nằm trong đầu não. Từ giữa 2
chân mày đi vào một thốn
寸
là Minh Đường, vào một thốn
寸
nữa là Động Phòng. Đái Nguyên Trường,
Tiên học từ điển, Chân Thiện Mỹ xuất bản xã, Đài Bắc, 1970, tr. 94,
giải: «Tại Trùng Lâu chi hạ, Động Phòng chi thượng, vi Hạ Minh Đường, mi tâm
nội nhất thốn, vi Thượng Minh Đường, Minh Đường Động Phòng, quân hữu thượng
hạ nhị xứ, cố đặc tường chi.»
在重樓之下,洞房之上,為下明堂,眉心內一寸,為上明堂,明堂洞房,均有上下之處,故特詳之.
(Dưới Trùng Lâu và bên trên Động Phòng là Hạ Minh Đường, từ mi tâm [=giữa 2
chân mày] đi vào trong 1 thốn là Thượng Minh Đường. Minh Đường và
Động Phòng đều có 2 phần thượng và hạ, do đó phải đặc biệt hiểu rõ chúng.)
[LAM chú]
Homann ghi chú
nhầm: «Không có
tên thần ở cung
này.» (Name
fehlt).
Từ chú thích 48
đến 53, tôi căn
cứ quyển Tồn
Tưởng Thiên
存想篇
mà điều chỉnh
lại tên chư thần
trong bảng tóm
tắt của Homann.
(xem: Lục Cẩm
Xuyên
陸錦川
chủ biên, Khí
Công Truyền
Thống Thuật Ngữ
Từ Điển
氣功傳統術語辭典,
Tứ Xuyên Khoa
Học Kỹ Thuật
xbx, 1991, tr.
60)
–
Tôi đã điều
chỉnh bảng tóm
tắt của Homann.
Để độc giả tiện
tham khảo, tôi
cũng trích lại
sau đây bảng tóm
tắt của ông (tr.
47-51); chỗ khác
biệt đánh dấu là
[*]:
Schema der drei
Hauptrichtung
der
Körpergottheiten
(Sơ đồ ba bộ vị
chính có thân
nội chư thần)
I. Obere
Abteilung des
Körpers =Thượng
bộ
上部
thân thể:
a/
Physiologische
Gottheiten nach
dem
Huang-t’ing-ching:
Chư thần liên
quan các bộ phận
thân thể theo
Huỳnh Đình Kinh:
1- Thần Tóc
(Haar) = Thương
Hoa
蒼華,
2- Thần Trán
(Gehirn) = Tinh
Căn
精根,
3- Thần Mắt
(Augen) = Minh
Thượng
明上,
4- Thần Mũi
(Nase) = Ngọc
Lũng
玉壟,
5- Thần Tai
(Ohren) = Không
Nhàn
空閑,
6- Thần Lưỡi
(Zunge) = Thông
Mệnh
通命,
7- Thần Răng
(Zähne) = Ngạc
Phong
崿鋒.
b/ 24
Halbmonat-Gottheiten:
Chư thần liên
quan 24 khí
tiết: 1- Thần
Tóc (Haar) =
Huyền Phụ Hoa
玄父華,
2- Thần Trán
(Gehirn) = Giác
Nguyên Tử
覺元子,
3- Thần Mắt
(Augen) = Hư
Giám
虛監,
4- Thần Mũi
(Nase) = Trọng
Long Tử
仲龍子,
5- Thần Lưỡi
(Zunge) = Thủy
Lương Trĩ
始梁峙,
6- Thần Da
(Haut) = Thông
Tượng Trọng
通象仲,
7- Thần Tủy
xương sống (Mark
der
Nackenknochen) =
Linh Mô Cái
靈謨蓋,
8- Thần Xương
sống
(Nackenwirbel) =
Ích Lịch Chuyển
益歷轉.
c/
Neun-Himmel-Gottheiten:
Chư thần liên
quan cửu cung:
1- Cung Minh
Đường
明堂
(Regierungshalle):
Minh Đồng Chân
Quân
明童真君;
Minh Nữ Chân
Quan
明女真官
[*];
Minh Kính Quân
明鏡君
[*].
2- Cung Động
Phòng
洞房
(Grottenzimmer):
Vô Anh Công Tử
無英公子
[*];
Bạch Nguyên Quân
元白君
[*];
Hoàng Lão Quân
黃老君.
3- Cung Nê Hoàn
泥丸
(Zinnoberfeld):
Thượng Nguyên
Xích Tử
上元赤子;
Triệu Lặc Tinh
肇勒精
[*].
4- Cung Lưu Châu
流珠
(Fließende
Perlen): Lưu
Châu Chân Thần
流珠真神
[*].
5- Cung Ngọc Đế
玉帝
(Jade-Kaiser):
Ngọc Thanh Thần
Mẫu
玉清神母;
Tam Tố Nguyên
Quân
三素元君
[*].6-
Cung Thiên Đình
天庭
(Himmlische
Halle): Thượng
Thanh Chân Nữ
上清真女.
7- Cung Cực Chân
極真
(Äußerste
Wahrhaftigkeit):
Thái Cực Đế Phi
太極帝妃.
8- Cung Huyền
Đan
玄丹
(Dunkles
Zinnober): Không
có tên (Name
fehlt). 9- Cung
Thái Hoàng
太皇
(Großer
Erhabener): Thái
Thượng Quân Hậu
太上君后.
II. Mittlere
Abteilung
= Trung bộ
中部
thân thể:
a/
Physiologische
Gottheiten nach
dem
Huang-t’ing-ching
= Chư thần liên
quan các bộ phận
thân thể theo
Huỳnh Đình Kinh:
1- Thần Tim
(Herz) = Đan
Nguyên
丹元;
2- Thần Phổi
(Lunge) = Hạo
Hoa
皓華;
3- Thần Gan
(Leber) = Long
Yên
龍湮;
4- Thần Thận
(Nieren) = Huyền
Minh
玄明;
5- Thần Tỳ
(Milz) = Thường
Tại
常在;
6- Thần Mật
(Galle) = Long
Diệu
龍曜.
b/ 24
Halbmonat-Gottheiten:
Chư thần liên
quan 24 khí
tiết: 1- Thần
Tim (Herz): Hoán
Dương Xương
煥陽昌.
2- Thần Phổi
(Lunge): Tố Linh
Sinh
素靈生;
3- Thần Gan
(Leber): Khai
Quân Đồng
開君童;
4- Thần Thận
trái (linke
Niere): Xuân
Nguyên Quân
春元君;
5- Thần Thận
phải (rechte
Niere): Tượng
Tha Vô
象他無;
6- Thần Tỳ
(Milz): Bảo Vô
Toàn
寶無全;
7- Thần Mật
(Galle): Long
Đức Câu
龍德拘;
8- Thần Cuống
họng (Schlund):
Bách Lưu Phóng
百流放.
c/
Neun-Himmel-Gottheiten:
Chư thần liên
quan cửu cung
(không có)
III. Untere
Abteilung des
Körpers
= Hạ bộ
下部
thân thể:
a/
Physiologische
Gottheiten nach
dem
Huang-t’ing-ching:
Chư thần liên
quan các bộ phận
thân thể theo
Huỳnh Đình Kinh:
6
Nebeneingeweide
(keine Namen der
einzelnen
Gottheiten): Lục
phủ (không có
tên của từng vị
thần riêng lẻ),
mit Ausnahme der
Galle (ngoại trừ
Đảm thần= Thần
Mật (Galle):
Long Diệu
龍曜).
b/ 24
Halbmonat-Gottheiten:
Chư thần liên
quan 24 khí
tiết: 1- Thần
Bao Tử (Bauch):
Đồng Lai Dục
同來育;
2- Thần Ruột già
ruột non
(Dick-und
Dünndarm): Bồng
Tống Lưu
蓬送留;
3- Thần Ruột
thừa
(Darmansatz):
Phi Đằng Khang
非騰康;
4- Thần Đầu ruột
(Eingeweide):
Thụ Hậu Bột
受厚勃;
5- Thần Cách
(Zwerchfell: cơ
hoành): Quảng
Anh Trạch
廣瑛宅;
6- Thần Mông
(Hüften): Tịch
Giả Mã
辟假馬;
7- Thần Tả dương
(linkes Yang):
Phù Lưu Khởi
扶流起;
8- Thần Hữu âm
(rechtes Yin):
Bao Biểu Minh
包表明.
»
mục lục
|