THỬ TÌM MỘT PHƯƠNG PHÁP KHẢO SÁT
LÃO GIÁO
Nguyên tác:
Michael Saso
Nguyễn Văn Thọ dịch và chú giải
S
ự khảo sát về Lão giáo gần đây đã trở nên thông thường đối với những học giả đã
từng sống một thời gian trong những cộng đồng Hoa-kiều tồn cổ ở Đông và Đông Nam
Á. Những lễ nghi rực rỡ và bình dân của các đạo sĩ với vai trò mà chúng đóng góp
trong đời sống đạo giáo của các cộng đồng Hoa kiều đã khiến các học giả phải chú
tâm, mặc dầu họ ở Á Đông chưa được là bao. Những lễ nghi đạo Lão cử hành nơi
miếu mạo hay tại tư gia, mới nhìn, ngỡ giản dị, nhưng nếu đi sâu vào cơ cấu và
nội dung chúng, ta sẽ thấy chúng hết sức phức tạp. Dầu một lễ nghi đơn giản nhất
liên quan đến công phu tu luyện nội đơn, chuyển khí điều tức, hô thần, kiến
thần, chiêm bốc, cho nên nếu không biết nhiều bộ môn học thuật, sẽ không đủ khả
năng phân tách và hiểu biết. Vì thế, thiết tưởng cũng nên phác họa ra một vài
tiêu chuẩn đại cương khả dĩ giúp ta khảo về lễ nghi đạo lão. Đó chẳng qua là
khởi xướng ra một phương pháp khảo cứu trong một lãnh vực còn hoang sơ, chưa có
gì để giúp các học giả khảo sát về lễ nghi lão giáo, một vấn đề gian nan, mơ hồ,
phiêu diêu.
Trước khi vào chủ đề, tôi muốn lưu ý độc giả đến ít nhiều cạm bẫy và khó khăn
trên con đường tìm hiểu Lão giáo về phương diện nghi lễ cổ truyền. Điểm trước
tiên và hết sức quan trọng cần xin lưu ý là các đạo sĩ, cũng như những người
hành nghề gia truyền rất ghét tiết lộ bí quyết sinh nhai của họ. Về điểm này,
các đạo sĩ hoàn toàn giống các thầy lang Tàu, người thợ may hay người bán đậu
hủ. Họ chỉ truyền bí quyết cho con cái hay cho những đệ tử đã vất vả nhiều năm
để phục vụ thầy. Một học giả trẻ măng và hăng hái vừa mới ra trường mà muốn vào
đời để khảo về Lão giáo cũng y như một cô cậu học sinh, vừa hết tiểu học, đến
xin việc với ông thợ mộc. Một đạo sĩ thường bắt đầu học nghề từ năm 10 hay 11
tuổi vào có chịu chức thì cũng phải vào khoảng 30. Cho nên, muốn thảo cứu về Lão
giáo, cần phải được chuẩn bị kỹ càng, nhất là cần phải đọc thật nhiều kinh sách
trong bộ Đạo tạng
và hiểu biết những nghi thức có liên quan đến một cuộc hành lễ đạo Lão. Ta có
thể lấy nghi lễ công giáo mà so sánh. Nghĩa là (nếu chúng ta không có chuẩn bị
mà khảo về lễ nghi Lão giáo thì chẳng khác nào vào một nhà thờ Công giáo lần đầu
tiên), mà muốn khảo sát về lễ Mi-sa công giáo, khi chưa hề hiểu chút gì về những
nghi thức phức tạp do vị linh mục cử hành. Một học giả, trước khi vào đời để
khảo về Lão giáo cần phải thuộc những tiết mục dạy về lễ nghi Lão giáo trong bộ
Đạo tạng, mà lát nữa tôi sẽ bàn tới.
Điểm thứ hai cần lưu ý trước khi vào chủ đề là đạo Lão có rất nhiều môn phái
trong toàn cõi Á Đông và Đông Nam Á. Một học giả tường thuật về một lễ nghi đạo
Lão đã được cử hành thế này thế kia, có thể bị một đồng nghiệp phản đối, vì
chính học đã thấy một nghi lễ cũng trùng tên như vậy mà đã được cử hành cách
khác ngay ở làng bên. Ví dụ có môn phái, khi muốn phong chức, thì bắt người sắp
được thụ phong phải leo lên một chiếc thang gươm 36 lưỡi. Phái Chính Nhất (Cheng
i), tức là phái “Chân truyền” thì lại cho nghi lễ này là tà, là nhảm. Các môn
phái Lư Sơn, quàng khăn đỏ thì chỉ dùng nghi lễ trên làm trò cho dân chúng xem
trước các cửa đền, cửa phủ mà thôi. Thực ra, lễ phong chức chân truyền hết sức
là trang nghiêm theo đúng lễ nghi ghi trong sách của phái Long Hổ Sơn
(Lung-hu-shan) mà đến nay, nhiều miền ở Đài Loan, trung thành với truyền thống
vẫn còn giữ. Vì thế nên một học giả cần phải biết lai lịch các môn phái của Lão
giáo, và không nên mô tả suông những hình thức lễ nghi bên ngoài, vì đó mới chỉ
là một phần nhỏ nhoi của toàn cục, mà cần phải biết những điều tâm niệm bên
trong diễn biến song song với các nghi lễ cử hành bên ngoài. Chính những điều
tâm niệm ấy mới giúp ta đoán định được sự linh ứng của lễ nghi.
Sau hết, cần phải bàn qua về hai chữ Chính (Cheng) và Tà (Tà là tiếng khinh mà
môn phái này thường dùng để chê nghi lễ của môn phái kia). Chữ Chính (Cheng)
thực ra là dùng để chỉ những nghi lễ làm theo đúng nghi thức chân truyền, có ghi
trong Đạo tạng và được gọi là Khoa nghi (K’o-i), cùng với những bộ pháp, ấn
quyết, phù chú, sớ văn lưu truyền từ xưa, và đến nay vẫn còn là phần căn cốt,
chính yếu của Lão giáo.
Chữ Tà (Hsieh) được áp dụng cho: 1) những lễ nghi không theo chính truyền Lão
giáo, nhưng đã được các pháp sư dùng trong các lễ bình dân. 2) những lễ nghi
cũng mang danh là Khoa nghi (K’o-i) nhưng thực ra có một nội dung khác hẳn với
nghi lễ chính truyền. Như phái Thần Tiêu (Shen-hsiao) làm các lễ có tên đúng với
truyền thống, (như lễ Tảo chiêu, Tsao Ch’ao) nhưng có một nội dung hoàn toàn
khác với các bản văn chân truyền. Theo nghĩa thứ nhất trên, thì lễ trèo thang
gươm 36 lưỡi, hay lễ trừ ôn (đả vương bàn) là tà, vì đã vay mượn nơi các đạo
khác trong dân dã và cho du nhập vào Lão giáo. Theo nghĩa thứ hai, thì các lễ
của phái Thần Tiêu (Shen- hsiao) cũng là tà, vì tuy tên lễ giống với truyền
thống, nhưng nội dung thời khác hẳn. Nhà học giả cần biết rằng vị pháp sư ông
gặp thường làm cả hai loại lễ chính, tà, có thể vị pháp sư đó không phân biệt
được chính, tà; mà cũng có thể là vì ông thích dùng tà thuật để đánh vào thị
hiếu người dân Trung Hoa. Thế là sinh kế và lợi lộc đã thay thế cho sự thuần túy
chính truyền trong nhiều lễ Lão giáo. Thế nên đứng về phương diện thuần túy khoa
học cần phải đề ra những quy tắc để phân biệt thế nào là nghi lễ chính truyền,
thế nào là nghi lễ bình dân rồi ra mới sắp xếp và học hỏi được về những nghi lễ
phiền tạp, đa đoan, biến thiên vô tận, khiến một học giả nhìn vào phải phát
kinh.
Như vậy, trước hết, chúng ta phải phân biệt các môn phái đạo Lão, với những đặc
tính truyền thống lưu lại của chúng: Hiện nay ở Á Đông và Đông Nam Á, có những
môn phái sau đây, đã được tôi lưu tâm khảo sát:
1)
Phái Chính nhất (Cheng-i ) hay là phái Thiên sư, thuộc Long Hổ
Sơn, tỉnh Giang Tây.
2)
Phái Mao Sơn
với hai loại pháp môn: pháp môn nội luyện, dựa theo Huỳnh đình kinh (Yellow
Court Canon) và pháp môn võ thuật, tương tự như Nhẫn thuật (Nin-jitsu) của Nhật
Bản, dựa theo Kỳ môn độn giáp (Ch’i-men Tun-chia).
3)
Phái Thái Cực (T’ai-chi) thuộc Vũ Đương Sơn (Wu-tang Shan)
ở Hồ Bắc (Hupei) với hai loại pháp môn: một là võ thuật trừ tà ma bằng kiếm
kích, búa, giáo, và pháp môn tu luyện theo truyền thống của Trương Tam Phong
(Chang San Feng)
4)
Phái Toàn Chân (Ch’uan-chen sect) có ảnh hưởng đến các cư sĩ đạo Lão tu
luyện tại gia.
5)
Phái Thần Tiêu (Shen-hsiao order) gồm nhiều tiểu phái như Linh Bảo phái
(Ling-pao sect), Thiên sư phái (Heavenly master sect), Lão quân phái (Lord Lao
sect), và thường gồm có những đạo sĩ gốc tích ở Chương Châu (Chang Chou) thuộc
tỉnh Hạ Môn (Amoy)
6)
Phái Lư Sơn (Lu shan or Lu-shan order). Phái này dễ nhận, vì các đệ tử
thường quấn khăn đỏ quanh đầu, thổi tù và rung chuông tam cổ linh hay ngũ cổ
linh bắt chước phái Chân Ngôn (Phật giáo) khi hành lễ.
Bảng liệt kê của tôi như vậy vỏn vẹn chỉ có sáu giáo phái hay nói đúng hơn sáu
cách thức cử hành các nghi lễ Lão giáo, kể thì quá ít, nhất là theo công báo thì
có đến 86 giáo phái hay tổ chức Lão giáo được chính quyền bảo trợ, ấy là chưa kể
đến vô số môn phái không chính thức và biến chế tùy địa phương, tùy gia thế; về
phương diện này đạo Lão cũng không thua gì Phật giáo, các giáo phái Tin Lành,
các dòng tu Công giáo.
Điều tôi cần làm sáng tỏ là các pháp sư dẫu thuộc môn phái nào, pháp môn nào,
hành lễ ra sao, vẫn có vài điểm cốt yếu tương đồng mà một học giả phải biết.
Biết ra, công trình khảo cứu về Lão giáo sẽ trở nên dễ dàng, và sẽ thấy có một
mạch lạc giữa các môn phái và các lễ nghi phức tạp hiện thấy ngày nay. Những
nguyên tắc nòng cốt tạo thành và điều động các lễ nghi Lão giáo, theo như tôi
biết, đã được thể hiện một cách thỏa đáng trong những nghi thức khác nhau của
mấy môn phái kể trên. Cho nên, tôi xin nói qua về lễ nghi của 3 môn phái đã nói
ở trên, tức là phái Chính Nhất (Cheng-i ), phái Mao Sơn (Mao Shan sect)
và phái Thần Tiêu (Shen Hsiao order), những mong nêu ra được một phương pháp cho
người sau khảo về Lão giáo.
Môn phái quan trọng nhất ở miền Nam Trung Hoa, tức là ở miền sông Dương Tử, từ
thời nhà Tống cho đến thế kỷ 20, là phái Chính Nhất (Cheng-i), một môn phái
Chính truyền ở Long Hổ Sơn, tỉnh Giang Tây (Kiang si). Uy tín vượt mức của môn
phái này, trong và sau đời nhà Tống, do nhiều nguyên cớ, mà nguyên cớ chính là
vì triều đình muốn kiểm soát các tôn giáo ở Trung Hoa. Các đạo sĩ được khuyến
khích nên đến Long Hổ Sơn, xin vị Thiên sư ban sắc phong. Sắc phong do vị Thiên
sư ở Long Hổ Sơn ban vừa làm tăng thế giá cho vị đạo sĩ, vừa là cách để kiểm
soát các môn phái đạo Lão. Tới triều Minh, các đạo sĩ được ban phẩm hàm theo
hàng quan lại, nghĩa là các đạo sĩ đến Long Hổ Sơn xin sắc phong đều được ân tứ
phẩm hàm theo cửu phẩm triều đình. Điều quan trong nên ghi nhận là các đạo sĩ
bất luận thuộc phái nào, miễn là ở miền Nam Trung Hoa đều được khuyến cáo đến
xin thụ phong với vị Thiền sư. Thế tức là vị Thiền sư, chưởng môn phái Chính
Nhất (Cheng-i) tại Long Hổ Sơn (Lung-hu Shan) đa có quyền sắc phong cho các đạo
sĩ các phái Mao Sơn (Mao shan), Vũ Đương Sơn (Wu-tang Shan), Toàn Chân (Ch’uan
Chen) và Thần Tiêu (Shen Hsiao) và dĩ nhiên là các đạo phái Chính Nhất (Cheng-i
) nữa. Thủ bản sắc phong của vị Thiên sư đã chứng minh điều này rõ ràng, và tùy
môn phái lại ân tứ một lại cửu phẩm khác nhau. Vả lại xưa kia, các đạo sĩ có
muốn học về nghi lễ các sơn môn đạo viện khác nhau cũng dễ. Họ được tự do đi đến
các đạo viện, và có thể lập trường giảng dạy về môn phái mình ngay tại các sơn
môn, đạo viện danh tiếng khác. Sử sách đã ghi rõ ràng rằng các môn phái Vũ Đương
Sơn (Wu-tang-Shan) Thượng Thanh (Shang Ch’ing) ở Mao Sơn (Mao Shan) và Toàn Chân
(Ch’uan chen) ở Bắc Trung Hoa cũng đã từng có chi nhánh tại Long Hổ Sơn (Lung Hu
Shan) và tại các sơn môn , đạo viện danh tiếng khác ở miền Nam Trung Hoa. Hơn
nữa, một đạo sĩ có thể đi khắp các đạo viện để học hỏi về lễ nghi của các phái
khác. Họ cũng có thể rời đạo viện đến một làng hay một tỉnh lập đàn, làm lễ để
cầu sinh, thủ lợi. Ngoài ra, các cư sĩ (hỏa cư: Huo-chü) có vợ con như ai vẫn có
thể đến một đạo viện xin tu ít năm, để trau đồi phương thuật, hoặc đến Long Hổ
Sơn, xin Thiên sư ban sắc phong.
Vì
thế nên tuy có nhiều môn phái, nhưng vẫn có một yếu tố liên kết được đạo giáo
phái, làm được cho các giáo phái dẹp bất hòa và bắt tay thân thiện. Yếu tố ấy
xưa nay vẫn là nghi lễ chính truyền, gọi là Khoa nghi (K’o-i) còn có ghi trong
bộ Uy Nghi (Wei-i) ở Đạo Tạng.
Một đạo sĩ, bất kỳ ở cấp nào, phái nào, có chủ trương gì, xưa nay vẫn phải học
về Khoa Nghi, mà theo truyền thuyết đã được Trương Đạo Lăng lưu lại, từ cuối
thời Hán, và đã được Lục Tu Tĩnh (Lu-Hsiu-Ching) và các đạo sĩ thời Nam Bắc
triều soạn thành nghi lễ. Những nghi lễ này đến nay vẫn còn được coi là tuyệt
tác của Lão giáo. Nhưng nếu chỉ đọc Khoa Nghi sẽ không tìm ra được mối nhất quán
liên kết các lễ nghi với nhau, thành thử vẫn phải đi vào đời để tìm hiểu. Đã
đành vẫn có những ngoại lệ, ví dụ như những lời chỉ dẫn về lễ Túc Khải
(Su Ch’i) trong tập 281, chương 16 Đạo Tạng, hoặc về lễ Cấm đàn
(Chin-t’ân) đã được mô tả hết sức kỹ càng trong tập 985 của Đạo Tạng. Đã hẳn,
rất khó lòng mà xin được vị pháp sư giảng cho mình nghe những lời tụng niệm đi
kèm với những nghi tiết lễ nghi bên ngoài. Nhưng chuyện đó vẫn có thể thực hiện,
nếu vị học giả tỏ ra là đã hiểu lễ nghi, đã đọc Đạo Tạng. Các pháp sư thường
không chịu tiết lộ các ấn quyết, thần chú, linh phù, khẩu quyết, hoặc vì muốn
giữ bí truyền, hoặc vì muốn đòi tiền thưởng, một chuyện có thể có, đối với những
người sống bằng nghề cúng tế. Thế nên, một học giả có thể tốn tiền, tốn công ăn
chực nằm chờ nhiều năm cầu xin ngọc quyết (Yü-chüeh), nhưng rốt cuộc mới vỡ lẽ
ra rằng những bí quyết mà vị pháp sư đã tiết lộ, té ra đã được lấy trong các
sách của phái Thần Tiêu (Shen hsiao) chẳng có gì là bí truyền, chứ không phải đã
được lấy trong các bí kíp của phái Chính Nhất (Cheng-i) chân truyền. Vì thế các
học giả cần thuộc Đạo Tạng để có thể phân biệt lễ nghi chân truyền với lễ nghi
của phái Thần Tiêu (Shen Hsiao) mà có lẽ đã thịnh hành từ đời nhà Tống về sau.
Một học giả khi bước chân vào đời để khảo về lễ nghi, cần thuộc các nghi tiết đã
được ghi chép rõ ràng trong Đạo Tạng. Như vậy vị pháp sư dạy mình, sẽ dễ bề chỉ
dẫn cho mình hơn. Vốn các đạo sĩ không được phép tiết lộ bí mật đối với kẻ phàm
phu, người ngoài cuộc hay khác phái, nhưng họ vẫn được phép bàn về nghi tiết, về
cách thức vẽ bùa chú, cách thức tụng niệm với một học giả đã hiểu biết về Đạo
tạng.
Nghi lễ chân truyền căn cứ vào các bảng hô thần gọi là pháp lục trong Đạo Tạng,
trong quyển 877, Thái Thượng Tam Ngũ Chính Nhất Minh Uy Lục (T’ai-shang
San-wu Cheng-i Meng-Wei Lu) quyển 878, Thái Thượng Chính Nhất Mệnh Uy Pháp
Lục (T’ai Shang Cheng-i Meng-wei Fa-lu) và quyển 879 Chính nhất Pháp văn
Thập lục Triệu nghi (Cheng-i Fa wen Shih Lu Chao Yi). Bộ “Lục” sau chót trên
đây là sách căn bản để phong chức cho hàng Thất phẩm (Ch’i p’in) và chức Tam
ngũ đô công (San wu Tu-kung) mà các pháp sư vẫn dùng khi ký tên. Bộ “Lục”
thứ hai trên đây là sách căn bản để phong chức cho hàng Lục phẩm (Liu-p’in) và
bộ Lục thứ nhất ở trên là căn bản để phong chức cho hàng ngũ phẩm (Wu-p’in) và
Tứ phẩm (Ssu p’in) của Đạo sĩ. Những bộ “Lục” trên đều có trong bản Văn kiểm
(Wen Chien) mà mỗi đạo sĩ đều có. Trong bản Văn kiểm, ngoài các bảng danh sách
tôn thân, còn có các thần chú, bí quyết để liên lạc với các cõi Trời, cùng những
lời tạp dẫn, thay đổi tùy tập truyền của mỗi vị pháp sư. Các vị pháp sư thường
không thích nói đến chư thần, nhưng vẫn sẵn lòng cho các học giả xem bản Văn
kiểm, nếu được yêu cầu.
Trong các sách lễ Khoa nghi, còn thấy có những tập Pháp lục giống như Văn kiểm
nhưng ngắn hơn, để dùng trong những lễ đặc biệt. Như vậy, tất cả các lễ theo
Khoa nghi (K’o-i) như lễ Tiếu (Chiao) tức là cúng Xuân, lễ Trai (Chai) tức là lễ
cầu siêu đều rập theo một khuôn khổ trong đó có giai đoạn triệu thỉnh tôn thần
về giám lễ, mà chỉ vị pháp sư mới biết danh hiệu, chức tước ngài. Như vậy mỗi lễ
trong Khoa nghi đều có một bản danh sách tôn thần riêng để vị pháp sư triệu
thỉnh, lại còn có những vị thần đặc trách về công việc đệ trình các sớ văn lên
trời. Một học giả có thể xác định được môn phái, phẩm trật và tính cách chân giả
của vị pháp sư, nếu biết so sánh các bản danh sách tên thần ghi trong những sách
lễ mang tay của họ với Đạo tạng.
Trong những đoạn trên, ta đã nêu rõ rằng các lễ Khoa nghi đều rập theo một khuôn
khổ, trong đó có đoạn hô thần đến chứng giám cho cuộc lễ.
Khuôn khổ lễ nghi chân truyền hình như đã có từ lâu. Các sách như Vô thượng
tất yếu (Wu shang Pi yao) và Vô thượng Hoàng Lục Đại trai Lập thành Nghi
(Wu-shang Huang lu Ta chai Li ch’eng Yi) quyển trên từ thời Nam Bắc triều, quyển
dưới từ đời Đường, đã ghi rõ các giai đoạn nghi lễ theo Khoa nghi mà nay vẫn còn
theo. Đại cương, một lễ nghi chân truyền theo khuôn khổ như sau:
1.
Lễ nhập đàn. Rước (pháp sư) từ tĩnh thất đến đàn tràng.
2.
Lễ Bộ hư (Pu Hsu). Hát bài Tâm ca, đồng thời bước quanh đài theo bộ pháp
của Đại Vũ (Vũ bộ: Yü Pu), dùng bộ pháp vẽ lại Lạc thư, hay Bát quái Văn Vương
(Wen Wang) quanh nơi sẽ hành lễ, đoạn làm lễ Nhiễu đàn (Jao-t’an) tức là đi
quanh đàn 5 lần miệng niệm ngũ khí hay ngũ sắc của ngũ hành.
3.
Lễ Khải bạch. Xướng tên các vị thần giám lễ. Vị pháp sư phải thấy vị thần
mình triệu thỉnh.
4.
Lễ Nhập ý. Tụng các bản văn như sớ văn (Shu-wen), Biểu
(Piao), Điệp (Tieh), Chương (Chang), Quan (Kuan) v.v… tùy
loại thần, loại lễ.
5.
Lễ Tồn niệm như pháp (Ts’un Nien Ju Fa). Pháp sư quì giữa đàn, tập trung
tinh thần, miệng niệm chú, tay trái bắt quyết. Cử tọa hát bài «Ngũ tinh liệt
chiếu» (Wu hsing Lieh Chao).
6.
Lễ Minh pháp cổ nhị thập tứ thông. Đánh 3x8=24 tiếng trống cái. Đạo sĩ
tụng sách Ngọc quyết (Yü Chüeh)
7.
Lễ Phát Lô (Fa Lu). Đọc kinh Vô thượng tam thiên Huyền Nguyên Thủy Tam
Khí (Wu shang T’ien Hsuan Yuan Shih San Ch’i). Lúc ấy, Pháp sư tụng niệm
theo Đan thư, bắt ấn quyết, hô thần lai giám, dùng họa phù phác ra các cõi trời
đạo Lão, tâm niệm, chuyển khí, điều tức. Cách thức tâm niệm đều có ghi trong các
bộ Ngọc quyết (Yü Chüeh) hay Bí quyết (Mi Chüeh) và nhiều nơi khác trong Đạo
Tạng.
8.
Chính lễ. Bây giờ tới phần chính lễ. Bất kỳ là lễ cầu siêu, hay lễ cúng
Xuân, các lễ nghi đặc biệt cho mỗi kỳ, mỗi dịp đều được cử hành vào lúc này;
chẳng hạn như làm lễ Túc Khải, cắm 5 đạo Linh phù, lễ Chính Tiếu để tế Tam
Thanh,v.v…
9.
Lễ thập phương. Cúng Thập phương.
10. Lễ Trùng xưng pháp vị (Chung ch’eng Fa wei). (Trình biểu, sớ, dẫn
tiến Tiên cung) Tức là lễ thu hồi bằng cách sao chép lại các biểu sớ đã dâng lên
thiên đình. Lúc này thường có lễ «Chạy đàn» dưới những hình thức khác nhau, tùy
môn phái.
11. Lễ Phát thập nguyện. Phát mười điều tâm nguyện.
12. Lễ Phục Lô. Tắt đèn nhang.
Trừ vài biến thái, tùy theo mỗi lễ, các lễ Khoa nghi Lão giáo chân truyền thường
theo khuôn khổ nói trên. Tuy nhiên, đừng nên kết luận rằng mọi lễ nghi Lão giáo
đều theo Khoa nghi. Trái lại, người Lão giáo Trung Hoa đã từng được xem những lễ
có tính cách khác hẳn, ví như những lễ bình dân trong các đền miếu thôn quê, có
dặm thêm kinh kệ giảng về công tội, phù phép trị bệnh, trừ tà, cúng dâng thờ
phượng. Tuy nhiên, chúng ta đừng có lầm mà quá chú trọng đến các kinh kệ (Ching)
các Tiểu pháp (Hsiao Fa) nói trên, mặc dầu thường thấy làm, thường được dân
chuộng. Các kinh kệ (Ching) giảng về công tội rõ ràng là bắt chước các kinh kệ
Phật giáo, và cũng như các kinh kệ Phật giáo đồng loại, cốt là để đọc cho kín
các giờ kinh nhật tụng trong các đạo viện, và để cho dân thỏa mãn, biết thế nào
là công, thế nào là tội, làm sao được phúc trời, làm sao xá tội vong nhân, làm
sao tẩy trừ trần ai tục lụy. Các lễ Khoa nghi (K’o-i) thường được cử hành kín
đáo, trong các đền miếu cửa đóng then cài, không cho quần chúng xem. Và nếu có
làm trước quần chúng, thì các ấn quyết phải làm dấu trong tay áo thụng, và các
thần chú phải được đọc thầm. Dẩu sao, thì lễ Khoa nghi mới là lễ căn cốt tinh
hoa của Lão giáo, và nhà khảo cứu cần biết rằng các «bí quyết» để làm những lễ
đó có ghi trong các bộ Ngọc quyết (Yü Chüeh) hay Bí quyết (Mi Chüeh) của vị pháp
sư.
Nếu một lễ Khoa nghi được cử hành theo khuôn khổ trên, thì cứ sự thường một lễ
làm đúng cách, là một lễ chân truyền. Cho nên, vị pháp sư muốn nói sao thì nói,
ta cứ xem ông làm lễ, là biết ông thuộc phái nào, cấp bậc nào. Một pháp sư càng
chân truyền, thì kinh sách càng giống Đạo Tạng, thì hành lễ càng đúng nghi thức.
Các lễ của phái Thần Tiêu (Shen hsiao) tuy trùng danh trùng hiệu, trùng tiết tấu
như các lễ Khoa nghi, nhưng nội dung thì lại khác, nhất là các đoạn Ngọc quyết
(Yü Chüeh) đã bị hiểu sai hay chép thiếu. Cho nên, ta cần phải đọc kỹ lưỡng phần
Uy Nghi (Wei-i) trong Đạo Tạng và cách sách giảng về Nghi lễ, như quyển
Thượng thanh linh bảo đại pháp (Shang ch’ing Linh-pao Ta-fa) của Kim Doãn
Trung (Chin Yun Chung) đời Tống
hay quyển Đạo Môn thông giáo tất dụng tập (Tao men T’ung chiao Pi Yung
Chi) của Lã Thái Cổ (Lu T’ai Ku) cũng đời Tống.
Như tôi đã nói nơi tiết 10 trong phần phác họa nghi lễ chính truyền, lễ dâng
biểu sớ cũng rất quan trọng để đoán định môn phái và truyền thông của vị pháp
sư. Pháp sư theo phái Ngọc kinh (Yü ching), tức là một phái tu theo Mao Sơn (Mao
Shan) hay Hoa Sơn (Hua Shan), chạy đàn rất khéo, trước khi đốt biểu sớ dâng
thần. Vị pháp sư Đô giảng (Tu-chiang) tức là vị xướng văn tế, dẫn bước tế theo
hình Lạc thư hay Bát quái Văn Vương, đệ văn tế vào giữa đàn tràng. Ông dâng văn
tế lên vị pháp sư chủ tế. Vị này lại dẫn bước tế theo hình Hà Đồ, tức là theo
hình Bát quái Phục Hi. Ông dẫn bước tế như vậy tất cả 12 lần, mỗi lần bắt đầu từ
một cung trong 12 địa chi đã được vẽ thành vòng tròn nơi giữa đàn tràng. Vừa dẫn
bước tế, vị pháp sư vừa tụng niệm, rất là phức tạp, theo phép Nội đan của Mao
Sơn; lúc mở, lúc đóng các quẻ Dịch, để dẫn linh thần vào đàn và trục tà ma ra
khỏi nơi hành lễ. Cách dẫn bước tế cũng là một nghi thức đã được ghi trong sách
lễ của vị Thiên sư ở Long Hổ Sơn, mà các vị pháp sư đã được thụ phong tại đó từ
đời Thanh, sau này vẫn tuân giữ, khi đi hành đạo tại các nước trong vùng Đông và
Đông Nam Á.
Pháp sư phái Thần Tiêu (Shen Hsiao) dù được Thiên sư sắc phong, cũng không dẫn
bước tế như phái Hoa Sơn, lúc cuối các lễ Khoa nghi. Thay vào đó, họ dẫn bước tế
lối khác, và làm nhiều trò vui khác. Ví dụ họ dùng bài Ngũ lôi bằng gỗ hồng, gỗ
đào, mà lát nữa tôi sẽ bàn trở lại. Họ còn cho căng một tấm vải đen từ Bắc đến
Nam đàn tràng, tượng trưng cho sự giao hội của trời đất, trước khi đốt văn tế.
Lễ nghi của phái Thần Tiêu có điểm này đặc biệt là tự do dặm thêm vào lễ nhiều
trò vui, để kích động dân, cảm hóa dân; những trò này chẳng liên quan gì đến mục
đích của chính lễ, và cũng không đòi hỏi tâm niệm hay thi triển nội công, nội
lực khi hành lễ. Dĩ nhiên là những lễ phép của phái Thần Tiêu vui hơn và được
dân thích hơn. Pháp sư nào biết dặm thêm trò khi làm lễ sẽ được nhiều tư gia hay
đền phủ mời đến hành lễ hơn. Trong các trò bình dân ấy, có trò leo thang gươm 36
lưỡi trần, trò nhúng sắt nung đỏ vào bát dấm, rồi cho người dự lễ bước qua làn
hơi dấm để giải tội, trò dùng máu mào gà, máu mỏ vịt để giải tội, trò đốt hình
ôn thần, v.v…
Theo thiển kiến tôi, thì những lễ phép không chính thống ấy phần thì là của
những sắc dân đời xưa, mà người Hán đã học được trong cuộc Nam tiến; phần thì
phỏng theo lễ nghi của những phái Phật giáo như Chân Ngôn và Thiên Thai, phần
thì đã được các pháp sư tạo ra trong khi hành đạo sát cánh với những người dân
quê Trung Hoa, theo Lão giáo. Các học giả cần để ý và ghi chép các lễ phép ấy,
nhưng đừng lầm lộn chúng với những nghi lễ chính truyền. Vả lại những lễ phép
của phái Thần Tiêu thì được tha hồ đem dạy cho các học giả ngoại quốc. Vì thế
một học giả sau nhiều tháng lặn lội vào nghề, say sưa học các lễ phép Thần Tiêu,
rút cuộc mới ngã lẽ rằng mình chưa hề được truyền một chút gì về các ngọc quyết
chân truyền.
Trên đây tôi đã nói về nghi lễ của giáo phái chính thống, và đã bàn qua về tính
cách khoa trương của các lễ thuộc phái Thần Tiêu, bây giờ tôi xin nói tới các
giáo phái khác mà lúc đầu tôi có đề cập tới, đó là phái Toàn Chân, phái Mao Sơn,
và một phái võ ở Hồ Bắc, pha Mao Sơn lẫn Võ Đương. Phái Toàn Chân đã không có
mấy ảnh hưởng ở Đài Loan và theo chỗ tôi biết cũng đã không có mấy ảnh hưởng
trong vùng Đông Á. Tuy thế, cũng vẫn còn thấy có những vị pháp sư thực thụ thuộc
phái Toàn Chân, và những cư sĩ tu tại gia theo tôn chỉ tu duỡng của Toàn Chân.
Nhưng vì phái này không mấy liên quan đến chủ đề, nên tôi xin nêu ra rằng phái
Toàn Chân cũng có lễ Tiếu (Lễ cúng Xuân) và lễ cầu siêu tống táng như các
môn phái bạn. Tuy nhiên, phái này xưa kia đã có rất nhiều ảnh hưởng ở Bắc Trung
Hoa, còn hơn cả phái Chính Nhất nữa. Còn phái Mao Sơn và phái Thái Cực hay Vũ
Đương thường được nhắc tới cùng phép Ngũ Lôi, một phép mà nhà học giả cần biết.
Theo tôi, thì phái Mao Sơn cũng như phái Vũ Đương hiện còn chưa được người Au
Châu viết tới mấy.
Phái Mao Sơn, cũng còn có tên là Thượng Thanh hay Ngọc Kinh đã có
ảnh hưởng khá lớn đối với Lão giáo hiện hành ở Đông Nam Á và Đài Loan. Ảnh hưởng
của phái này được thể hiện trong hai loại pháp môn: Loại pháp môn thứ nhất gồm
những nghi thức căn bản, và phương pháp tu tâm dựa vào Huỳnh Đình Kinh và Đại
Đỗng Chân Kinh. Những đạo sĩ học theo những sách này hiện thấy ở Đài Loan, nhất
là ở Bắc Đài Loan, nơi có đông dân gốc tích ở Tuyền Châu, Phúc Kiến. Loại pháp
môn thứ hai của Mao Sơn có vẻ bình dân hơn, chuyên về mặt chữa bệnh, trừ tà, và
một loại vũ thuật giống như Nhẫn thuật của Nhật Bản. (Tôi đang đặc biệt khảo sát
về môn võ này và sẽ viết thành một thiên khảo luận riêng). Đại khái, môn nhẫn
thuật này dựa vào Bắc Đẩu và các vị thần Thiên Cương Bắc Đẩu. Các pháp sư cho
rằng phép hô thần Thiên Cương Bắc Đẩu, và thần Lục Đinh, Lục Giáp để chữa bệnh
hoặc báo thù là của phái Mao Sơn. Thực ra thì vị tổ sư thứ 8 của phái Mao Sơn là
Đào Hoăng Cảnh (T’ao Hung Ching) đời Lương đã viết một bộ sách tên là Thái
Thượng Xích Văn Đỗng Thần tam lục (T’ai Shang Ch’ih wen Tung shen San Lu),
khác với truyền thống Huỳnh Đình Kinh, trong đó có những phương thuật đặc biệt
của Mao Sơn. Phái Võ Đương ở Hồ Bắc cũng có một môn võ giống loại võ Nhẫn Thuật.
Anh hưởng của môn phái này hiện còn mạnh ở khắp vùng Đông Nam Á. Y như Mao Sơn
môn phái này cũng có hai loại pháp môn. Pháp môn tu luyện dành cho các đạo sĩ,
tu sĩ, pháp môn trừ tà dành cho đại chúng. Pháp môn tu luyện của phía này do
Trương Tam Phong lập ra, chú trọng về «Dưỡng khí điều thần, điều tức, phục dược,
phòng trung, dưỡng tinh, diên mệnh.» Còn pháp môn trừ tà, thì cũng giống môn võ
Nhẫn thuật của Mao Sơn đã nói trên, chỉ khác là số linh thần được triệu thỉnh
thì đông hơn, nhiều hơn, như thấy ghi trong quyển Thái thượng Bắc cực phục ma
thần chú sát quỉ lục (T’ai shang Pei chi Fu Muo Shen Chou Sha kuei Lu) những
quyển khác trọng Đạo tạng có liên quan đến đức Huyền Thiên Thượng đế
(Hsuan-t’ien Shang ti) vị thần chủ của giáo phái. Phái Vũ Đương cũng trọng vọng
các vị địa lý, bậc sư, các vị võ sư Thái Cực Quyền. Các pháp sư thuộc môn phái
này thường tự xưng là Thái Cực (T’ai chi hay Bắc cực sư (Pei-chi Taoist
masters).
Trên thực tế, các vị pháp sư ở Đông Nam Á ít khi là thuần túy thuật hẳn về một
môn phái nào. Nhưng thực ra, các ngài học phương thuật lẫn của nhau, và khi ký
tên, ngoài chức tước dài đặc của mình, vị pháp sư còn ghi thêm các chức tước các
pháp thuật đã xin được, học được nơi khác. Một đạo sĩ khi xưng danh, thường khoe
mình biết hết pháp thuật của Mao Sơn, Vũ Đương, và Chính Nhất. Vì thế nên nhà
học giả cần thuộc Đạo tạng mới biết được vị ấy nói đúng hay sai. Vả lại, Lão
giáo cũng vốn có cổ lệ tra vấn kiểu như vậy, và tín hữu nào khi đã thấu hiểu
kinh điển lễ nghi, cũng có thể đường đường coi mình như là một vị pháp sư.
Sau hết, xin đế cập đến Ngũ lôi pháp. Đó là một pháp có từ lâu và rất được các
pháp sự xưa nay ưa chuộng. Ngũ lôi pháp là một pháp quyết tối mật, một trong
những bảo bối mà vị pháp sư muốn dấu kỹ, không muốn đả động tới. Nhưng, cũng như
các trường hợp trên, Đạo Tạng đã có ghi đầu đủ các Lục, Pháp về Ngũ Lôi, ở trong
bộ Đạo Pháp Hội Nguyên các tập từ 884 đến 941 (Tao fa huei yuan) trong
Đạo Tạng. Nhiều vị pháp sư khoe mình rất sành Ngũ lôi pháp, và ưa dùng Ngũ lôi
bài bằng gỗ đào khi hành lễ. Nhưng trên thực tế, nhà khảo cứu nên thận trọng
đừng vội tin lời họ, hãy đọc kỹ Đạo Tạng, trước khi đến với họ, hay trước khi
muốn học về pháp môn nào của Lão giáo. Tôi đã thấy đa số pháp sư thường chỉ khoe
hay, khoe giỏi, chứ không có thực tài thực lực. Lý do là vì người xưa đã quá
thận trọng trong khi truyền phép Ngũ lôi, thành thử bí quyết ngày một thất
truyền hay bị thất bát tẫu tán vào trong những phù phép khác hiện hành tại Đông
Nam Á. Tuy thế bí pháp chân truyền Ngũ Lôi hiện vẫn còn được phái Chính Nhất Tư
Đàm ở Đài Loan giữ gìn cẩn thận. Họ cho tôi một cuốn sách mà tôi đã giao cho nhà
in Thành Văn ở Đài Bắc để xuất bản.
Cho nên, một học giả muốn vào đời để khảo về đạo Lão cần phải được chuẩn bị chu
đáo, để có thể đối thoại được với vị pháp sư như bạn chứ không như với thầy. Mặc
dầu các học giả xưa nay vẫn phân biệt hai thứ đạo Lão, một thứ cho người tu
hành, một thứ cho dân gian, nhưng thực ra cả hai thứ đạo này trà trộn với nhau
trong các lễ nghi đạo Lão ở Đông và Đông Nam Á. Muốn trở thành một vị pháp sư
thực thụ, người tín đồ Lão giáo trước hết phải học đủ thứ môn: luyện đan, điều
tức, bảo tinh, và uống các loại thuốc trường sinh diên thọ. Họ cũng còn phải học
thêm các môn Địa, Bốc, Lý, Số, Âm Dương Dịch Lý. Một học giả muốn khảo sát đạo
Lão hiện hành ở Đông Nam Á, nên biết những điểm trên, nên đọc kỹ các tiết mục về
lễ nghi, về tu dưỡng trong Đạo Tạng, như vậy sẽ đỡ được nhiều năm tốn công vô
ích.
Vì
thế, tôi đề nghị, khi học về Lão giáo nên phân lễ thành lễ chính thống hay lễ
bình dân tùy như theo hay không theo Uy nghi trong Đạo Tạng. (Chúng ta đừng dùng
chữ Tà, vì chữ này ngụ ý chê bai mà các môn phái dùng để chê nhau, chứ không
phải là một nhãn hiệu khoa học). Phần nhiều các lễ làm ở đền phủ hay tư gia hiện
nay đều là những lễ bình dân. Một học giả, nghe cách tụng kinh, xem cách làm lễ,
phải đoán đuợc vị pháp sư đó thuộc môn phái nào và làm lễ gì. Có nhiều lễ bình
dân, như lễ thả thuyền tống ôn thực ra chẳng có chút gì là Lão giáo chân truyền.
Lễ này thấy người Công giáo Phi cũng làm, nhiều làng ở Okinawa (Xung Thằng) làm
và nhiều miền khác ở Đông Nam Á cũng làm. Tuy vậy lễ nào cũng phải chú ý, cũng
phải ghi chép tường tận. Công trình biên khảo hào hứng thú vị như vậy mà tới nay
vẫn chưa được các tập san biên khảo về Trung Hoa đả động tới.
BẢNG PHIÊN ÂM CÁC DANH TỪ TRUNG HOA
TRONG BÀI CỦA MICHAEL SASO RA DANH TỪ HÁN VIỆT
Chai:
齋
Trai
Chang:
章
Chương
Chang Chou:
漳
州
Chương Châu
Chang San Feng:
張
三
丰
Trương Tam Phong
Cheng:
正
Chính
Cheng Chiao:
正
醮
Chính Tiếu
Cheng I:
正
一
Chính Nhất
Cheng-i Fa-wen Shih-lu Chao-yi:
正一
法
文
十
籙
召
儀
Chính Nhất Pháp văn Thập lục Triệu nghi
Cheng i T’zu tan:
正
一
祀
壇
Chính Nhất Tự Đàn
Ch’eng wen:
成
文
Thành Văn
Ch’i p’in:
七
品
Thất phẩm
Ch’i men Tun chia:
奇
門
遁
甲
Kỳ môn độn giáp
Chiao:
醮
Tiếu
Ch’i pai:
啟
白
Khải bạch
Chin t’an:
禁
壇
Cấm đàn
Chin Yun Chung:
金
允
中
Kim Doãn Trung
Ching:
經
Kinh
Ch’uan Chen:
全
真
Toàn Chân
Ch’uan Chou:
泉
州
Tuyền Châu
Chung ch’eng Fa wei:
重
稱
法
位
Trùng xưng pháp vị
Fa lu:
發
爐
Phát Lô
Fa shih:
法
師
Pháp sư
Fang chung:
房
中
Phòng trung
Feng shui:
風
水
Phong thủy
Heavenly master sect:
天
師
派
Thiên sư phái
Hsiao fa:
小
法
Tiểu pháp
Hsieh:
邪
Tà
Hsuan t’ien Shang ti:
玄
天
上
帝
Huyền Thiên Thượng đế
Ho tu:
河
圖
Hà Đồ
Hu pei:
湖
北
Hồ Bắc
Hua shan:
華
山
Hoa Sơn
Huo chü:
火
居
Hỏa cư
Jen tan:
遶
壇
Nhiễu đàn
Jen shu:
忍
術
Nhẫn thuật
Ju i:
入
意
Nhập ý
Kiang si:
江
西
Giang Tây
K’o i:
科
儀
Khoa nghi
Kuan:
關
Quan
Ling pao sect:
靈
寶
派
Linh Bảo phái
Liu p’in:
六
品
Lục phẩm
Lo shu:
洛
書
Lạc thư
Lu shan
盧
山
/ Lü shan閭
山:
Lư Sơn
Lord Lao sect:
老
君
派
Lão Quân phái
Lu Hsiu Ching:
陸
修
靜
Lục Tu Tĩnh
Lu T’ai Ku:
呂
太
古
Lã Thái Cổ
Mao Shan:
茅
山
Mao Sơn
Mi chüeh:
秘
訣
Bí quyết
Ninjitsu:
忍
術
Nhẫn thuật
Okinawa:
沖
繩
Xung Thằng
Piao:
表
Biểu
Pei chi:
北
極
Bắc Cực
Pu hsu:
步
虛
Bộ hư
Registers:
籙
Lục
San wu tu kung:
三
五
都
功
Tam Ngũ Đô Công
Shang Ch’ing:
上
清
Thượng Thanh
Shang Ch’ing Ling Pao Ta Fa:
上
清
靈
寶
大
法
Thượng Thanh Linh Bảo Đại Pháp
Shen Hsiao:
神
霄
Thần Tiêu
Shingon:
真
言
Chân Ngôn
Shu wen:
疏
文
Sớ Văn
Ssu p’in:
四
品
Tứ phẩm
Su ch’i:
宿
啟
Túc khải
Ta Tung Chen Ching:
大
洞
真
經
Đại Đỗng Chân Kinh
T’ai chi:
太
極
Thái Cực
T’ai chi ch’uan:
太
極
拳
Thái Cực Quyền
T’ai Shang Cheng I Meng Wei Fa Lu:
太
上
正
一
命
威
法
籙
Thái Thượng Chính Nhất Mệnh Uy Pháp Lục
T’ai Shang Pei chi Fu muo Shen chou Sha Kuei Lu:
太
上
北
極
伏
魔
神
咒
殺 鬼
籙
Thái Thượng Bắc Cực Phục Ma Thần chú Sát quỷ lục
T’ai Shang Ch’ih Wen Tung Shen San Lu:
太
上
赤
文
洞
神
三
籙
Thái Thượng Xích Văn Đỗng Thần Tam Lục
T’ai Shang San Wu Cheng I Meng Wei Lu:
太
上
三
五
正
一
盟
威
籙
Thái Thượng Tam Ngũ Chính Nhất Minh Uy Lục
Taipei:
台
北
Đài Bắc
Taiwan:
台
灣
Đài Loan
T’an:
壇
Đàn
Tao Fa Huei Yuan:
道
法
會
元
Đạo Pháp Hội Nguyên
Tao Hung Ching:
陶
弘
景
Đào Hoằng Cảnh
Tao Men T’ung Chia Pi Yung Chi:
道
門
通
教
必
用
集
Đạo Môn Thông Giáo Tất Dụng Tập
Tieh:
牒
Điệp
T’ien T’ai:
天
台
Thiên Thai
Tsao Chiao:
早
朝
Tảo Chiêu
Ts’un nien ju fa:
存
念
如
法
Tồn niệm như pháp
Tu chiang:
都
講
Đô giảng
Wei I:
威
儀
Uy nghi
Wen chien:
文
檢
Văn Kiểm
Wu hsing lieh chao:
五
星
列
照
Ngũ tinh liệt chiếu
Wu lei pai:
五
雷
牌
Ngũ Lôi bài
Wu p’in:
五
品
Ngũ phẩm
Wu shang Huang lu Ta chai li Ch’eng yi:
無
上
黃
籙 大
齋
立
成
儀
Vô thượng Hoàng lục Đại trai lập thành nghi
Wu shang Pi yao:
無
上
必
要
Vô thượng tất yếu
Wu shang san t’ien Hsuan Yuan Shih San Ch’i:
無
上
三
天
玄
元
始
三
氣
Vô thượng Tam Thiên Huyền Nguyên Thủy Tam Khí
Yellow Court Canon:
黃
庭
經
Huỳnh Đình kinh
Yin Yang:
陰
陽
Âm Dương
Yü Chüeh:
玉
訣
Ngọc Quyết
Yü pu:
禹
步
Vũ bộ
Yü Ching:
玉
經
Ngọc Kinh
CHÚ
THÍCH
LÝ KIỆT chia Đạo tạng thành 12 tiểu mục sau
đây:
1) Bản văn (Les textes fondamentaux). 2) Thần
phù (Les formules efficaces). 3) Ngọc quyết (Les commentaires et
amplifications.). 4) Linh phù (Les graphies efficaces, diagrammes, dessins).
5) Phả lục (Histoires et traditions). 6) Giới luật (Morale et ascétisme). 7)
Uy nghi (rits). 8) Phương pháp (pratiques, manipulations). 9) Chúng thuật
(diététique, alchimie, astres, nombres, etc.). 10) Ký truyện (mythologie,
légendes). 11) Tán tụng (liturgie, hymnes, adresses). 12) Biểu tấu
(documents, pétitions aux empereurs, édits reçus d’eux, etc.) Xem Ký Kiệt,
Trịnh Vĩnh Tường, Mạnh Chí Tài, Đạo tạng mục lục tường chú, năm Đạo Quang
thứ 35 (1845).
TRỊNH TIỀU (thế kỷ 12) đã chia Đạo Tạng thành 25 tiểu mục sau đây:
1) Lão Tử. 2) Trang tử. 3) Chư tử. 4) Âm phù
kinh. 5) Huỳnh đình. 6) Tham đồng khế. 7) Mục lục (les catalogues). 8)
Truyện (les légendes). 9) Ký (les histoires). 10) Luận (les dissertations).
11) Thư (les graphies). 12) Kinh (les textes). 13) Khoa nghi (Displines et
rits). 14) Phù lục (formules et talismans). 15) Thổ nạp (Aérothéraphie,
photothérapie). 16) Thai tức (Entretien du Principe vital). 17) Nội quan
(Soin particulier). 18) Đạo dẫn (Massage). 19) Tịch cốc (abstinence). 20)
Nội đan (Cures morales). 21) Ngoại đan (cures chimiques). 22) Kim thạch dược
(médecine et pharmacie). 23) Phục thực (diète des candidats à
l’immortalité). 24) Phòng trung (Hygiène sexuelle). 25) Tu dưỡng (Hygiène
physique et morale)
Xem Léon Wieger, Taoisme, Tome I, Bibliographie générale, p.24.
|