TU HÀNH LÀ GÌ?
&
DỮ THIÊN ĐỒNG ĐỨC tức
PHỐI THIÊN
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Muốn trả lời câu này, chúng ta cần biết
mình và biết mình là ai. Tu là gì và Tu để làm gì. Chúng ta cần phải
thấu triệt các vấn đề này.
Trước hết ta là ai?
Ít người biết trong ta có hai thứ con
người:
a. Con người phàm phu, nhem nhuốc vì hồng
trần đã làm cho ta nhơ bẩn.
b. Con người lý tưởng, nấp ngay sau bộ mặt
hóa trang bên ngoài.
Con người lý tưởng này hoàn thiện và linh
diệu. Phật giáo gọi đó là Bản Lai Diện Mục
(bộ mặt thật của chúng ta). Con người lý tưởng này
chính là Trời, là Tiên, Phật, Thánh trong ta. Nó chính là Bản Thể của
ta.
Tuy nhiên các đạo giáo
quan niệm khác nhau về vấn đề này:
Công giáo:
Ngoại trừ những người theo môn phái Giác Ngộ (Gnosticism hay Mysticism)
thì cho rằng Trời là Trời, Người là người. Trời ở trên Trời, còn Người
và Tạo Vật quần sinh thì ở dưới đất và do Trời tạo ra. Hai đằng có một
vực sâu ngăn cách, nên Con Người chỉ có thể thờ Trời, yêu kính Trời,
hưởng Thiên Nhan Trời chứ không bao giờ kết hợp được với Trời.
Còn Hiền Thánh khắp nơi trong hoàn võ và
nhất là Hiền Thánh Á Đông thì nhất nhất đều tin rằng Trời chính là Bản
Thể con người, và con người có thể sống kết hợp với Trời mà họ gọi đó là
Đạo Phối Thiên, là Đạo Huyền Đồng. Như vậy
Trời chính là Tinh Hoa con người, và đã ngự ngay
trong lòng sâu con người.
Chính vì thế mà Cao Đài mới nói:
Thày Ngự trong lòng mỗi chúng sinh.
Bà La Môn nói: Thượng Đế ở trong mọi
vật thụ sinh, và điều khiển vạn vật từ bên trong.
... Ta
không cần phải ngửa mặt lên Trời mà tìm Trời. Ngài đã ở trong ta.
(Sđd, tr. 56). Yoga là một môn phái chuyên luyện tập xác, hồn để tìm
cho ra bản thể siêu vi của con người, đó chính là đấng Tối Cao.
Đại học gọi Trời là Nhất, và xin mọi
người; Dừng chân nơi Hoàn Thiện, mà họ gọi là Chỉ ư chí Thiện
止
於
至
善,
là Chỉ Nhất 止
一
: Ngừng nơi chữ Nhất. Mà chữ Chính
正
là Chỉ Nhất 止
一
.
Như vậy khi chưa tu, thì
ta có hai lòng: Lòng Trời, Lòng người.
Lòng của Trời siêu vi
huyền ảo,
Lòng con người điên
đảo, ngả nghiêng.
Tinh ròng chuyên Nhất
ngày đêm,
Ra công ra sức giữ
nguyên lòng Trời.
Nhân Tâm duy nguy,
Đạo Tâm duy vi,
Duy tinh, duy Nhất,
Doãn chấp quyết
Trung.
Còn Tu là dẹp bỏ
lòng người mà giữ nguyên lấy lòng Trời.
Công giáo gọi Con Người chưa tu (lòng
người) là Con Người Cuõ, và Con người tu luyện (lòng Trời) là Con Người
mới (Rom. 6, 6; Ephes 4, 22; Colos 2, 9.- Ephes 4, 24; Colos 3, 10 ), và
gọi Con Đường Tu là Cửa Hẹp (Mat 7, 14; 7, 18; Luc 13, 24)
Nho Giáo cũng cho rằng con người phải cắt,
đánh, rũa, mài mới nên đẹp đẽ được.
Kinh Thi viết:
Kìa xem bên nẻo sông
Kỳ,
Tre non mới mọc xanh rì
vườn ai,
Người đâu văn vẻ hỡi
người,
Như cắt, như xén, rũa,
mài bấy nay.
Lẫm liệt thay, rực rỡ
thay,
Hỡi người quân tử biết
ngày nào quên.[4]
Cao Đài dạy Tu là dẹp bỏ Phàm Tâm:
Các trẻ muốn gặp Thày
cũng dễ,
Dẹp «Phàm Tâm» đừng để
dây dưa.
Thiệt hư, quấy phải
ngăn ngưà,
Tham, sân, ái, ố ráng
chừa cho xa.
Nho gia cho rằng Thiên Lý hay Thiên Tâm
thời quang minh chính đại. Nhân dục hay Nhân Tâm thời Tư Tà. Bao giờ
cũng phải sống cho Quang Minh Chính Đại, nếu để Nhân Dục thắng, thì
Thiên Lý sẽ vong. Nhân dục có tận, thì Thiên Lý mới hiện.
Lúc nào cũng phải:
Minh kính, chỉ thủy dĩ
tồn tâm,
Thái Sơn, kiều nhạc dĩ
lập thân.
Thanh thiên, bạch nhật
dĩ ứng sự,
Thanh phong, minh
nguyệt dĩ đãi nhân.
Tâm như gương sáng,
nước trong.
Thân như non Thái phong
long cao vời.
Thanh thiên bạch nhật
đối đời,
Thanh phong, minh
nguyệt với người ở ăn.
Như vậy là phải luôn dẹp trừ tạp niệm,
loạn niệm. Đạo Lão và Kinh Dịch gọi thế là
Mộc Dục là Tẩy Tâm để giữ cho lòng luôn
trong sáng.Dĩ nhiên cũng còn là phải Từ, Bi, Hỉ, Xả, thương người như
mình.
Nho gia luôn luôn dạy con người phải Xét
Mình:
Tăng Tử viết: «Ta một ngày xét mình ba
lần.» (Ngô nhật tam tỉnh ngô thân. -
Luận
Ngữ, 1, 4)
Nếu xét mình mà không có gì đáng trách,
thì không có gì đáng sợ. (Luận
Ngữ, XII, 4)
Như vậy muốn tu sửa Con Người ta đã có sẵn
khuôn mẫu ở ngay trong con người.
Trung Dung viết:
Đẽo cán rìu, có liền
bên cán mẫu,
Trông lại nhìn cố đấu
cho in.
Ngắm đi ngắm lại liền
liền,
Đẽo lui đẽo tới, mắt
xem chưa vừa,
Nên quân tử khi lo giáo
hóa,
Sưả trị người, sẵn có
khuôn người.
Thấy người giác ngộ thì
thôi,
Đã chiều cải hóa
liệu bài ta ngưng.
Tôi yêu đạo Nho vì nó dạy tu thân rất là
hay, mà Tu Thân theo Nho Gia là Tu Đạo Trời.
Đạo thánh nhân to sao,
to lớn quá,
Nó mênh mang biến hóa
chúng nhân,
Nó cao, cao vút tới
trời thẳm muôn tầm,
Nó rộng, rộng bát ngát
khôn tả xiết.
Gồm thâu mọi điều lễ
nghi, chi tiết,
Bao uy nghi quán triệt
hết chẳng trừ,
Đợi thánh nhân Trời mới
phú thác cho,
Không Đức cả, Trời
không ngưng Đạo cả.
Nên quân tử dốc một
lòng một dạ,
Trọng Tính Trời, quyết
gắn bó học hành,
Tiến sao cho đến mức
rộng rãi tinh anh,
Mức cao sáng của Trung
Dung Đạo cả.
Ôn điều cũ, học thêm
điều mới lạ,
Chuộng lễ nghĩa, sống
đời sống nết na,
Ở ngôi cao, không có
thói kiêu xa,
Ở cấp dưới không làm
điều trái nghịch.
Nước có Đạo, chỉ một
lời làm tiến ích,
Nước đảo điên: lặng lẽ
đủ dung thân.
Thơ rằng: Khôn lại còn
ngoan,
Khôn ngoan nên
mới bảo toàn tấm thân.
Nhưng mà chương Trung Dung hay nhất chính
là chương XX, mà tôi dịch như sau:
Hoàn toàn là Đạo của
Trời,
Trở nên hoàn thiện đạo
người xưa nay.
Người hoàn thiện cất
tay là trúng,
Chẳng cần suy cũng đúng
chẳng sai.
Thung Dung Trung Đạo
tháng ngày,
Ấy là vị thánh, từ ngay
lọt lòng.
*
Còn những kẻ cố công
nên thánh,
Gặp điều lành phải mạnh
tay co,
Ra công học hỏi thăm
dò,
Học cho uyên bác, hỏi
cho tận tường.
Đắn đo suy nghĩ kỹ
càng,
Biện minh thấu triệt,
quyết mang thi hành.
Đã định học, chưa thành
chưa bỏ,
Đã hỏi han, chưa tỏ
chưa thôi,
Đã suy, suy hết khúc
nhôi,
Chưa ra manh mối chưa
rời xét suy.
Biện luận mãi tới khi
vỡ lẽ,
Chưa rõ ràng, không thể
bỏ qua.
Đã làm làm tới tinh
hoa,
Tinh hoa chưa đạt, việc
ta còn làm.
Người 1 chuyến thâu
toàn thắng lợi,
Ta tốn công dở dói trăm
khoanh.
Người làm 10 bận đã
thành,
Ta làm nghìn thứ ta
ganh với người.
Đường lối ấy nếu ai
theo được,
Dẫu u mê, sau trước sẽ
thông,
Dẫu rằng mềm yếu như
không,
Sớm chày, cũng sẽ ra
lòng sắt son.
Cái hay của Trung Dung là một khi đã đi
vào con đường tu luyện, thì không bao giờ được bỏ nửa chừng (Trung Dung,
XI), mà phải bền chí cho tới chết mới thôi. (Luận
Ngữ,VIII, 8)
Như vậy tu luyện đòi hỏi sự bền chí.
Nó cũng đòi hỏi sự quyết tâm, sự thành ý.
Người tu luyện lúc nào cũng phải bắt chước con chim khi ấp trứng, phải
chuyên chú vào công việc của mình.
Không có quyết tâm, thành ý, không bao giờ
nên công.
Ngươì xưa nói:
Tinh thành sở chí kim thạch vi khai.
Lòng mình mà tinh thành, thì vàng đá sẽ mở
ra.
Phúc Âm nói: Hãy xin thì sẽ được, hãy
tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở ra. (Matth 7, 7, Luc 11, 9, Marc
XI, 24)
Thế là mới đầu thì có: Nhân tâm, Đạo
Tâm, cuối cùng chỉ còn Đạo Tâm, thế là: Advaita, thế là Bất Nhị
Pháp Môn, thế là Tâm tử Thần Hoạt, thế là Doãn Chấp Quyết Trung (Giữ
nguyên lòng Trời của Nho Giáo).
Đây tôi không luận Tu Hành theo lối thông
thường, là mỗi ngày để ra mấy tiếng để hít thở để tĩnh tọa công phu.
Công trình chúng ta là thành
Trời, thành Đạo, là dữ Thiên hợp Nhất, là Phối
Thiên.
Tôi viết Phối Thiên nghĩa là con người sẽ
được sống phối kết với Trời, như Trời. Tôi thấy cần phải nói rõ hơn về
vấn đề này để tránh mọi nhận định sai lầm.
Khi tôi viết xong bài này, ngẫu nhiên tôi
đọc bức thư sau đây của thi hào Rabindranath Tagore (1861-1941) trả lời
cho một độc giả người Anh hỏi về tôn giáo.
Ông viết:
Thưa bà.
Tôi rất cảm ơn vì nhận
được quí thư. Xin phúc đáp để bà rõ tôi không thuộc giáo phái nào và
cũng chẳng nghiêng theo đức tin nào cả. Điều tôi biết là lúc sinh ra
tôi, Đấng tối cao đã biến mình thành tôi rồi. Người vẫn hằng tiếp tục
triển khai, qua tôi luyện trong cuộc sống, và luôn luôn nâng niu con
người tôi với sinh lực khác nhau cùng vẻ đẹp chuyển biến trong thế giới
chung quanh. Sự kiện tôi hiện hữu đã mang cho nó tình yêu vĩnh cửu, thưa
bà. Kính chào bà.
Thật là ngắn gọn, thật là tự nhiên, thật
là hào hùng. Như vậy Ông đã công nhận mình là Hiện Thân của Thượng Đế.
Trong thế giới xưa
nay, nhiều người đã cho mình là hiện thân Thượng Đế: như chúa
Giêsu, như Al-Hallag, như Abu- Zazid, như Jalalu’d Din, như Eckhart
v.v...
- Chúa Giêsu nói: Ta và Cha ta là một.
(John 10 30)
- Al-Hallag (ob. 922) viết:
Ta cùng với đấng ta yêu,
Hai đằng là một, khôn chiều qua phân,
Một thân mà có 2 Thần,
Thấy ta, thấy Chúa cũng ngần ấy thôi.
(Je suis Celui que j’aime, et celui que
j’aime est moi.
Nous sommes 2 esprits infus en 1 seul
corps.
Si tu me vois, tu le vois; et si tu le
vois, tu me vois. (Le Divin d’AL-Hallag, éd. Massignon, M. 57; Marijan
Molé, Les mystiques musulmans, p. 70.)
- Abu-Zazid viết: «Một hôm Thượng Đế đem
tôi lên đặt trước mặt ngài mà phán: Hỡi Abu-Zazid, tạo vật, Ta muốn thấy
Con... Tôi liền thưa: Xin Chúa trang điểm cho Con bằng sự duy nhất Chúa;
xin hãy mặc cho con cá tính Chúa. Xin hãy nâng con lên cho tới sự hợp
nhất với Chúa, để hễ thấy Con, tạo vật sẽ nói: Ta đã thấy Chúa... Và đó
là Chúa mà chẳng còn có ta nữa.»
- Jalalu’d Din có thơ:
Hồn Ta, hồn Chúa tuy
hai,
Như Nước và Rượu hòa
hài khó phân.
Nước kia rượu ấy hợp
quần,
Chúa tôi nên một, ai
phân, ai rời.
Chuá là Đại Ngã của
tôi,
Bao dây rợ nhỏ khôn bài
buộc tôi.
«Cái tôi», Chúa đã lấy
rồi,
Thế thì Chúa chính là
tôi còn gì?
Chúa- tôi cho thấy điều
chi?
Phải chăng tôi-Chúa
tương tri gót đầu?
Tình Ngài tôi bị đớn
đau,
Xuyên qua xương thịt,
móc sâu vào người.
Sáo- tôi Ngài để trên
đùi,
Tôi là Đàn, để ngực
Ngài dựa nương.
Thở đi, tôi sẽ phát
thanh,
Đàn đi, tôi sẽ long
lanh lệ trào.
(With Thy Sweet Soul,
this soul of mine,
Hath mixed as Water
doth with Wine.
Who can the Wine and
Water part,
Or Me and Thee when
combine?
Thou art become my
greater self;
Thou hast my being
taken on,
And shall not I now
take on Thine?
Me Thou for ever hast
affirmed,
That I may ever know
Thee mine.
Thy love has pierced me
through and through,
Its thrill with Bone
and Nerve entwine,
I rest a flute laid on
thy lip.
A lute, I on thy breat
recline,
Breathe deep in me,
that I may sigh,
Yet strike my strings,
and tears shall shine...)
- Meister Eckhart viết: «Người Biết và cái
Biết là một. Phàm nhân thì thấy Chúa như Chúa ngồi đây và họ ngồi đó.
Còn tôi với Chúa, chúng tôi là một, trong hiểu biết.» Hoặc: «Mắt mà tôi
nhìn Chúa cũng chính là mắt mà Ngài nhìn tôi.»
- Eckhart viết: «Chúa nói với mỗi linh
hồn: Ta đã làm người vì Con, nếu Con không thành Chúa vì ta, thì Con
chẳng tốt đối với ta.»
- Eckhart còn viết: «Nếu tôi biết Chúa
trực tiếp, thì nhất định tôi phải trở thành Ngài, và Ngài trở thành tôi.
Ngài và tôi trở nên một tôi.»
- Bà La Môn là đạo nói rõ nhất về Phối
Thiên.
Chandogya Upanishad dùng nhiều đoạn chỉ vẽ
cho chúng ta biết chúng ta là Thượng Đế. Tat
tvam Asi = Con là Cái Đó.
Phối Thiên là thoát Phàm Cách, Nhân Cách,
mặc lấy Thiên Cách. Huỳnh Đình Kinh chủ trương: Tâm có chết, thì Thần
mới sống.
- Upanishad cũng cho rằng Phàm tâm phải
được tẩy trừ sạch sẽ, thì Thiên Tâm mới hiện.
- Abu Yazid viết: «Tôi đã gặp Chúa toàn
năng trong giấc mộng, và hỏi Ngài: «Đường nào đưa tới Chúa», và ngài trả
lời tôi: «Hãy chút bỏ Ngã Chấp và hãy vươn lên.»
Lam Điền Lữ Thị viết: Từ người lên tới
Trời là Thượng Đạt (Tự Nhân nhi Thiên tắc thượng đạt.)
Tiên Nho cho rằng đi cho tận Nhân Đạo rồi
mới lên tới Thiên Đạo (Tận Nhân Đạo, tắc Thiên Đạo chí).
Lên tới Thiên Đạo là đạt đạo Trung Dung,
là Phối Thiên.
Tuy nhiên Phối Thiên là nói về phần Tâm
Tình, phần Tâm Linh.
Nho gia nói Phối Thiên là Dữ Thiên Đồng
Đức.
Chứ không một ai dám nói:
Mình là Trời trên mọi bình diện.
Thật ra Trời thông minh hơn ta muôn vàn,
quyền phép hơn ta muôn vàn, khéo léo hơn ta muôn vàn.
Trong một bức thư tôi viết cho Ông Phạm
Mạnh Lương ngày 4/13/95, tôi có viết như sau:
«Thực sự cho tới nay, chưa ai chứng
minh được có Thượng Đế và sự bất tử, nhưng nếu ta đi sâu vào tâm tư ta,
và suy tư về vũ trụ, ta sẽ thấy rằng vũ trụ này thật là lớp lang, tiết
tấu, có trật tự hẳn hoi, và tất cả những sinh vật quanh ta là những gì
hết sức kỳ bí. Con người dù giỏi giang mấy cũng chưa tạo ra được một con
muỗi hay một con ruồi.
Tôi nhìn vào tâm linh tôi, tôi thật xấu
hổ vì sự hiểu biết của tôi còn hết sức thô sơ, nông cạn, không có được
lấy một phần tỉ cái thông minh, trí tuệ của Trời Đất. Chẳng những thế,
lại còn thấy mình gần đất, xa trời, bị bệnh hoạn vây quanh, càng ngày
càng thấy những khả năng của mình suy giảm đi. Tôi thấy tôi thật
là một hạt muối sắp tan trong biển cả vô biên...»
Rồi tôi xét lại mình tôi, thấy thông minh
chẳng bằng ai, học hành chẳng bằng ai, đức độ chẳng bằng ai, thế mà tự
nhiên được trời đất thương tình, run rủi vào con đường đạo hạnh chân
chính, đó là đạo Phối Thiên.
Cách đây gần 50 năm nay, mà tôi đơn thương
độc mã, đi được vào con đường này, thật là một chuyện hi hữu.
Thoạt đầu tôi học đạo Khổng, nhưng lại được Trời chỉ vẽ cho biết con
người gồm đủ Tam Tài: Thiên, Nhân, Địa, và gồm đủ Vật Đạo, Nhân Đạo,
Thiên Đạo. Và từ đó tôi thấy rất là mãnh liệt rằng con người sinh ra,
theo Nhân Đạo không, thì không đủ.
Vì con người có Thần, nên còn phải thành
Thần nữa. Mà làm thế nào để thành Thần.
Thưa là phải Phối Thiên.
Tôi gặp mấy chữ: Cao
minh Phối Thiên trong Trung Dung, nơi chương 26 và 31, sau đó tôi
gặp câu Thị vị Phối Thiên cổ chi cực trong
Đạo Đức Kinh ch. 68, và 2 chữ Phối Thiên
nhiều nơi trong Trang Tử, ví dụ nơi Chương 12, Thiên Địa, tiết E (Les
Pères du Systène Taoiste, Tchuang Tzeu, 12, p. 297).
Tôi mới suy rằng nếu mà Tam Giáo Đồng
Nguyên, thì chữ Nirvana phải có nghĩa là Phối Thiên, là Niết Bàn.
Sau đó, tôi mượn được 1 cuốn sách của
Nathan Soderblom, nhan đề là La Vie Future d’après
le Mazdéisme (Paris Ernest Leroux Éditeurs, 28 Rue Bonaparte,
1901, p. 363). Sách này giải thích Nirvana là Phối
Thiên.
Le Nirvana avait fait partie d’une
Brahmavidya, đ’une métaphysique de Brahman, avant de faire partie de
l’agnosticisme religieux bouddhique.
Le Nirvana avait signifié l’union avec le
Brahman, Tat Tvam Asi «tu es cela», avant đ’être prêché par Gautama
comme une délivrance pure et simple, sans but positif, sans
préoccupation métaphysique, dans une religion uniquement occupée du
salut religieux au sens négatif. – Sđd., tr. 363.
Le Brahman, l’être infini, éternel,
inébranlable, est atteint dans le Nirvana. Être Brahman, arriver au
Nirvana, veut dire posséder la paix suprême dans cette vie et après la
mort. – Sđd., tr. 363.
Cách đó vài tháng tôi gặp một Thiếu Tá Ấn
Độ làm trong Ủy Ban Đình Chiến. Tôi hỏi: Nirvana trong tiếng Ấn Độ nghĩa
là gì? Ông lập tức trả lời: Union with God (Phối
Thiên).
Có điều đặc biệt là khi Cưu Ma La Thập
(Kumarajiva; dịch kinh Phật tại Trường An từ năm 401 đến 412, đời Đông
Tấn), đã mượn hai chữ Nê Hoàn của Đạo Lão để dịch chữ Nirvana. Mà Nê
Hoàn chính là Tổ Khiếu, là Đạo trong ta. Tôi đã
xác định Nê Hoàn là Não Thất Ba, là Trời trong ta, theo Bà La Môn.
Thế là tôi nắm được khẩu quyết:
Sống phối hợp với Trời là đắc Đạo. Từ đó
tôi đi vào các đạo giáo như chơi. Sáng tôi học Đạo Khổng. Trưa đem Đạo
Đức Kinh ra dịch mà lại dịch bằng thơ, rất dễ dàng.
- Tôi đã để ra khoảng hơn 10 năm để học
Nho giáo, học Kinh Dịch, học Khổng tử (551-481 tr. C.N.), Mạnh Tử
(372-288 tr. C.N.), Đổng trọng Thư (thời Tây Hán), Trương Tái (Trương
Hoành Cừ 1020-1076), Thiệu Tử (1011-1077), Chu Liêm Khê (1017-1073),
Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107), Chu Hi (1130-1200), Lục
Tượng Sơn (1139-1192) Vương Dương Minh (1472-1528) v.v...
- Tôi may mắn được các vị Cao Đài ở Đà
Nẵng đem cho tôi mượn khoảng 100 quyển trong bộ Đạo Tạng dạy về Lão
giáo. Nhờ đó mà tôi nắm được Đạo Lão và từ từ biết các cao nhân, danh
phái Đạo Lão.
Tôi biết Lão Tử (Thế kỷ VI trước C.N.),
Trang tử (khoảng330 trướcC.N.), Liệt tử (Cuối thế kỷ IV trước C.N.),
biết Hán Chung Ly, Lữ Động Tân (798-), biết Nam
Tông với Lưu Thao (khoảng 911), Trương Bá Đoan (984-1082)
v.v..., biết Bắc Tông với Vương Trùng Dương
(1112-1170) và 7 đệ tử, Khưu Xử Cơ (1148-1227), Lưu Xử Huyền, Đàm Xử
Đoan (1123-1185), Mã Ngọc (1123-1183), Hác Đại Thông (1140-1212), Vương
Xử Nhất (1142-1217), Tôn Bất Nhị (1119-1182), biết
Đông Phái với Lục Tiềm Hư (1520-1606), biết
Tây Phái với Lý Hàm Hư, Trung Phái
với Lý Đạo Thuần v.v...
- Sau đó tôi sang Bà La Môn. Tôi có dịp
đọc các bộ Thánh Thư Ấn Giáo như Rig-Veda, như Upanishads, và được đọc
đời sống các vị Thánh như Shankara, hay Shankaracharya (Cuối thế kỷ thứ
VIII), Ramakhrisna (1636-86), và đại đệ tử của Ông là Vivekananda
(1863-1902), và các vị khác như Sri Aurobindo (1872-1950, Tagore
(1861-1941), Gandhi (1869-1948), Sai Baba v.v... Tôi thấy Ấn giáo quả đã
đạt tới đỉnh cao trí tuệ loài người.
- Sau đó, tôi quay sang đọc các kinh
Phật, nhưng tôi chỉ chú tâm đến những đoạn liên quan đến tư tưởng của
tôi. Nhờ đó tôi học được nhiều về đời sống Đức Phật (khoảng 568 tr. C.N
- khoảng 463tr. C.N.) và các tổ Thiền như Bồ Đề Đạt Ma (528), Huệ Khả
(486-593), Tăng Xán (606), Hoằng Nhẫn (601-674), Huệ Năng (628-713)
v.v..
Không bao lâu, tôi cũng nắm được tinh hoa
các đạo giáo đó (Nho, Thích, Lão, Bà La Môn).
- Tôi quay sang khảo về Thiên Chúa Giáo,
Tin Lành, Chính Thống v.v... và tôi đã thấy Chúa
Giêsu,
thánh John, thánh Paul, là những vị thánh Phối Thiên. Tôi khảo
thêm về khoảng 100 nhà huyền học Công giáo khác cũng đã đi theo đường
lối này, và tôi đã tìm ra những khuôn mặt cự phách như Meister Eckhart
(khoảng 1260-1327) và các đệ tử xa gần của Ông như thánh Thomas Aquinas
(1226-1274), John Tauler (khoảng 1300-1361), Henri Suso (c. 1295-1363)
v.v... Bên Tây Ban Nha tôi đọc thánh John of the Cross (1542-1991) và bà
thánh Thérèse d’Avila (1515- 1582).
Phía Tin Lành tôi thấy có Jacob Boehme
(1575-1624), Emmanuel Swedenborg (1688-1772).
Chính Thống giáo có Giám mục Ignatius
Brianchaninov, Nicephorus the Solitary v.v...
- Tôi nghiên cứu Do Thái giáo và mật tông
Kaballah của Do Thái giáo. Tôi thấy Kabbalah rất cao siêu.
- Rồi tôi sang các Mật Tông như Tam Điểm
(Free-masonry) hoạt động vào khoảng 1717, Rose-crucians (Khoảng 1420),
Alchemy, và Hermetism.
- Sau đó tôi sang Hồi Giáo đọc Coran và
các môn phái Hồi Giáo. Tôi thấy môn phái Sufism có chủ trương Phối
Thiên.
- Tôi nghiên cứu Cao Đài hết sức hẳn hoi.
Tôi rất quí Cao Đài vì chủ trương Vạn Giáo Nhất Lý và Cao Minh Phối
Thiên.
Tóm lại,
tôi không đóng khung tôi trong một Tôn
Giáo nào, và bao giờ tôi cũng chỉ đi tìm Đạo Phối Thiên mà thôi.
Tuy tôi đọc nhiều và nhớ nhiều, nhưng thực
sự không vất vả vì những tư tưởng mà tôi đi tìm y như đã là của tôi tự
bao giờ.
Đức Khổng xưa đã dạy Tử Cống: «Ngươi cho
ta học nhiều mà biết, có phải không? Không phải. Ta đây chỉ học cái Một
mà suốt hết cái đó.»
Tôi nghĩ cái học sách vở không quan hệ vì
những bậc Đại Thánh như Ramakhrishna, như Huệ Năng, như Jacob Boehme hầu
như là thất học.
Tôi nhớ khi ở Đà Nẵng có một kỹ sư Trung
Hoa là Phương Dật Nguyên biếu tôi quyển Chu Dịch Xiển Chân ngày
6-1-1963, tôi đọc suốt đêm vì thấy có nhiều hình giống như tôi đã vẽ ra.
Tôi có trích dịch Bài Trung Đồ và viết vào Trung Dung Tân Khảo của tôi.
Tôi cảm ơn Trời đã hướng dẫn tôi trong mọi
bước tôi đi, đã run rủi cho tôi gặp nhiều duyên may, cho tôi biết những
điều cần biết, nên dù nay tôi bị tật nguyền tôi thấy nó không đáng gì,
so với những hồng ân mà tôi đã được.
Tôi thấy rằng chân đạo sao mà ít người
nhận ra thế. Họ đi tìm ngược, tìm xuôi, mà cái gì trước mắt thì bỏ qua.
Biết một chút cái gì, thì cho là mình đã nắm được chân lý nên không thèm
tìm tòi thêm điều gì nữa.
Thực ra đạo Trời hết sức giản dị, vì Lương
Tâm chính là Phật tính, là Thiên Tính là Chân Ngã, là cái gì Bất Biến.
Còn Vọng Tâm là cái gì biến thiên.
Bỏ biến thiên tìm về bất biến; bỏ bóng tối
tìm về ánh sáng; bỏ sự Chết tìm về sự Sống; bỏ Giả tìm Chân, đều là
chuyện hợp lý, chuyện có thể làm được.
Và lời hứa Phối Thiên là Niết Bàn là hạnh
phúc trường cưủ cũng không phải là cái gì viển vông, vô nghĩa.
Lục
Tượng Sơn viết: «Mạnh Tử bảo: «Không nghĩ mà biết là lương tri, không
học mà giỏi là lương năng, ấy là cái Trời phú dữ cho ta, ta vốn có rồi,
không phải do ở ngoài đúc ra cho ta vậy. Cho nên nói rằng: Vạn vật đều
đủ ở ta, ta trở lại thân ta, mà thành thực, thì không có cái vui nào lớn
hơn vậy.» Đó là cái bản tâm của ta vậy. Cái gọi là an trạch, là chính
lộ, là cái ấy; cái gọi là quảng cư, chính vị, Đại Đạo là cái ấy. Cổ nhân
tự đắc cái ấy, cho nên có cái chân thực, nói lý là thực lý, nói sự là
thực sự, đức là thực đức, hạnh là thực hạnh.»
Lão tử
viết trong Đạo Đức Kinh, chương 70:
Lời ta dễ biết, dễ làm,
Nhưng mà thiên hạ chẳng
am, chẳng tường.
Lời ta nói có chủ
trương,
Việc ta vốn có lối
đường chốt then.
Nhưng mà tục tử ngu
hèn,
Hiểu ta chẳng nổi, nên
xem thường tình.
Hiểu ta mấy bực tinh
anh,
Ít người hiểu nổi, nên
danh càng lừng.
Xưa nay những bậc thánh
nhân,
Ngọc tàng dưới lớp áo
quần xác xơ.
Tông Bổn
Thiền Sư, trong quyển Qui Nguyên Trực Chỉ, bài 49, Đỗ Thiếu Lăng
dịch, tr. 240 và 252, tóm tắt cách tu Đạo Phật như sau:
«Tu Phật không cần học nhiều, chỉ cần biết niệm Di
Đà, biết nội quan quán chiếu, để tìm ra Bản Lai Diện mục của mình, và
biết đâu là Nê Hoàn thì sẽ biết căn do sinh tử là tại đó.»
Bài
kệ nguyên văn như sau:
Tây phương bất dụng học
đa đoan,
Nhất cú Di Đà tại phản
quan.
Kiến đắc Bản Lai Chân
Diện Mục,
Thủy tri sinh tử tại Nê
Hoàn.
Tây phương chẳng buộc
học cho nhiều,
Một nịêm Di Đà xét sớm
chiều,
Thấy được buổi xưa mày
mắt thiệt,
Mới hay sống chết ấy Nê
Hoàn.
Mới hay:
Chí đạo đừng tìm trong
biến hóa,
Lẽ Trời đừng kiếm chỗ
tần phiền.
(Chí đạo bất kỳ ư biến
hoá,
Giản dị nhi Thiên Địa
chi lý đắc.)
Dịch
Kinh, Hệ Từ hạ, chương I, viết:
Càn Khôn dễ biết, dễ
làm,
Dị nên dễ biết, giản
càng dễ theo.
Dễ hay, nên sẽ dễ yêu,
Dễ theo, nên sẽ chắt
chiu thi hành.
Có yêu, trường cưủ mới
sinh,
Có làm mới có công
trình lớn lao.
Hiền Nhân đức cốt bền
lâu,
Hiền Nhân, sự nghiệp cơ
mầu lớn lao,
Lẽ Trời giản dị xiết
bao,
(Tìm trong phiền toái
thấy sao lẽ Trời),
(Lẽ Trời giản dị thấy
rồi,)
Ngôi Trời cao cả tức
thời hiện ra.
Kinh Thi viết:
Thiên chi dũ dân,
Như Huân như Trì,
Nhu Chương, như Khuê,
Như thủ như huề,
Huề vô viết ích,
Dũ dân khổng dịch.
Trời xanh dẫn dắt chúng
nhân,
Như là tấu khúc nhạc
Huân, nhạc Trì.
Trời Người đôi ngọc
chương khuê,
Bên cho bên lấy đề huề
biết bao.
Tay cầm, tay dắt, khéo
sao,
Trời xanh dẫn dắt
dân nào khó chi.
CAO ĐÀI CŨNG CHO RẰNG: TU TRÌ LÀ TÌM LẠI
ĐƯỢC BẢN THÂN
Đức Chí Tôn có dạy rằng: «Lập một nước còn
dễ hơn Thầy lập đạo kỳ Ba này. vì Đạo kỳ Ba này chỉ dùng huyền diệu cơ
bút chọn nhân
sinh, giao phận sự thế Thiên hành hóa, vì
nhân sinh
tức là
Thày đó
vậy.» (Đàn cơ Văn Tuyên Khổng Thánh)
Tôi đã để ngót 60 năm tìm hiểu so sánh đạo
trời nhưng chưa thấy đạo nào mà lại coi trọng tín đồ, mà lại đối đãi với
giáo dân như với chính mình bằng đạo Cao Đài.
Đàn cơ Lấy Tĩnh chế Động, Minh Lý Thánh
Hội, 2- 4 Kỷ Dậu(15- 7- 1969) viết: «Chư hiền sĩ,
hiền muội, Trời là Đại Thiên Địa, con người cũng như tất cả chúng sinh
là Tiểu Thiên Địa. Trời đã có những gì, trong vạn vật vẫn có những vật
ấy. Chỉ khác nhau là ở chỗ lớn bé trên hình thức hoặc biến dịch không
ngừng, khi bày khi ẩn vậy thôi. Thế nên Thượng Đế hằng nói: Thày là các
Con, các con là Thày. Tất cả chúng sinh sẽ thành Phật, đồng trở về hợp
nhất cùng khối Đại Linh Quang, chẳng qua là sự tiến hóa mau chậm mà
thôi.»
Một trường hợp khác, đời thường nói hai
chữ «thiên hạ» ám chỉ con người. Thiên thượng là Trời. Thiên hạ là
người. Vậy người cũng có đủ điều kiện làm Trời.
Phương pháp tu
trì
Đời có hai mặt: Thanh trọc, trái phải,
động tĩnh. Tất cả đều theo lý Âm Dương mà ra.
Người tu biết đạo, Thiêng liêng thường
khuyên nên lấy Tĩnh chế động, lấy Thiện chế Ác, lấy Phải chế Trái,
Nên lấy Tĩnh chế động là nguồn gốc Tu Trì.
Cũng như Nước sông mới Gánh về thì Đục, đánh phèn hay để cho lắng lại sẽ
thành trong.
Tu trì được
chi phối bởi định luật Nhân Quả:
Nhân quả:
Nhân nào quả nấy lẽ xưa
nay
Nhân Trời, Tính Phật
hỏi sao đây:
Gieo chi được nấy, đành
là vậy,
Biết được muôn loài Cốt
không hai.
Trên mặt biến thiên
muôn hình trạng,
Dưới lòng vĩnh cửu một
Thể thôi.
Kiếp này nếu biết mình
là Phật,
Bao kiếp Luân hồi mới
như nay.
Tu Trì cũng được chi
phối bởi danh từ Hữu Vô.
Hữu Vô.
Tòng Vô nhập hữu, Hữu
tài thông
Hữu hữu, Vô vô xứ xứ
đồng.
Nhân Vô sinh Hữu sinh
biến hóa
Biến cùng Hóa tận, tái
hoàn không
Vủ trụ tuần hoàn, tư lý
đạt.
Tự thân minh liễu hiển
thần thông
Tri đắc biến thiên, tri
tạo hóa.
Tạo hóa ký tri Ngã thị
Ông.
Dịch:
Từ Không sinh Có, Có sẽ
thông
Hữu Hữu, Vô Vô khắp
chốn đồng.
Từ Vô sinh Hữu sinh
Biến Hóa
Biến Hóa sinh rồi trở
lại Không.
Vũõ trụ tuần hoàn mà
đạt lý,
Thân mình hiểu rõ, sẽ
thần thông,
Bíến thiên rõ lẽ, thông
Tạo Hóa,
Tạo Hóa thông rồi, ta
là Ông.
(Nguyễn Văn Thọ)
Suy ra, muốn tu trì cho đứng đắn Con người
cần biết rằng Mình vốn có Căn Trời, Cốt Phật từ muôn thủa.
Vì ta có Căn Trời Cốt Phật, nên Thượng Đế
mới nói: Thày là các Con, các Con là Thày.
Đàn cơ Lấy Tĩnh Chế Động viết: «Vì chư
hiền sĩ, hiền muội mỗi người đểu có phép nhiệm mầu vạn năng của Thượng
Đế đã chia phần từ khi mang thề xác vi nhân chốn hồng trần này, chỉ cần
lau chùi cho sạch lớp bụi vô minh thì phép màu sẽ hiện lên như lòng mong
muốn... Riêng chư hiền sĩ hiền muội hãy an lòng luôn luôn lấy tĩnh chế
động thì mọi động sẽ trở lại an tĩnh.»
Đạo LÃO gọi căn Trời, cốt Phật trong mình
là: Tính Mệnh, là Đạo Tâm.
Đạo Nho gọi căn Trời cốt Phật trong Mình
là Tính Mệnh, là Lương Tri.
Đạo Phật gọi Căn Trời Cốt Phật là Đại Ngã
là Phật Tính.
Nó vốn dĩ toàn hảo, nên Ba đạo biểu tượng
nó là Vòng Tròn Vô Cực. (Vòng tròn chỉ sự Viên Mãn.
Con người nếu biết rằng trong mình có sẵn
Đạo Tâm, Lương Tri, phật Tính, theo gương mẫu đó mà tu trì, thì sẽ thành
Tiên Phật.
Trung Dung chương 13 viết: «Phạt kha, Phạt
kha, kỳ tắc bất viễn.» : Đẽo cán rìu, có liền bên cán mẫu, Trông lại
nhìn cố đấu cho in, Ngắm đi, ngắm lại liền liền, Đẽo lui đẽo tới mắt xem
chưa vừa. Thì ra cán mẫu đã ở sẵn trong mình.
Vừa qua, tôi có được quyển Đại Thừa
Chân Giáo của Phái Chiếu Minh xuất bản năm Canh Dần (1950) có kèm
theo bản dịch tiếng Pháp. Sách dịch theo nghĩa bóng, rất là hay. Quyển
sách này, đã được Thiên Lý Bửu Tòa, in lại năm 2000. Sách này không
giống các sách Đại Thừa Chân Giáo khác, vì đi hẳn vào Đại Đạo
chân truyền, và dịch Đại Thừa Chân Giáo là Le Grand Cycle de
l’ésotérisme và chú thích thêm: Sur l’Ordre Divin, le grand Cycle
s’ouvre pour unir les âmes dans l’Âme Universelle (Dieu) (Đại thừa
Chân Giáo trang bìa sách). Tôi chuyên khảo về Ésotérisme (Mật tông)
nên đọc sách này rất thích thú.
Ví dụ 2 câu: Trung Dung noi đấy làm
gương,
Chỉ Minh Minh
Đức là phương siêu phàm (Đại thừa Chân giáo, tr.32- 33)
Mà dịch ý là: Amour et justice, Piété et
Fraternité, telle est la Destinée Humaine, Montrez à votre prochain
le Dieu que vous portez en vous, voilà le secret de l’Ascension thật
là thâu toát ý tưởng của Trung Dung của Đại Học và của Nho Giáo muôn
đời.
Đại Thừa Chân Giáo có mục đích dạy
người tìm lại Căn Nguyên, Cốt Cách của Con Người.
Đại Thừa Chân Giáo víết:
Chiếu sắc Đại Thừa qui
Bổn Tính
Minh truyền Chân Giáo
phục Linh Căn
Trong bài Tu hành là gì tôi cũng
chỉ vẽ cho Con Người con đường Qui Nguyên Phản Bản, tìm về Bản Tính Trời
trong con người mình. Tóm lại, tôi không đi ra ngoài Thánh Giáo.
CHÚ THÍCH
|