CHÍNH KHÍ CA  

Văn Thiên Tường

 

BẢN DỊCH CỦA BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỌ

LỜI TÒA SOẠN

Đời Nam Tống 南 宋 (Trung Hoa), một nghĩa sĩ là Văn Thiên Tường 文 天 祥 (1236-1282) bị quân Nguyên 元 bắt giam. Ông làm ra bài Chính Khí Ca 正 氣 歌 này để tán dương cái khí chính đại của các trung thần nghĩa sĩ.

Ở Việt Nam, sau khi thành Hà Nội bị mất về tay người Pháp (năm Nhâm Ngọ, 1882), một nhà thơ ái quốc là Nguyễn Văn Giai (tức Ba Giai) cũng mượn đề mục ấy sáng tác bài ca ngợi quan Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Đó là bài Chính Khí Ca Việt Nam.

Bài Chính Khí Ca Trung Hoa trước kia đã được cụ Phan Bội Châu dịch ra Việt văn để dùng làm lợi khí cổ vũ lòng yêu nước (xem Khổng Học Đăng, từ trang 792). Gần đây lại có bản dịch của ông Nguyễn Hiến Lê (xem Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc, quyển 3, tr. 61-63).

Nhưng người đầu tiên truyền bá tư tưởng Chính Khí ở Việt Nam chính là cụ Nguyễn Đình Chiểu (trong Ngư Tiều Vấn Đáp, từ câu 1350 đến câu 1375). Cụ đã quảng diễn tư tưởng của Văn Thiên Tường bằng tiếng mẹ đẻ: cụ là Văn Thiên Tường Việt Nam vậy.

Nay nhân số đặc biệt kỷ niệm cụ, Văn Đàn xin cống hiến độc giả một bản dịch mới Chính Khí Ca do Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ thực hiện, kèm cả bản phiên âm và nguyên văn chữ Hán của Văn Thiên Tường. Tưởng cũng là một việc làm thích hợp để tỏ lòng kính nhớ anh linh và cảm thông tư tưởng của cụ.

Tạp chí Văn Đàn

 -

Thiên địa hữu chính khí,

天 地 有 正 氣

Tạp nhiên phú lưu hình,

雜 然 賦 流 形

Hạ tắc vi hà nhạc,

下 則 為 河 嶽

Thượng tắc vi nhật tinh.

上 則 為 日 星

Ư nhân viết hạo nhiên.

於 人 曰 浩 然

Phái hồ tắc thương minh;

沛 乎 塞 蒼 冥

Hoàng lộ đương thanh di,

皇 露 當 清 夷

Hàm hòa thổ minh đình;

含 和 吐 明 庭

Thời cùng tiết nãi hiện,

時 窮 節 乃 見

Nhất nhất thùy đan thanh:

一 一 垂 丹 青

Tại Tề Thái Sử giản,

在 齊 太 史 簡

Tại Tấn Đổng Hồ bút;

在 晉 董 狐 筆

Tại Tần Trương Lương chùy,

在 秦 張 良 椎

Tại Hán Tô Vũ tiết.

在 漢 蘇 武 節

Vi Nghiêm tướng quân đầu,

為 嚴 將 軍 頭

Vi Kê Thị Trung huyết,

為 嵇 侍 中 血

Vi Trương Tuy Dương xỉ,

為 張 睢 陽 齒

Vi Nhan Thường Sơn thiệt.

為 顏 常 山 舌

Hoặc vi Liêu Đông mạo,

或 為 遼 東 帽

Thanh tháo lệ băng tuyết,

清 操 厲 冰 雪

Hoặc vi xuất sư biểu,

或 為 出 師 表

Quỷ thần khấp tráng liệt,

鬼 神 泣 壯 烈

Hoặc vi độ giang tiếp,

或 為 渡 江 楫

Khảng khái thôn Hồ Yết.

慷 慨 吞 胡 羯

Hoặc vi kích tặc hốt,

或 為 擊 賊 笏

Nghịch thụ đầu phá liệt.

逆 豎 頭 破 裂

Thị khí sở bàng bạc,

是 氣 所 磅 礡

Lẫm liệt vạn cổ tồn.

凜 冽 萬 古 存

Đương kỳ quán nhật nguyệt,

當 其 貫 日 月

Sinh tử an túc luận.

生 死 安 足 論

Địa duy lại dĩ lập,

地 維 賴 以 立  

Thiên trụ lại dĩ tôn.

天 柱 賴 以 尊

Tam cương thực hệ mệnh,

三 綱 實 繫 命

Đạo nghĩa vi chi căn.

道 義 為 之 根

Ta ! Dư cấu dương cửu,

嗟 予 遘 陽 九

Lệ dã thực bất lực;

隸 也 實 不 力

Sở tù anh kỳ quán.

所 囚 纓 其 冠

Truyền xa tống cùng bắc,

傳 車 送 窮 北

Đỉnh hoạch cam như di,

鼎 鑊 甘 如 飴

Cầu chi bất khả đắc;

求 之 不 可 得

Âm phòng khuých quỷ hỏa,

陰 房 闃 鬼 火

Xuân viện bí thiên hắc,

春 院 閟 天 黑

Ngưu ký đồng nhất tạo,

牛 驥 同 一 皂

Kê thê phụng hoàng thực;

雞 栖 鳳 凰 食

Nhất triêu mông vụ lộ,

一 朝 蒙 霧 露

Phận tác câu trung tích,

分 作 溝 中 瘠

Như thử tái hàn thử,

如 此 再 寒 暑

Bách lệ tự tịch dịch.

百 沴 自 辟 易

Ai tai ! Tự như trường,

哀 哉 沮 洳 場

Vi ngã an lạc quốc;

為 我 安 樂 國

Khởi hữu tha mậu xảo,

豈 有 他 繆 巧

Âm dương bất năng tặc;

陰 陽 不 能 賊

Cố thử cảnh cảnh tại.

顧 此 耿 耿 在

Ngưỡng thị phù vân bạch,

仰 視 浮 雲 白

Du du ngã tâm ưu,

悠 悠 我 心 憂

Thương thiên hạt hữu cực,

蒼 天 曷 有 極

Triết nhân nhật dĩ viễn,

哲 人 日 已 遠

Điển hình tại túc tích;

典 刑 在 夙 昔

Phong thiềm triển thư độc,

風 簷 展 書 讀

Cổ đạo chiếu nhan sắc.

古 道 照 顏 色

1.  Anh hoa chính khí đất trời

Khoác hình vật chất khắp nơi vẫy vùng.

Tràn mặt đất tuôn sông kết núi,

Vút trời mây chói lói trăng sao

5.  Trần ai lẩn bóng anh hào,

Muôn ngàn khí phách rạt rào tầng xanh.

Thuở non nước thanh bình khắp chốn,

Nét đan thanh chóng lộn bệ rồng.

Sơn hà gặp buổi lao lung,

10. Càng cao tiết ngọc, càng bừng vẻ son.

Tề Thái Sử mất còn mấy độ,

Thẻ tre kia há sợ gươm ai.[1]

Đổng Hồ múa bút mấy hồi,

Làm cho Tấn tặc tơi bời ruột gan.[2]

15. Trương Lương xót nỗi Hàn khói lửa,

Dùi đồng vung, nghiêng ngửa Tần vương.[3]

Ngọn cờ Tô Vũ phong sương,

Càng băng giá cảnh, càng hương sắc lòng.[4]

Đầu Nghiêm tướng dường đồng, dường thép,[5]

20. Máu Kê quân nhuốm hết long bào.[6]

Trương Tuần răng cứng cát sao,

Thành đồng đà nát, lòng đào khôn thay.[7]

Lưỡi Thường Sơn nào hay lắt léo,[8]

Mũ Quảng Minh che nẻo Liêu Đông.[9]

25. Xuất sư biểu ấy hào hùng,

Ngọc vàng rộn rã nát lòng thần minh.[10]

Dòng nước Hiệt lênh đênh bỡ ngỡ,

Thề cùng sông: «Tan rợ mới về !» [11]

Hốt ngà có lúc cũng ghê,

30. Cho đầu soán chúa ê chề tóc tang.[12]

Linh khí ấy chứa chan muôn thuở,

Rực trần ai, tở mở trăng sao.

Khí thiêng đượm máu hùng hào,

Phù sinh nhẹ tựa hồng mao sá gì.

35. Giây buộc đất nó xe cho vững,

Cột chống trời nó dựng cho cao.

Cương thường đạo nghĩa trước sau,

Mối giường then chốt quán thâu một mình.

Ta lỡ bước điêu linh tù túng,

40. Vì ba quân lấp lửng ươn hèn.

Thân tù dạ lỏng khóa then,

Một xe đầy ải, băng miền heo may.

Đời luân lạc tỉnh say mấy độ,

Vạc dầu sôi mà ngó như sương.

45. Ngục tù khóa kín ánh dương,

Phòng giam trời vắng tối dường than tro.

Long câu giữa trâu bò len lỏi,

Phượng hoàng kia phận gửi đàn gà.[13]

Một mai gió lạnh sương mờ,

50. Mấy hồi run rét, xác xơ thân tàn.

Cậy tuế nguyệt thổi tan chướng khí,

Nhờ dương quang đượm vẻ an khương.

Nhớp nhơ là chốn tù trường,

Mà ta khinh khoát coi dường Bồng Lai.

55. Ta vốn chẳng có tài phép lớn,

Nhưng trần ai khôn bận lòng ta.

Lòng ta Chính Khí chói lòa,

Âm dương điên đảo khôn mờ tấc son.

Trời lồng lộng mây tuôn sóng bạc,

60. Động lòng sầu man mác trời mây.

Biển trời bát ngát chơi vơi,

Con thuyền dĩ vãng, bóng người xa xưa.

Người xưa quá, tinh hoa vẫn đó,

Tinh hoa còn rạng rỡ tờ mây.

Đạo xưa vầng sáng đâu đây,

Linh lung vầng sáng tỏa đầy dung quang.

 

Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ dịch

 


Chú Thích

[1] Thôi Tử là Tể tướng nước Tề giết vua, quan Thái sử cứ chép việc thật, không sự oai quyền.

[2] Triệu Thuần là Tể tướng nhà Tần giết vua, Đổng Hồ cũng theo sự thật chép vào trong sử.

[3] Trương Lương muốn báo thù cho vua nước Hàn, một mình mang dùi lén đánh vua Thủy Hoàng nhà Tần.

[4] Tô Vũ đời nhà Hán đi sứ bên Hung Nô, không chịu đầu hàng, bị giam 19 năm.

[5] Trương Phi đánh Ba Thục, bắt được Nghiêm Nhan. Nhan không chịu đầu hàng, nói rằng: ở xứ Thục có anh tướng quân đứt đầu chứ không có tướng quân đầu hàng.

[6] Vua Hoài Đế nhà Tấn bị giặc đuổi, quan thị trung Kế Thiệu đưa mình che tên cho vua, bị bắn chết, rảy máu lên áo vua.

[7] Đời nhà Đường, An Lộc Sơn làm phản, Trương Tuần khởi quân đánh giặc, nhưng thua trận và bị bắt. Trương Tuần mắng giặc luôn miệng, bị giặc bẻ hết hai cái răng.

[8] Nhan Kiều Khanh bị giặc bắt, mắng chưởi luôn miệng, bị giặc cắt đứt lưỡi, nhưng vẫn cứ chưởi mãi không thôi.

[9] Quảng Minh đời nhà Hán được vua mời ra làm quan nhưng ông không chịu ra, mà cứ ở mãi xứ Liêu Đông 30 năm, chỉ đội cái nón lá và mặc vải bố.

[10] Khổng Minh dâng tờ biểu cho vua đi đánh nước Ngụy.

[11] Tổ Địch dẫn quân đi đánh giặc. Lúc sang sông được rồi thì bẻ quách mái chèo mà rằng: Nếu không dẹp xong giặc thì không thể về mà sang sông này nữa.

[12] Đoàn Tú Thực giận Châu Xế chiếm ngôi vua, bèn cầm cây đánh vào đầu Xế, máu ra lai láng.

[13] Lúc bị giam chung trong ngục, ông Văn Thiên Tường cùng bốn lính tráng ăn chung nằm lộn với nhau.

Các chú thích này đều mượn nơi bản dịch Chính Khí Ca của Phan Bội Châu, in trong Khổng Học Đăng của cụ, quyển 2, tr. 792.