ĐẠO ĐỨC
KINH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
khảo luận & bình dịch
»
mục lục
»
bình dịch
PHI LỘ
Bình giải
Đạo đức kinh là một chuyện vừa dễ vừa khó.
Dễ vì đã
có vô số các nhà bình giải Đạo đức kinh Trung Hoa, Việt Nam và Âu Mỹ.
Chỉ cần ít thì giờ là có thể soạn thảo được một pho sách cũng khả quan.
Ở Trung
Quốc có những nhà bình giải nổi tiếng như: Hà Thượng Công
河 上 公,
Vương Bật
王 弼,
Huỳnh Nguyên Cát
黃 元 吉,
v.v.
Ở Việt
Nam cũng đã có mấy quyển Đạo đức kinh bình giải công phu của Nghiêm
Toản, Nguyễn Duy Cần, v.v.
Ở Âu Mỹ
cũng có rất nhiều sách bình dịch Đạo đức kinh. Ví dụ: Le livre de la
Voie et de la Vertu của Stanislas Julien (1842); Tao Tei king
của linh mục Léon Wieger (1950); Le livre de la Voie et de la Vertu
của J. J. L. Duyvendak (1953); The Way and its Power của Arthur
Waley (1934); The Tao Te ching của James Legge, v.v.
Khó ở chỗ
làm sao tìm ra được một đường lối để dịch và bình cho phóng khoáng, mà
vẫn không sợ lạc nghĩa.
Các nhà
bình giải Đạo đức kinh thường chú trọng giải thích từng chữ từng câu
trong Đạo đức kinh, lại còn tham bác trích dẫn lời bình giải của học giả
khác. Khi dịch thì cố dịch cho thật sát nghĩa đen.
Tất cả
những sự cố gắng rất đáng ca ngợi về phương diện phương pháp, công phu
và văn chương ấy, tiếc thay nhiều khi lại làm cho Đạo đức kinh trở nên
mù mờ, khó hiểu hơn.
Riêng
tôi, tôi sẽ áp dụng một phương pháp khác. Tôi sẽ nhìn Đạo đức kinh cũng
như học thuyết Lão-Trang nói riêng, và các tác phẩm của đạo gia nói
chung qua lăng kính của Huyền học (Mysticisme).
Tôi nghĩ
rằng: Nếu hiểu được chủ trương và mục đích của khoa Huyền học, những
phương pháp của các nhà huyền học đã dùng để đạt tới mục phiêu, những
lời lẽ bóng bảy mà các ngài dùng, là để truyền cho nhau công thức tâm
tư, ta sẽ hiểu được, ít là tám phần mười, Đạo đức kinh cũng như thư tịch
Đạo giáo.
Dưới đây
xin trình bày một vài nét đại cương về Huyền học.
1. Huyền
học chủ trương đại khái Trời chẳng xa người. Đạo thể, hay Tuyệt đối thể
đã ẩn tàng sẵn trong lòng con người.
2. Tuyệt
đối thể ấy tùy theo đạo giáo sẽ đổi danh hiệu: Đạo trong Lão
giáo, Thái cực trong Nho giáo, Chân như trong Phật giáo,
Thượng đế trong Công giáo, Atman trong Bà la môn giáo,
Allah trong Hồi giáo, v.v.
3. Cái
phần thiên tính ấy, vì là tuyệt đối, vĩnh cửu nên bất sinh bất tử, có
trước đất trời và trường tồn mãi với thời gian.
4. Các
nhà huyền học khi đã nhận định được rằng trong mình có Trời, có tính
Trời, có Tuyệt đối, liền ra công tu sửa tâm hồn mình để kết hợp với Đạo
thể cao siêu ấy.
Công
trình tu luyện thường được tóm tắt lại như sau:
1. Gạn
đục khơi trong tâm hồn (purification, catharsis).
2. Thu
thần, phát huệ (illumination).
3. Sống
phối hợp với Thượng đế với Tuyệt đối (vie unitive, Nirvana;
thủ trung bão nhất
守 中 抱 一;
đắc Nhất
得 一
đắc Đạo
得 道,
v. v...).
4. Vì Đạo
hay Cốc thần
谷 神
trường
sinh bất tử, nên tìm Đạo, tìm Cốc thần tức là đi tìm thuốc trường sinh
bất tử.
5. Mà
dược liệu để luyện thuốc trường sinh chẳng ở đâu xa, nó đã ở ngay trong
lòng con người. Lò bát quái luyện đan cũng chẳng phải tốn tiền xây cất,
vì đó chính là xác thân con người.
6. Dược
liệu là Tâm
心
Thần
神;
là Lòng Đạo
道 心
với lòng
người.
7. Lửa để
luyện đan tức chí khí, là sự hăng say để thực hiện mục phiêu.
8. Đan
thành
丹 成
là khi
lòng con người và lòng Đạo kết thành một khối. Đó chính là khi lòng con
người đã trở nên khiết tịnh tinh vi, cao minh linh diệu, viên mãn, khinh
phiêu.
Hiểu được
khẩu quyết người xưa, hiểu được đường lối người xưa sau những bức màn từ
ngữ, hình tượng, tức là ta đã giản dị hóa được cái gì hết sức phức tạp,
thâu ngắn lại được con đường hết sức xa xôi.
Đem hết
lòng chí thành mà cầu học, thiết tha với vấn đề nhiều tháng nhiều năm,
một ngày nào đó chúng ta sẽ chứng nghiệm được những gì người xưa đã
chứng nghiệm đuợc, và chúng ta sẽ tháo gỡ được hết son phấn thần thoại
bao phủ trên mặt vấn đề, để nhìn vấn đề với con mắt chính xác của một
nhà đạo học và khoa học.
Còn nếu
chúng ta không chịu suy chịu nghĩ, lại chạy theo những ảo ảnh, những
phương thuật của các thuật sĩ thì ta chỉ lao đao lận đận suốt đời, mà
rút cục cũng chẳng thâu thái được lợi ích gì cụ thể.
Tần Thủy
Hoàng xưa tốn bao công của để tìm linh chi linh dược, để tìm Bồng lai,
mà rút cuộc linh chi cũng chẳng thấy tăm hơi, Bồng lai cũng chẳng tìm ra
bóng dáng.
Hán Vũ đế
漢 武 帝
uống
nhiều đan sa
丹 砂
đến phát
bệnh, vì thế Trương Trọng Cảnh
張 仲 景
đã phải
lập ra bài Bát vị để chữa, và sau khi đã uống bao nhiêu thuốc
trường sinh vua cũng băng hà năm 71 tuổi.
Vua cũng là một trong những vì vua muốn tìm Bồng lai, muốn gặp thần
tiên, mà rốt cuộc cũng chẳng thấy gì.
Về sau
các vua Hiến tông
憲 宗
(806-821), Mục tông
穆 宗
(821-825), Vũ tông
武 宗
(841-847), Tuyên tông
宣 宗
(847) nhà
Đường đều chết vì uống đan sa.
Lời nói
của Hán Vũ đế sau đây đáng cho chúng ta suy nghĩ. Năm 89 trước công
nguyên khi ấy Hán Vũ đế đã 69 tuổi, và đã trị vì được 52 năm, vua hội
quần thần và thú nhận: «Từ khi lên ngôi trẫm đã làm nhiều điều điên
cuồng, khiến cho thiên hạ khổ sở. Cái dĩ vãng ấy khó mà đền bù được. Vậy
ít là từ nay, phải tránh đừng làm gì khổ dân nước.» Điền Thiên Thu
田 千 秋
liền tâu:
«Những phương sĩ chỉ nói đến thần tiên, họ rất đông mà chẳng làm được
trò trống gì. Xin đuổi họ về hết.» Vua liền phán: «Quan Hồng lô nói đúng
đó.» Và lập tức xuống chiếu thải hồi tất cả các phương sĩ, và những
người có lệnh chờ đón thần tiên. Từ ấy mỗi khi họp triều thần, vua lại
phàn nàn vì đã xử sự điên cuồng. Vua phán: «Trẫm đã bị bọn phương sĩ lừa
dối: chẳng làm gì có thần tiên; tất cả những điều họ tâu đều sai thác,
tà ngụy. Cách họ tiết thực, phục dược bất quá chỉ làm cho bớt bệnh đôi
chút.»
Lời tự
thú của một vì vua suốt cả đời đã đi tìm thần minh, đã cầu thuốc trường
sinh, đã thâu nạp những phương sĩ danh tiếng nhất thời đó để cộng tác
với vua trong nhiều năm, lời tự thú đó đối với ta hết sức là giá trị.
Chúng ta
muốn khảo sát đạo Lão, muốn biết tinh hoa đạo Lão mà không biết tu sửa
tâm hồn, sống cuộc đời cao khiết giữ cho tâm thần luôn linh minh, sảng
khoái, không rũ bỏ được cái mình nhỏ nhoi ti tiện, không thoát ra khỏi
được cái kiếp phù sinh vắn vỏi để vươn lên tới Đạo thể, tới hằng cửu,
thì công trình của chúng ta cũng chỉ là công dã tràng.
Vạn Đức
Tụ
萬 德 聚
một hôm
gặp một đạo sĩ. Sau khi đã bày tiệc trai khoản đãi, Vạn Đức Tụ hỏi đạo
sĩ về «Nguyên môn diệu chỉ»
元 門 妙 旨
(bí quyết
để vào cửa thiêng).
Đạo sĩ
đáp: «Tâm là Đạo, Đạo là Tâm; Tâm mà rời Đạo thời đi vào lục đạo, tam
đồ. Tâm mà hợp Đạo thời tạo Bồng lai Tam đảo. Thiên đường địa ngục chỉ
cách nhau bằng một ý tưởng đó mà thôi. Nhược bằng bàn những chuyện mây
trắng, mậm vàng, anh nhi, xá nữ, thời vạn lần cũng chẳng nên công...
cuối cùng chỉ là nhìn mơ để giải khát, vẽ bánh để no lòng...»
Lại có
thơ rằng:
Vũ lưu
vọng thuyết nhập thâm sơn,
羽 流 妄 說 入 深 山,
Điên đảo
âm dương luyện cửu hoàn.
顛 倒 陰 陽 鍊 九 還.
Hà tự
nhất tâm tuân Thái thượng,
何 似 一 心 遵 太 上,
Công
thành hành mãn tức kim đơn.
功 成 行 滿 即 金 丹.
Tạm dịch:
Vũ lưu
bàn quấy nhập thâm sơn,
Lộn
lạo âm dương phản cửu hoàn,
Sao
chẳng hết lòng theo Thái thượng,
Công
thành hành mãn ấy kim đơn.
Thế tức
là muốn tìm thần tiên, thì thần tiên chẳng có xa. Thần tiên chẳng cần
phải tìm nơi thâm sơn cùng cốc, mà thần tiên đã ở ngay trong lòng mình.
Trong
sách Tử Dương Chân nhân nội truyện
紫 陽 真 人 內 傳
có chép:
«Chu Nghĩa Sơn đã mất nhiều năm đi khắp nơi, leo trèo các núi non, thăm
dò các hang động để đi tìm Tam vị Thiên tôn. Cuối cùng Chu Nghĩa Sơn gặp
các ngài, và quì lạy các ngài. Đoạn ông nhắm mắt, nhìn vào lòng mình.
Một lát sau ông thấy rằng ở não thất phía đông, đã có hai vị Thiên tôn
hình dung, phục sức cũng y như các vị mà ông gặp trên núi Công. Hoàng
Lão quân cười rồi nói: Cao siêu và huyền diệu thay. Hãy cố suy tư tìm
hiểu. Đó là phương pháp để ‘lên trời giữa ban ngày’ (bạch nhật
thăng thiên
白 日 升 天
).
Vua Đường
Tuyên tông
唐 宣 宗
muốn cầu
trường sinh. Vua cho triệu đạo sĩ Hiên Viên Tập về Trường An. Vua hỏi:
«Trường sinh có thể học được chăng?» Đạo sĩ tâu: «Nhà vua nên quả dục
sùng đức, thì tự nhiên sẽ được phúc cả, còn phải đi tìm trường sinh ở
đâu khác nữa?»
Lại đời
vua Tống Nhân tông
宋 仁 宗
có người tên là Hiếu Tiên dâng lên vua cỏ linh chi. Vua phán: «Trẫm coi
những năm được mùa là điềm tốt, hiền thần là quí báu, còn những cây cỏ
lạ có gì đáng quí đâu.» Bèn tha tội cho Hiếu Tiên và giáng chiếu cho các
châu quận không được tiến dị thảo nữa.
Mới hay
tiểu nhân thì tìm điều quái dị, đại nhân thì tìm điều chân thường. Tiểu
trí, đại trí khác nhau ở chỗ đó.
Tóm lại
tôi muốn nói rằng tất cả giá trị Đạo đức kinh cũng như của đạo Lão là ở
tại chỗ đã có vạch cho chúng ta con đường nội tâm, với những giai đoạn,
những công phu tu luyện để trở về kết hợp với Đạo thể, Đạo tâm.
Khi chúng
ta hiểu được như vậy rồi chúng ta có thể so sánh Upanishad với Đạo đức
kinh, Đạo đức kinh với Nam hoa kinh, Lão tử với Ramakrishna, với
Eckhart, Jacob Boehme, Jean de la Croix, Al Ghazzâli, Phật Thích ca,
Khổng tử, v.v. và chúng ta sẽ thấy nhiều điểm tương đồng hiện ra rõ như
hai mảnh tre vừa mới được chẻ ra từ một ống tre duy nhất.
Mạnh tử
nói: «Tiên thánh, hậu thánh kỳ quĩ nhất dã.»
先 聖 後 聖 其 揆 一 也
thực là chí lý vậy.
Henri
Maspero có lẽ là một học giả châu Âu đầu tiên đã nói được những câu hết
sức sâu sắc như sau: «Thực hiện một đời sống huyền đồng, đó là khám phá
lớn lao nhất của môn phái Lão-Trang: Họ là những người đầu tiên ở Trung
Hoa đã đi trên con đường đó, và đã mô tả những giai đoạn của con đường
đó.»
Nhan
Thành Tử Du nói với Đông Quách Tử Kỳ: «Từ khi tôi theo học Ngài, năm thứ
nhất tôi trở nên giản dị, tự nhiên; năm thứ hai, tôi trở nên dễ dạy; năm
thứ ba tôi trở nên thông sáng; năm thứ tư, tôi coi tôi là ngoại thân chi
vật; năm thứ năm, tôi tiến bộ thêm; năm thứ sáu, thần nhập vào tôi; năm
thứ bảy, tôi thành thần; năm thứ tám, tôi không biết tôi còn sống hay đã
chết; năm thứ chín tôi đạt được điều Huyền nhiệm cao diệu.»
Một đoạn
khác còn mô tả rõ ràng hơn: «Sau ba ngày (Bốc Lương Ỷ) có thể tách rời
khỏi thiên hạ. Tôi tiếp tục quan sát: Sau bảy ngày, ông có thể tách rời
khỏi cảnh vật. Tôi tiếp tục quan sát, sau chín ngày ông có thể tách khỏi
cuộc phù sinh của ông. Khi đã thoát cảnh phù sinh rồi, ông thấy sáng
láng như ánh bình minh. Khi đã thấy sáng láng như ánh bình minh rồi, ông
liền nhìn thấy Đạo. Thấy Đạo rồi, ông vượt trên thời gian, không còn
thấy cổ kim, ông vào cảnh giới bất sinh bất tử.»
Ba giai
đoạn của đời sống huyền đồng hiện ra một cách khá rõ rệt cũng tương tự
như những giai đoạn mà các nhà huyền học châu Âu, Công giáo, hay Hồi
giáo đã mô tả.
1. Giai
đoạn tách rời khỏi ngoại cảnh, phù sinh (Nhan Thành Tử Du mất năm năm,
Bốc Lương Ỷ mất chín ngày), chính là giai đoạn tẩy tâm, gạn đục khơi
trong tâm hồn của các nhà huyền học Công giáo; rồi đến những trạng thái
xuất thần, mà người thường thì cho là thần nhập vào người hoặc những
trạng thái chiêm nghiệm thấy Đạo thể, thấy Tuyệt đối. Cuối cùng là đời
sống huyền đồng, sự huyền diệu tuyệt trần (Đại diệu).
Như vậy, với những lời lẽ uẩn súc, Henri Maspero đã dùng khoa huyền học
để làm chìa khóa mở cánh cửa đạo Lão.
Jean
Grenier, trong cuốn L’Esprit du Tao cũng đã biết so sánh huyền
học đạo Lão với Huyền học Công giáo
và ước mong trong các trường đại học sẽ có một phân khoa chuyên khảo về
siêu hình và huyền học Đông Tây.
Thực ra
các vị đó đã có cái nhìn nhất quán, và cái tâm đại đồng vậy. Đằng khác,
tôi mạo muội dịch quyển Đạo đức kinh này bằng lối thơ song thất lục bát,
hay lục bát, vì đó là một hình thức văn chương dễ phổ cập vào dân gian.
Tôi hết sức là phóng khoáng, cố làm sao cho lời văn trong sáng, vần thơ
óng ả, đẹp đẽ để chúng không còn là những bản văn dịch vô hồn, mà sẽ hết
sức linh hoạt sống động, đọc lên sẽ thành một áng văn chương. Tôi không
muốn tranh thắng với các bản dịch đã có, mà chỉ muốn tặng cho vườn học
nước nhà một khóm hoa mới. Với lối dịch thoát sáo này, nếu đem kháp chữ
sẽ thấy nguyên văn và bản dịch xa nhau, nhưng nếu đem so nghĩa sẽ thấy
chúng rất là gần gũi nhau. Dẫu sao cũng là một sự vi phạm đối với qui
ước văn học hiện hữu. Ước mong được sự rộng lượng của quí vị.
Bác sĩ
Nhân tử NGUYỄN VĂN THỌ
I.
TIỂU SỬ LÃO TỬ
Trước khi
bình giải về Đạo đức kinh, dĩ nhiên phải nói đến tiểu sử Lão tử. Nhưng
thực ra cuộc đời Lão tử mơ hồ, ẩn ước, trong đó thực tế xen lẫn với
huyền thoại nên khó mà có được một ý niệm chính xác.
Có người
thì cho rằng Lão tử sinh trước đức Khổng, và có lần đã gặp đức Khổng. Có
người lại cho rằng ngài sinh sau đức Khổng (khoảng năm 300 trước công
nguyên).
Trang tử
cho rằng Lão tử đã chết.
Tư Mã
Thiên ghi rằng khi rời khỏi Hàm Cốc
函 谷
không còn
biết hành tung ngài ra sao. Tư Mã Thiên cho rằng: Lão tử cũng chỉ là một
người như ai, có vợ, có con.
Biên
Thiều
邊 韶
– tác giả
Lão tử minh
老 子 銘
(bia Lão
tử), thời Hán Văn đế
漢 文 帝
– đã ghi
rằng: Đối với dân chúng, Lão tử đã có từ muôn kiếp.
Biến
hóa kinh
變 化 經
, viết
vào khoảng 621 sau công nguyên, thời Tùy Dương đế, cho rằng Lão tử chẳng
những có từ muôn thuở mà còn giáng trần nhiều lần để cứu độ muôn dân.
Hóa hồ
kinh
化 胡 經
do Vương
Phù
王 浮
viết vào
khoảng đầu thế kỷ IV, đời vua Tấn Huệ đế
晉 惠 帝
(tức Tư
Mã Trung
司 馬 衷,
tại vị 290-306), cho rằng Lão tử đã đi về các nước rợ Hồ vùng Tacim, rồi
sang Ấn Độ, để dạy đạo cho Phật. Sách chủ trương rằng Phật Thích ca là
hậu thân của Lão tử, hay là đồ đệ của Lão tử. Quyển sách này đã gây nên
bao cuộc khẩu chiến giữa các Phật tử và các đạo sĩ suốt các thời Lương
đời Lương Vũ đế
梁 武 帝
(năm
520), thời Đường trong các đời vua Cao tông
高 宗
(668) và
Vũ hậu
武
后
(696), thời Nguyên đời vua Hiến tông
憲 宗
(Mông Ca
蒙 哥
1258) và Nguyên Thế tổ
元 世 祖
(Hốt Tất
Liệt
忽 必 烈,
1280-1294).
Như vậy
không thể nào chép hết ra đây được những huyền thoại về Lão tử. Sau đây
tôi chỉ phỏng dịch ba tiểu sử Lão tử:
– Tiểu sử
Lão tử theo Sử ký Tư Mã Thiên.
– Tiểu sử
Lão tử theo Lão tử minh.
– Tiểu sử
Lão tử theo Lão tử biến hóa kinh.
Sau khi
đã trình bày ba tiểu sử khác nhau về Lão tử, chúng ta sẽ y cứ vào các
tài liệu đó để phân tách và bình giải các quan niệm khác nhau của nhân
gian về Lão tử. Như vậy ta vừa giữ nguyên được các huyền thoại về Lão tử
vừa có thể đưa ra đường lối mới mẻ để giải thích các huyền thoại ấy.
Cuộc hội ngộ truyền thuyết giữa Khổng Tử và Lão Tử (theo
Sử Ký Tư Mã
Thiên)
A.
TIỂU SỬ LÃO TỬ THEO TƯ MÃ THIÊN
LÃO TỬ
TRUYỆN KHẢO
(Theo
Sử ký Tư Mã Thiên)
Hán
văn:
老 子 者,
楚 苦 縣 厲 鄉 曲 仁 里 人 也 姓 李 氏,
名 耳,
字 伯 陽 諡 曰 聃 周 守 藏 室 之 史 也 孔 子 適 周,
將 問 禮 於 老 子 老 子 曰:
«子
所 言 者,
其 人 與 骨 皆 已 朽 矣,
獨 其 言 在 耳 且 君 子 得 其 時 則 駕,
不 得 其 時 則 蓬 累 而 行 吾 聞 之,
良 賈 深 藏 若 虛,君
子 盛 德,
容 貌 若 愚 去 子 之 驕 氣 與 多 欲,
態 色 與 淫 志,
是 皆 無 益 於 子 之 身 吾 所 以 告 子,
如 此 而 已.»
孔 子 去 謂 弟 子 曰:
«鳥
吾 知 其 能 飛 魚 吾 知 其 能 游 獸 吾 知 其 能 走 走 者 可 以 為 罔,
游 者 可 以 為 綸,
飛 者 可 以 為 矰 至 於 龍,
吾 不 能 知 其 乘 風 雲 而 上 天 吾 今 日 見 老 子 其 猶 龍 耶.»
老 子 修 道 德 其 學 以 自 隱 無 名 為 務 居 周 久 之, 見
周 之 衰,
乃 遂 去 至 關,
關 令 尹 喜 曰:
«子
將 隱 矣,
強 為 我 著 書.»
於 是 老 子 乃 著 書 上 下 篇,
言 道 德 之 意 五 千 餘 言,
而 去,
莫 知 所 終.
或 曰 老 萊 子 亦 楚 人 也 著 書 十 五 篇,
言 道 家 之 用,
與 孔 子 同 時 云 蓋 老 子 百 六 十 餘 歲,
或 言 二 百 餘 歲 以 其 修 道 而 養 壽 也.
Phiên âm:
Lão tử
giả, Sở Khổ huyện, Lệ hương, Khúc Nhân lý nhân dã. Tính Lý thị, danh
Nhĩ, tự Bá Dương. Thụy viết Đam. Chu thủ tàng thất chi sử dã. Khổng tử
thích Chu, tương vấn lễ ư Lão tử. Lão tử viết: «Tử sở ngôn giả, kỳ nhân
dữ cốt giai dĩ hủ hĩ. Độc kỳ ngôn tại nhĩ. Thả quân tử đắc kỳ thời, tắc
giá; bất đắc kỳ thời, tắc bồng lụy nhi hành. Ngô văn chi, lương cổ thâm
tàng nhược hư; quân tử thịnh đức dung mạo nhược ngu. Khứ tử chi kiêu khí
dữ đa dục, thái sắc dữ dâm chí. Thị giai vô ích ư tử chi thân. Ngô sở dĩ
cáo tử như thử nhi dĩ.»
Khổng tử
khứ vị đệ tử viết: «Điểu ngô tri kỳ năng phi, ngư ngô tri kỳ năng du;
thú ngô tri kỳ năng tẩu. Tẩu giả khả dĩ vi võng, du khả giả dĩ vi luân,
phi giả khả dĩ vi tăng. Chí ư long, ngô bất năng tri kỳ thừa phong vân
thượng thiên. Ngô kim nhật kiến Lão tử, kỳ do long da?»
Lão tử tu
đạo đức. Kỳ học dĩ tự ẩn vô danh vi vụ. Cư Chu cửu chi, kiến Chu chi
suy, nãi toại khứ. Chí quan, quan lệnh Doãn Hỉ viết: «Tử tương ẩn hĩ,
cưỡng vi ngã trứ thư.» Ư thị Lão tử nãi trứ thư thượng hạ thiên, ngôn
đạo đức chi ý, ngũ thiên dư ngôn, nhi khứ, mạc tri sở chung.
Hoặc
viết: «Lão Lai tử diệc Sở nhân dã, trứ thư thập ngũ thiên, ngôn đạo gia
chi dụng, dữ Khổng tử đồng thời vân.»
Cái Lão
tử bách lục thập dư tuế, hoặc ngôn nhị bách dư tuế dĩ kỳ tu đạo nhi
dưỡng thọ dã.
Lão tử ẩn
quân tử dã. Lão tử chi tử danh Tông. Tông vi Ngụy tướng phong ư Đoạn
Can. Tông tử Chú. Chú tử Cung. Cung huyền tôn Giả. Giả sĩ ư Hán Văn đế.
Nhi Giả tử Giải vi Giao Tây vương Ấn thái phó, nhân gia ư Tề yên.
Thế chi
học Lão tử giả tắc chuyết Nho học. Nho học tắc chuyết Lão tử. Đạo bất
đồng bất tương vi mưu. Khởi vị thị da? Lão tử vô vi tự hóa, thanh tĩnh
tự chính.
Dịch:
Lão tử là
người thôn Khúc Nhân
曲 仁,
làng Lệ
厲,
huyện Khổ
苦,
nước Sở
楚
Ngài họ Lý
李,
tên Nhĩ
耳,
tự Bá Dương
伯 陽,
thụy là Đam
聃.
Làm quản thủ thư viện nhà Chu.
Khổng tử
đến Chu, hỏi Lão tử về lễ, Lão tử nói: «Những người mà ông đề cập tới,
đã hóa ra người thiên cổ từ lâu. Nay chỉ còn lại những lời nói của họ.
Người quân tử khi đắc thế, thời đi xe; khi thất thế thời đi chân mặc
rách. Tôi nghe nói rằng một con buôn giỏi tất nhiên thu sâu, dấu kín,
hình như không có gì. Người quân tử đạo đức cao dày thường có vẻ ngoài
như kẻ ngu si. Ông hãy từ bỏ sự kiêu căng và dục tình. Hãy từ bỏ những
kiểu cách bên ngoài lòe loẹt và những tham vọng. Những cái đó chỉ làm
hại cho ông. Đó là những gì tôi muốn nói.»
Khổng tử
ra về nói với đệ tử rằng: «Con chim ta biết nó có thể bay; con cá, ta
biết nó có thể lội; con thú, ta biết nó có thể chạy. Chạy thời có thể
chăng dò, lội thời có thể đánh lưới, bay thời có thể bắn tên; đến như
rồng, thời ta không thể biết; nó cưỡi mây mà lên trời. Hôm nay ta gặp
Lão tử, ngài thực là rồng vậy.»
Lão tử tu
đạo đức. Cái học của ngài trọng ẩn dật, vô danh. Ở Chu lâu năm, sau thấy
nhà Chu suy, liền ra đi. Tới quan ải, quan lệnh là Doãn Hỉ nói: «Ngài
sắp đi ẩn, xin cố vì tôi viết sách.»
Lão tử
bèn viết Đạo đức kinh chia thành hai thiên gồm hơn năm nghìn chữ, đoạn
đi, không biết sau ra sao.
Có người
nói rằng: [Lão Lai tử chính là Lão tử. ] Lão Lai tử cũng là người nước
Sở, viết sách mười lăm thiên, nói về chuyện đạo gia, đồng thời Khổng tử.
Có người
cho rằng Lão tử biết cách tu dưỡng nên đã thọ 160 hay 200 tuổi. Lão tử
là một vị ẩn cư. Con ngài tên Tông
宗.
Tông làm tướng nước Ngụy
魏,
ở xứ Đoạn Can
段干.
Tông có con tên là Chú
注.
Chú có con tên là Cung
宮.
Cháu sáu đời của Cung tên là Giả
假,
làm quan đời Hán Văn đế (179-156). Con của Giả tên là Giải
解,
làm quan thái phó cho vua Ấn nước Tề, ở xứ Giao Tây.
Người học
Lão tử thời châm biếm đạo Nho; người theo đạo Nho thời châm biếm Lão tử.
Thế mới hay: Chẳng đồng đạo, thì chẳng cộng tác với nhau được. Lý Nhĩ vô
vi để tự hóa; thanh tĩnh để tự chính.
LÃO TỬ CỔ TÍCH ĐỒ
1. Lệ hương
厲 鄉
(Khổ huyện
苦 縣):
nơi Lão tử sinh.
2. Lạc Dương
洛 陽:
nơi Lão tử làm quan. 3. Hàm Cốc
函 谷:
nơi Lão tử chép sách.
B.
TIỂU SỬ LÃO TỬ THEO LÃO TỬ MINH
LÃO TỬ MINH
老 子 銘
Hán văn:
第
一
段
老 子 姓 李 字 伯 陽 楚 相 縣 人 也.
春 秋 之 後 周 分 為 二 稱 東 西 君 晉 六 卿
專 征 與 齊 楚 並 僭 號 為 王 以 大 并 小 相 縣 虛 荒 今 屬 苦.
故 城 猶 在 在 賴
鄉 之 東 渦 水 處 其 陽 其 土 地 鬱 螉 高 敝 宜 生 有 德 君 子 焉.
老 子 為 周 藏
室 史.當
幽 王 時 三 川 實 震 以 夏 殷 之 季,
陰 陽 之 事 鑒 喻 時 王 孔 子 以 周
靈 王 廿
(混
元 作 二 十 一
)
年 生.
至 景 王 十 年 年 十 有 七 學 禮 於 老 聃 計
其 年 紀 聃 時 以 一 百 餘 歲 聃 然 老 耄 也.
孔 子 卒 後 百 廿 九 年 或 謂 周 太
史 為 老 子 莫 知 其 所 終
第 二 段
其 二 篇 書 稱 天 地 所 以 能 長 且 久 者 以 不 自 生 也 厥 初 生 民 遺 體 相 續
其 死 生 之 義 可 知 也 或 有 谷 神 不
死 是 謂 玄 牝 之 言 由 是 世 之 好 道 者
觸 類 而 長 之 與 老 子 離 合 於 混 沌 之 氣 與 三 光 為 終 始 觀 天 作 讖 降
升
斗 星 隨 日 九 變 與 時 消 息 規 矩 三 光.
四 靈 在 旁 存 想 丹 田 太 一 紫 房 道
成 身 化 蟬 蛻 渡 世.
自 羲 農 以 來 為 聖 也 作 師 班 固 以 老 子 絕 聖 棄 智 禮
為 亂 首 與 仲 尼 道 違 述 漢 書 古 今 人 表.
檢 以 法 度 抑 而 下 之 與 楚 子 西
同 科 材 不 及 荀 卿 孟 軻.
二 者 之 論 殊 矣 所 謂 道 不 同 不 相 為 謀 也.
第 三 段
延 熹 八 年 八 月 甲 子 皇 上 尚 德 弘 道 含 閎 光 大 存 神 養 性 意 在 凌 雲 是
以 僭 心 黃 軒 同 符 高 宗 夢 見 老 子
尊 而 祀 之 于 時 陳 將 邊 韶 典 國 之 禮
材 薄 思 淺 不 能 測 度 至 人 辯 是 與 非 按 據 書 籍 以 為 老 子 生 於 周 之
末
世 玄 虛 守 靜 樂 無 名 守 不 德 危 高 官 安 下 位 遺 孔 子 以 仁 言 避 世 而 隱
居 變 易 姓 名 惟 恐 見 知 夫 日 以
幽 明 之 節 月 以 虧 盈 自 成 損 益 盛 衰 之
原 倚 伏 禍 福 之 門 天 道 惡 盈 而 好 謙 蓋 老 子 勞 不 定 國 功 不 加 民
所 以
見 隆 崇 于 今 為 時 人 所 以 享 祀 乃 昔 日 逃 祿 處 微 損 之 又 損 之 之 餘 昨
也 顯 虛 無 之 清 寂 云 先 天 地
而 生 乃 守 真 養 壽 獲 五 福 之 所 致 也 敢 演
而 明 之.
第 四 段
其
辭
曰
:
於
惟
玄
德
抱
虛
守
清
樂
居
下
位
祿
執
不
盈
為
繩
能
直
屈
之
可
縈.
三
川
之
對
舒
憤
散
逞.
陰
不
填
陽
孰
能
滯
并.
見
機
而作
需
郊
出
坰.
肥
遁
之
吉
避
世
隱
聲.
見
迫
遺
言
道
德
之
經.
譏
時
微
喻
尋
顯
推
冥.
守
一
不
失
為
天
下
正.
處
厚
不
薄
居
實
含
榮.
稽
式
為
重
金
玉
是
輕.
絕
嗜
去
欲
還
歸
嬰
兒
皓
然
歷
載
莫
知
其
情.
頗
違
法
言
先
民
之
程.
要
以
無
為.
大
化
用
成
進
退
無
恆.
錯
綜
其
貞.
以
智
為
愚
充
而
不
盈.
大
人
之
度
非
凡
所
訂.
九
等
之
敘
何
足
累
名.
同
光
日
月
合
之
五
星.
出
入
丹
爐
呼
吸
至
精.
世
不
能
原
仰
其
永
生.
天
人
秩
祭
以
昭
厥
靈.
羨
彼
延
期
勒
石
是
旌.
Phiên âm:
ĐỆ NHẤT ĐOẠN
Lão tử
tính Lý, tự Bá Dương, Sở Tương huyện nhân dã. Xuân thu chi hậu, Chu phân
vi nhị, xưng Đông, Tây quân. Tấn lục khanh chuyên chinh, dữ Tề Sở tịnh
tiếm hiệu vi vương. Dĩ đại tính tiểu, Tương huyện hư hoang, kim thuộc
Khổ. Cố thành do tại. Tại Lại hương chi đông oa thủy xứ kỳ dương, kỳ thổ
địa uất ông cao tệ, nghi sinh hữu đức quân tử yên. Lão tử vi Chu tử tàng
thất sử. Đương U vương thời, tam xuyên thật chấn dĩ Hạ Ân chi quí, âm
dương chi sự, giám dụ thời vương. Khổng tử dĩ Chu Linh vương trấp (Hỗn
nguyên tác: nhị thập nhất) niên sinh. Chí Cảnh vương thập niên, niên
thập hữu thất, học Lễ ư Lão Đam. Kế kỳ niên kỷ, Đam thời dĩ nhất bách dư
tuế. Đam nhiên lão mạo dã. Khổng tử tốt hậu bách trấp cửu niên, hoặc vị
Chu thái sử vi Lão tử, mạc tri kỳ sở chung.
ĐỆ NHỊ ĐOẠN
Kỳ nhị
thiên thư xưng: thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ bất tự sinh
dã. Quyết sơ sinh dân, di thể tương tục, kỳ tử sinh chi nghĩa khả tri
dã. Hoặc hữu Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn chi ngôn. Do thị thế chi
hiếu đạo giả, xúc loại nhi trưởng chi, dĩ Lão tử ly hợp ư hỗn độn chi
khí, dữ tam quang vi chung thủy, quan thiên tác sấm, giáng thăng đẩu
tinh. Tùy nhật cửu biến, dữ thời tiêu tức, qui củ tam quang. Tứ linh tại
bàng, tồn tưởng đan điền. Thái nhất tử phòng, đạo thành thân hóa. Thiền
thoát độ thế. Tự Hi Nông dĩ lai, vi thánh giả tác sư. Ban Cố dĩ Lão tử
tuyệt thánh khí trí lễ vi loạn thủ, dữ Trọng Ni đạo vi, thuật Hán thư cổ
kim nhân biểu, kiểm dĩ pháp độ, ức nhi hạ chi, dữ Sở Tử Tây đồng khoa,
tài bất cập Tuâân Khanh Mạnh Kha. Nhị giả chi luận thù hĩ. Sở vị đạo bất
đồng bất tương vi mưu dã.
ĐỆ TAM ĐOẠN
Diên Hi
bát niên, bát nguyệt Giáp Tí, Hoàng thượng, thượng đức hoằng đạo, hàm
hoằng quang đại, tồn thần dưỡng tính, ý tại lăng vân. Thị dĩ tiềm tâm
Hoàng Hiên, đồng phù Cao tông, mộng kiến Lão tử, tôn nhi tự chi. Vu thời
Trần tướng Biên Thiều, điển quốc chi lễ, tài bạc tư thiển, bất năng trắc
độ chí nhân, biện thị dữ phi, án cứ thư tịch, dĩ vi Lão tử sinh ư Chu
chi mạt thế, huyền hư thủ tĩnh, lạc vô danh, thủ bất đức, nguy cao quan,
an hạ vị.
Di Khổng
tử dĩ nhân ngôn, tị thế nhi ẩn cư. Biến dịch tính danh duy khủng kiến
tri. Phù nhật dĩ u minh vi tiết, nguyệt dĩ khuy doanh tự thành, tổn ích
thịnh suy chi nguyên, ỷ phục họa phúc chi môn. Thiên đạo ố doanh nhi
hiếu khiêm. Cái Lão tử lao bất định quốc, công bất gia dân. Sở dĩ kiến
long sùng vu kim, vi thời nhân sở dĩ hưởng tự, nãi tích nhật đào lộc xử
vi, tổn chi hựu tổn chi chi dư tạc dã. Hiển hư vô chi thanh tịch, vân
tiên thiên địa nhi sinh, nãi thủ chân dưỡng thọ, hoạch ngũ phúc chi sở
trí dã. Cảm diễn nhi minh chi.
ĐỆ TỨ ĐOẠN
Kỳ từ
viết: Ư duy huyền đức bão hư thủ thanh, lạc cư hạ vị, lộc chấp bất
doanh, vi thằng năng trực, khuất chi khả oanh. Tam xuyên chi đối, thư
phẫn tán trình. Âm bất điền Dương, thục năng trệ tính. Kiến cơ nhi tác,
nhu giao xuất quynh. Phì độn chi cát tị thế ẩn thanh. Kiến bách di ngôn,
đạo đức chi kinh. Ky thì vi dụ, tầm hiển suy minh. Thủ nhất bất thất, vi
thiên hạ chính. Xử hậu bất bạc, cư thật hàm vinh. Kê thức vi trọng, kim
ngọc thị khinh. Tuyệt thị khứ dục, hoàn qui anh nhi. Hạo nhiên lịch tải
mạc tri kỳ tình. Phả vi pháp ngôn, tiên dân chi trình. Yêu dĩ vô vi. Đại
hóa dụng thành, tiến thoái vô hằng. Thác tống kỳ trinh. Dĩ trí vi ngu,
sung nhi bất doanh. Đại nhân chi độ, phi phàm sở đính. Cửu đẳng chi tự,
hà túc lụy danh. Đồng quang nhật nguyệt, hợp chi ngũ tinh. Xuất nhập đơn
lô, hô hấp chí tinh. Thế bất năng nguyên, Ngưỡng kỳ vĩnh sinh. Thiên
nhân trật tế, dĩ chiêu quyết linh, tiện bỉ diên kỳ, lặc thạch thị tinh.
Dịch:
I. Lão tử
tính lý, tự Bá Dương, người huyện Tương nước Sở. Sau thời Xuân thu, Chu
triều chia làm hai gọi là Đông quân, Tây quân. Lục khanh nước Tấn tự ý
động binh gây chinh chiến. Tấn cùng với Tề, Sở tự xưng vương. Nước lớn
thôn tính nước nhỏ. Huyện Tương trở nên hoang vu, ngày nay thuộc Khổ.
Thành lũy cũ nay hãy còn. Phía đông làng Lại có con sông chảy qua. Vùng
này là một cao nguyên cỏ cây tươi tốt, dễ sinh ra một bậc thượng nhân
tài đức. Lão tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông
bị động đất. Lão tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời
Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua. Khổng tử sinh năm 20 thời Linh vương.
Đến năm Cảnh vương thứ mười, Khổng tử, mới 17 tuổi, đến học lễ với Lão
Đam. Nếu ta tính tuổi, thì khi ấy Lão Đam đã hơn 200 tuổi. Đam nghĩa là
đạo mạo, lão mạo. Có người quả quyết rằng, 129 năm sau khi đức Khổng mất
Chu Thái sử Đam cũng chính là Lão tử. Nhưng không ai biết Ngài mất bao
giờ.
II. Trong
quyển sách chia làm hai thiên của ngài có chép: «Nếu trời đất trường
cửu, chính là vì không vì mình sống.» Từ khi có loài người đến nay, thể
xác nối tiếp nhau. Như vậy là biết ngài (Lão tử) nghĩ thế nào về tử
sinh. Vì trong sách ngài có câu: «Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn.»
cho nên những người yêu Đạo mới nhân đấy mà luận về Lão tử như sau:
Ngài
cùng với Hỗn nguyên ly hợp,
Với
tam quang, ngài vượt thời gian.
Trông
trời, đoán vận trần hoàn,
Bảy vì
tinh đẩu, nhẹ nhàng xuống lên.
Cùng
với ngày, biến thiên chín bận,
Tùy
theo mùa, khi giảm khi tăng.
Tinh
huy, qui củ chuẩn thằng,
Tứ
linh, tứ tượng vốn hằng chầu bên.
Ngưng
thần khí, đơn điền não bộ,
Cung
nê hoàn mấy độ tiêu dao.
Sánh
vai Thái nhất ra vào,
Đạo
thành, thân thoát, từ bao độ đời.
Từ Hi,
Nông, đến thời hiện tại,
Bao
thánh hiền, ngài mãi là thầy...
Ban Cố
vì thấy Lão tử khinh thường kiến văn, coi nghi lễ là đầu mối loạn, không
cùng đường lối với đức Khổng, nên khi lập đồ biểu liệt kê nhân vật cổ
kim trong Hán thư đã hạ Lão tử xuống ngang hàng với Tử Sản nước Sở, và
dưới hàng Mạnh tử, Tuân tử. Như vậy hai bên (phe của Ban Cố, phe của Lão
giáo) có quan niệm khác nhau, chính là vì «khác đạo với nhau thì không
cộng tác với nhau được.»
III. Năm
Diên Hi thứ 8, tháng 8, ngày Giáp tý,
Hoàng thượng, vì chuộng đức, ước mong tiến tới chỗ tinh hoa cao đại, nên
đã tồn thần dưỡng tính, để vươn lên đến chốn cửu tiêu. Chính vì thế nên
Ngài đã tiềm tâm học đạo Hoàng Hiên
Ngài như Cao tông đã nằm mộng thấy Lão tử nên đã tôn sùng và tế lễ Lão
tử. Lúc này Biên Thiều tôi, đang làm tướng nước Trần, nên chủ sự cuộc tế
lễ ở đây. Tôi tài hèn trí mọn không thấy hiểu được bậc chí nhân cũng
không biết biện phân phải trái, nên chỉ dựa vào thư tịch mà chủ trương:
Đức
Lão tử sinh thời Chu mạt.
Yêu hư
vô, mà bạn thanh nhàn,
Không
cầu danh với thế gian,
Không
ưa những thói phô phang đức tài.
Coi
chức trọng là nơi nguy hiểm,
Vui
sống trong chốn kém, chốn hèn,
Tặng
cho đức Khổng lời khuyên,
Giã từ
thế tục, lâm tuyền ẩn cư.
Thay
họ mạc cũng như danh tánh,
Sợ đời
hay, nên lánh chuyện đời.
Vừng
dương sáng tối lần hồi,
Vầng
trăng tròn khuyết đầy vơi tương tùy.
Thêm
với bớt thịnh suy ấy gốc,
Và
trên đời họa phúc theo nhau,
Trời
kia nào thích đầy đâu,
Mà
thương những kẻ gót đầu khiêm cung.
Theo
Lão tử, lao lung vất vả,
Định
giang sơn mấy nả mà mong?
Vì dân
xin chớ kể công,
Công
lênh rôùt cuộc cũng không ích gì.
Ngài
nay được tôn suy, sùng thượng,
Chính
vì xưa chẳng tưởng công danh,
Một
ngày một giảm công trình,
Sống
trong hư tĩnh, siêu linh tuyệt vời.
Rằng
ngài trước đất trời sinh xuất,
Chính
vì ngài chẳng mất lòng son,
Thiên
chân giữ được vẹn tròn,
Cho
nên ngũ phúc chẳng còn thiếu chi.
Nên
tôi mạn mà ghi tiếp tục:
IV.
Đức độ ngài rất mực cao siêu,
Hư
không, thanh tĩnh đến điều,
Ưa nơi
thấp kém, chê chiều quang hoa.
Giây
khi thẳng, thời đà thẳng dẵng,
Nhưng
đem khoanh cũng chẳng ngại cong,
Trời
làm chấn động ba sông,
Can
vua, vả khiến cho lòng dân an.
Nếu Âm
chẳng lăng loàn lấn át,
Át
Dương kia, tan tác sao sinh?
Cơ suy
vừa lộ mối manh,
Thời
đà rũ áo, ẩn mình từ đây.
Người
nài nỉ: ra tay sáng tạo,
Đạo
đức kinh di cảo dạy đời.
Nhẹ
nhàng chỉ trích đương thời,
Đem
điều sáng sủa soi nơi mịt mùng.
Cùng
Thái nhất thủy chung bầu bạn,
Treo
cho đời gương sáng chính trung.
Dặn
dầy, chân thực thời ưng,
Mỏng
manh hào nháng thời không ngó ngàng.
Ưa cốt
cách, bạc vàng rẻ rúng.
Bao
dục tình chặn đứng mới nghe.
Trở về
trạng thái Anh nhi,
Mái
sương vượt quá hạn kỳ trần gian.
Hành
tung ngài, khó toan, khó luận,
Luật
gian trần chẳng bận niềm riêng,
Khinh
phiêu phơi phới tự nhiên,
Vô vi,
vô dục biến thiên mặc tình.
Tiến
hay thoái phiêu linh tùy tiện,
Tùy
thời cơ thiên biến vạn năng.
Xá chi
kiến thức gian trần,
Dẫu
đầy mà vẫn ngỡ rằng còn vơi.
Bậc
đại nhân siêu thời xuất thế,
Kẻ
phàm phu, hồ dễ mà hay.
Uổng
công xếp hạng nọ này,
Miệng
phàm hồ dễ xấu lây danh người.
Cùng
nhật nguyệt chói ngời sáng láng,
Cùng
ngũ tinh chiếu rạng quang huy.
Vào ra
nơi chốn đan trì,
Huỳnh
đình lên xuống muôn bề khinh phiêu.
Cùng
lưu tục chẳng điều quyến luyến,
Dấu
phong quang làm biến hình hài.
Chắt
chiu ôm ấp tính trời,
Muôn
nghìn biến hóa theo đòi thần minh.
Hô hấp
khí khinh thanh thuần túy,
Trong
trần hoàn hồ dễ ai hay,
Vĩnh
sinh ấy chính là ngài,
Đời
rằng ngài với đất trời trường sinh.
Vua tế
tự linh đình bày biện,
Để oai
ngài trình hiện muôn nơi,
Tôi
nay muốn để tiếng Người.
Cho
nên ghi tạc những lời ngợi khen.
C.
TIỂU SỬ ĐỨC LÃO TỬ THEO
LÃO TỬ BIẾN HÓA KINH
LÃO TỬ BIẾN HÓA KINH
老 子 變 化 經
Hán văn:
立 大 始 端 行 乎 大 之 原 浮 熬 幽 靈 空 之 入 窈冥 之 先 門 親 乎 皆 誌 之 未 別 和 清
濁 之 外
彷 彿 之 與 切 古 慌 忽 之 廓 然 衝 撞 而 之 容
[?]
同 門 之 先 邊 印 步 宙 天
門 其 生 無 騷 獨 立 而 無 倫 行 乎 古 昔 在 天 地 之 前 乍 匿 還 歸 存 亡 則 為 先 成
則 為 人
慌 忽 天 濁 化 變 其 神 託 形 李 母 胎 中 易 身 優 命 腹 中 七 十 二 年 中,
現
楚 國 李 口 序 與 肩 頰 有 參 午 大 理 日 角 月 玄 鼻 有 雙 柱,
耳 有 三 門 足
(蹈)
二 年
(五)
手 把 天 關 其 性 無 欲 其 行 無 為 欲 天 輔 佐,
三 皇 倚 徙 觀 之 匿 見 無 常 本 皆
由 此 彌 歷 久 長 國 將 衰,
王 道 崩 毀,
則 去 楚 國,
北 之 崑 崙 以 乘 白 鹿,
訖 今 不 還
此 皆 自 然 之 至 精,
道 之 根 蒂 為 乘 之 父 母,
為 天 地 之 本 根,
為 生 梯 端 為 神 明
之 帝 君,
為 陰 陽 之 祖 首,
為 萬 物 之 魂 魄 條 暢 靈 無 造 化 應 因 挨 帝 八 極 載 地
懸 天 遊 騁 日 月,
迴 走 日 辰 呵 投 六 甲 此 乾 坤 紀 易 四 時 推 移 寒 溫 手 把 仙 錫
玉 簡 今 字 稱 以 銀 人 喜 初
鳳 頭,
絕 聖 父 制,
物 屋 命 直,
父 為 之 生 焉 老 子 能 明
能 冥,
能 亡 能 存,
能 大 能 小,
能 屈 能 申,
能 高 能 下 能 縱 能 橫,
能 反 能 覆
;
無 所
不 施 無 所 不 能 在 火 不 燋 在 水 不 寒
;
逢 惡 不 疾
;
觸 禍 不 患 厭 之 不 苦,
傷 之
無 槃 長 生 不 死,
須 滅 身 形 偶 而 不 雙,
隻 而 不 奇 附 而 不 離,
莫 于 其 無 為 也 莫
能 不 隨 世
(之)
此 老 子 之 行 也 嚴 誡 眇 矣 誠 難 知 矣 老 子 既 生 九 重 之 外 形 變
化 自 然 子 知 吾 九 人 何
優 仙 夫 為 生 道,
甚 易 難 子 學 吾 生 道,
無 如 中 止,
卅 日
共 月 道 畢 滄 第 一 姓 李 名 老 字 元 陽 第 二 姓 李 名 聃 字 伯 陽 第 三 姓 李 名 中 字
伯
光 第 四 姓 李 名 石 字 子 光 第 五 姓 李 名 石 字 子 文 第 六 姓 李 名 宅 字 子 長
第 七 姓 李 名 元 字 子 始 第 八 姓
李 名 願 字 子 生 第 九 姓 李 名 德 字 伯 文 老 子
合 元 沰 元 混 成 隨 世 沉 浮 退 則 養 精 進 帝 王 師 皇 苞 羲 時 號
曰 溫 爽 子 皇 神 農
時 號 曰 春 成 子,
一 名 陳 豫 皇 祝 融 時 號 曰 廣 成 子 帝 顓 頊 時 號 曰 赤 精 子 帝
嚳
時
號 曰 真 子 名 黃 帝 時
號 曰 天 老 帝 堯 時 號 曰 茂 成 子 帝 舜 時 號 曰 廓 叔 子 化
形 舜 立 壇 春 秋 祭 祀 之 夏 禹 時 老 子 出 號 曰 李 耳,
一 名 禹 師 殷 湯 時 號 曰 斯 宮
周 父 皇 時 號 曰 先 王 國 柱 下 吏 武 王 時 號 曰 衛 成 子 成 王
時 號 曰 成 子 如 故 元
康 五 年 老 子 入 婦 女 腹 中 七 十 二 年 生 託 母 姓 名 聃 字 伯 陽,
為 柱 下 吏 七 百 年
還 變 楚 國 而 平 王 高 蹇 不 從 諫 道 德 不 流 則 去 楚 而 西 度 咸 谷 關 以
五 千 文 上
下 二 篇 授 關 長 尹 喜 秦 時 號 曰 蹇 叔 子 大 胡 時 號 曰 浮 慶 君 漢 時 號 王 方 平 陽
加 元 年 始 見 城
都 為 鶣 爵 鳴 山 建 康 元 年 化 於 白 鹿 山 託 澗 太 初 元 年 復 出 白
鹿 廟 中 治 崔 號 曰 仲 伊 建 和 二 年 於 崩 山
卒 出 城 都 左 里 城 門,
壞 身 形 為 真 人
漢 知 之 改 為 照 陽 門 楚 國 知 之 生 司 馬 照 永 壽 元 年 復 還 白 鹿 山,
號 曰 僕 人
大 賢 問 閉 口 不 言,
卅 年 建 廟 白 鹿 為 天 傅 老 子 曰
:
吾 敖 以 清 吾 事 以 明,
吾 證
以 成 吾 變 易 身 形 託 死 更 生,
周 流 四 海 時 出 黃 庭 經 歷 渡 踐 履 三 皇 戴 冒 三 台,
被 服 無 形 愚 者 不 知 死 復 更 生 儽 至 為 身 僮 兒 為 群 外 為 亡 僕,
內 自 為 真 自 屋
俱 澋,
自 有 精 神 晝 夜 念 我,
吾 不 忽 云 味 夢 想 吾,
我 自 見 信 吾 發 動 官 漢 令 自
易 身 愚 者 踊 躍,
智 者 受 訓 天 地 事 絕,
吾 自 移 運 當 世 之 時,
簡 擇 良 民,
不 須 自
去,
端 質 守 身 吾 自 知 之 翁 養 文 鱗 欲 知 吾 處,
讀 五 千 文 過 萬 變 首 自 知 身 急 來
詣 我 吾 與 精 神 子 當 念 父,
父 當 念 子 怡 忽 想 忘 去 之 萬 里,
所 治 解 怠,
神 不 為
使,
疾 來 遂 我 我 絕 綱 紀 青 白 為 表,
黃 黑 為 裡 赤 為 生 我,
從 一 而 始,
中 有 黃 氣,
可 絕 酒,
教 子 為 道,
先 當 修 己,
恬 泊 靜 寧
(穿),
撿 其 滿 手,
無 為 無 欲,
不 憂 患 谷
(苦),
道 來 附,
身 可 度 矣 精 思 放 我 神 為 走 使 吾 衡 剛,
吾 更 勝 負 生 氣 在 左,
原 氣
在 右 中 有 黃 氣 元 陽 為 上,
通 無 極 九 宮 僮 子 精 之,
思 之,
可 以 成 己 一 僶 道 成
教 告 諸 子 吾 六 度 太 白 橫 流,
疾 來 逐 我,
南 嶽 相 求,
可 以 度 危,
恐 子 稽 留,
立 春
癸 巳 放 縱 罪 囚 五 榖 驚 起,
人 民 有 憂,
疾 病 欲 至 餓 者 縱 橫 吾 轉 衝 撞 漢 事 吾
民 聞 之 自 有 志 棄 鄙 自 凍 無 姓 字 因 漢 自 識,
萬 民 見 端 直 實 心 乃 知 吾 事 合
知 聖 者 習 吾 意,
邪 心 狠 性 謂 我 何 人 吾 以 度 數 出 有 時 節 而 化 知 吾 者 少 非 吾
者 多 老 子 變 化 經 大 業
八 年 八 月 十 四 日,
經 生 王 儔 寫 用 紙 四 張 玄 都 玄 壇 道
士 覆 校 裝 潢 人 秘 書 省 寫.
Phiên âm:
[1] Lập
đại thủy đoan, hành hồ đại chi nguyên. Phù ngao u linh không chi. [2]
Nhập yểu minh chi tiên môn. Thân hồ giai chí chi vị biệt.
Hòa thanh trọc chi ngoại.
[3] Phảng phất chi dữ thiết cổ hoảng hốt chi khuếch nhiên sung tràng nhi
chi dung. [4] (?) đồng môn chi tiên. Biên ấn bộ trụ thiên môn. Kỳ sinh
vô tao. Độc lập nhi vô luân. [5] Hành hồ cổ tích, tại thiên địa chi
tiền. Sạ nặc hoàn qui tồn [6] vong tắc vi tiên, thành tắc vi nhân. Hoảng
hốt thiên trọc.
Hóa biến kỳ thần. [7] Thác hình Lý mẫu thai trung. Dịch thân ưu mệnh.
Phúc trung thất thập nhị niên trung, hiện [8] Sở quốc. Lý khẫu tự dữ
kiên giáp hữu tam ngọ đại lý.
Nhật giác, nguyệt huyền. [9] Tị hữu song trụ, nhĩ hữu tam môn; túc
[10] nhị niên (ngũ). Thủ bá thiên quan.
Kỳ tính vô dục; Kỳ hành vô vi. Dục thiên phụ. [11] tá, tam hoàng ỷ tỉ.
Quan chi nặc kiến vô thường bản giai do thử. Di lịch [12] cửu trường.
Quốc tương suy, vương đạo băng hủy, tắc khứ Sở quốc, bắc chi Côn lôn
[13] dĩ thừa bạch lộc, cật kim bất hoàn. Thử giai tự nhiên chi chí tinh,
Đạo chi [14] căn đế. Vi thặng chi phụ mẫu, vi thiên địa chi bản căn, vi
sinh thê đoan [15] vi thần minh chi đế quân, vi âm dương chi tổ thủ, vi
vạn vật chi hồn [16] phách. Điều sướng linh vô
Tạo hóa ứng nhân, sĩ đế bát cực
tải địa huyền thiên.
[17] Du sính nhật nguyệt, hồi tẩu nhật thần. Ha đầu lục giáp.
Thử Kiền Khôn
Kỷ dịch [18] tứ thời. Suy di hàn ôn. Thủ bả tiên tích
ngọc giản kim tự. Xưng dĩ ngân [19] nhân. Thiện sơ phụng đầu; tuyệt
thánh phụ chế, vật ốc mệnh trực, phụ vi chi sinh [20] yên. Lão tử năng
minh, năng minh; năng vong năng tồn, năng đại năng tiểu, năng khuất [21]
năng thân; năng cao năng hạ; năng tung năng hoành; năng phản năng phúc;
vô sở bất [22] thi, vô sở bất năng; tại hỏa bất tiêu; tại thủy bất hàn,
phùng ác bất tật; [23] xúc họa bất hoạn. Yểm chi bất khổ,
thương chi vô bàn.
Trường sinh bất tử, tu diệt [24] thân hình. Ngẫu nhi bất song, chích nhi
bất cơ. Phụ nhi bất ly mạc vu kỳ [25] vô vi dã. Mạc năng bất tùy chi.
Thử Lão tử chi hành dã. Nghiêm giới miểu [26] hĩ. Thành nan tri hĩ. [27]
Lão tử ký sinh cửu trùng chi ngoại. Hình biến hóa tự nhiên. Tử tri ngô
cửu [28] nhân hà ưu tiên. Phù vi sinh đạo, thậm dị nan. Tử học ngô sinh
đạo, vô [29] như trung chỉ, trấp nhật cộng nguyệt đạo tất thương. [30]
Đệ nhất tính Lý, danh Lão Đam tự Nguyên Dương. [31] Đệ nhị tính Lý, danh
Đam, tự Bá Dương. [32] Đệ tam tính Lý, danh Trung, tự Bá Quang. [33] Đệ
tứ tính Lý, danh Thạch, tự Tử Quang. [34] Đệ ngũ tính Lý, danh Thạch, tự
Tử Văn. [35] Đệ lục tính Lý, danh Trạch, tự Tử Trường. [36] Đệ thấtõ
tính Lý, danh Nguyên, tự Tử Thủy. [37] Đệ bát tính Lý, danh Nguyện, tự
Tử Sinh. [38] Đệ cửu tính Lý, danh Đức, tự Bá Văn. [39] Lão tử hợp
nguyên đát, nguyên hỗn thành. Tùy thế trầm phù thoái tắc dưỡng tinh.
[40] Tiên đế vương sư. [41] Hoàng Bao Hi thời, hiệu viết Ôn Sảng tử.
[42] Hoàng Thần Nông thời, hiệu viết Xuân Thành tử, nhất danh Trần Dự.
[43] Hoàng Chúc Dung thời, hiệu viết Quảng Thành tử. [44] Đế Chuyên Húc
thời, hiệu viết Xích Tinh tử. [45] Đế Cốc thời, hiệu viết Chân tử danh
Bích. [46] Hoàng đế thời, hiệu viết Thiên Lão. [47] Đế Nghiêu thời, hiệu
viết Mậu Thành tử. [48] Đế Thuấn thời, hiệu viết Quách Thúc tử hóa hình.
Thuấn lập đàn xuân thu tế tự [49] chi. [50] Hạ Vũ thời, Lão tử xuất,
hiệu viết Lý Nhĩ, nhất danh Vũ sư. [51] Ân Thang thời, hiệu viết Tư
Cung. [52] Chu phụ hoàng thời, hiệu viết tiên vương quốc trụ hạ lại.
[53] Võ vương thời, hiệu viết Vệ Thành tử. [54] Thành vương thời, hiệu
viết Thành tử như cố. [55] Nguyên Khang ngũ niên, Lão tử nhập phụ nữ
phúc trung. Thất thập nhị niên [56] sinh. Thác mẫu tính lý danh Đam, tự
Bá Dương, vi Trụ hạ lại, thất bách niên [57] hoàn biến Sở quốc, nhi Bình
vương cao kiển bất tòng gián. Đạo đức bất lưu, tắc. [58] khứ Sở nhi Tây.
Độ Hàm cốc quan, dĩ ngũ thiên văn dĩ thượng hạ nhị thiên, thụ [59] quan
trưởng Doãn Hỉ. [60] Tần thời, hiệu viết: Kiển Thúc tử. [61] Đại Hồ thời
hiệu viết Phù Khánh quân. [62] Hán thời, hiệu Vương Phương Bình. [63]
Dương gia nguyên niên thủy hiện Thành Đô vi Biển Tước Minh Sơn. [64]
Kiến Khang nguyên niên hóa ư Bạch Lộc sơn thác táng giản. [65] Thái sơ
nguyên niên phục xuất Bạch Lộc miếu trung, trị thôi hiệu viết Trọng Y.
[66] Kiến Hòa nhị niên ư Băng Sơn tốt xuất Thành Đô tả lý thành môn,
hoại thân [67] hình vi chân nhân. Hán tri chi, cải vi Chiếu Dương môn.
Sở quốc tri chi sinh. [68] Tư Mã Chiếu. [69] Vĩnh Thọ nguyên niên phục
hoàn Bạch Lộc Sơn. Hiệu viết Bộc Nhân đại hiền. Vấn [70] bế khẩu bất
ngôn, trấp niên kiến miếu Bạch Lộc, vi Thiên phó. [71] Lão tử viết: ngô
ngao dĩ thanh, ngô sự dĩ minh. Ngô chính dĩ thành ngô biến [72] dịch
thân hình. Thác tử cánh sinh. Chu lưu tứ hải, thời xuất Huỳnh đình. Kinh
lịch [73] độ, tiễn lý Tam hoàng, đới mạo tam thai, bị phục Vô hình. Ngu
giả bất tri [74] Tử phục cánh sinh. Lụy chí vi thân, đồng nhi vi quần.
Ngoại vi vong bộc, nội [75] tự vi chân. Tự ốc câu cảnh, tự hữu tinh
thần; trú dạ niệm ngã, ngô bất [76] hốt vân. Vị mộng tưởng ngô ngã tự
kiến tín, ngô phát động quan Hán, lệnh tự [77] dịch thân. Ngu giả dũng
dược trí giả thụ huấn. Thiên địa sự tuyệt, ngô tự di [78] vận. Đương thế
chi thời, giản trạch lương dân, bất tu tự khứ, đoan chất thủ thân. [79]
ngô tự tri chi, ông dưỡng văn lân. Dục tri ngô xứ, độc ngũ thiên văn
quá. [80] vạn biến. Thủ tự tri thân. Cấp lai nghệ ngã, ngô dữ tinh thần.
Tử đương niệm [81] phụ, phụ đương niệm tử, di hốt tương vong. Khứ chi
vạn lý sở trị giải đãi, thần bất vi sứ; tật lai toại ngã, ngô tuyệt
cương kỷ. Thanh bạch vi biểu, hoàng [83] hắc vi lý. Xích vi sinh ngã,
tòng nhất nhi thủy. Trung hữu hoàng khí, khả tuyệt [84] tửu, giáo tử vi
đạo, tiên đương tu kỷ, điềm bạc tĩnh ninh (xuyên), kiểm kỳ mãn thủ, [85]
vô vi vô dục, bất ưu hoạn cốc (khổ) Đạo lai phụ, thân khả độ hĩ. Tinh tư
[86] phóng ngã, thần vi tẩu sứ. Ngô hành cương, ngô canh thắng phụ. Sinh
khí tại tả, [87] nguyên khí tại hữu, trung hữu hoàng khí Nguyên dương vi
thượng, thông Vô cực cửu cung. [88] Đồng tử tinh chi, tư chi, khả dĩ
thành kỷ. Nhất mẫn đạo thành, giáo cáo chư [89] tử; ngô lục độ. Thái
bạch hoành lưu, tật lai trục ngã, nam nhạc tương cầu, khả [90] dĩ độ
nguy. Khủng tử kê lưu, lập xuân Quí tị phóng túng tội tù, ngũ cốc [91]
kinh khởi, dân nhân hữu ưu, tật bệnh dục chí. Ngạ giả tung hoành, ngô
chuyển [92] xung chàng Hán sự. Ngô dân văn chi, tự hữu chí khí, bỉ tự
đống vô tính [93] tự. Nhân Hán tự thức, vạn dân kiến đoan trực thực tâm,
nãi tri ngô sự. [94] Hợp tri thánh giả tập ngô ý, tà tâm, ngận tính vị
ngã hà nhân; ngô dĩ [95] độ số, xuất hữu thời tiết nhi hóa. Tri ngô giả
thiểu, phi ngô giả đa. [96] Lão tử biến hóa kinh. [97] Đại nghiệp bát
niên, bát nguyệt, thập tứ nhật, Kinh Sinh, Vương Trù tả [98] dụng chỉ tứ
trương [99] Huyền đô, Huyền đàn đạo sĩ phúc hiệu. [100] Trang Hoàng
nhân. [101] Bí thư tỉnh tả.
Dịch nghĩa:
1.
Những từ có trước đất trời,
Vui
trong thái thủy tuyệt vời ngao du.
2.
Thung dung từ thủa thái sơ,
Khi
còn chưa có bến bờ đục trong.
4.
Tịch nhiên tiêu sái, (5.) vô song,
Trước
trời, trước đất thung dung vui hòa.
Hai bề
ẩn, hiện lại qua,
6. Ẩn
là Thái nhất, hiện ra là người.
Đục
trong biến chuyển dòng đời,
Thần
ngài mới mượn hình hài thế nhân.
7.
Mượn lòng Lý mẫu giáng trần,
Bảy
hai năm chẵn gửi thân mẹ lành.
8.
Mượn nơi đất Sở giáng sinh,
Môi
dày, miệng rộng, thiên đình nở nang.
Có văn
tam ngũ rõ ràng,
Hai
vừng nhật nguyệt ẩn tàng quang hoa;
9. Mũi
hai sống, lỗ tai ba,
10.
Chân hai chữ ngũ, tay hoa số mười.
Thiên
nhiên vô dục tính trời,
Vô vi
ấy chính nết người ở ăn.
Giúp
trời lại giúp thánh quân.
11.
Tam hoàng âu cũng nhờ ân hộ trì.
Đời
người ẩn ước ly kỳ,
Biến
thiên ảo hóa huyền vi khôn lường.
12.
Gặp khi vận nước nhiễu nhương,
Hôn
quân vô đạo tìm đường ẩn thân,
Giã từ
nước Sở, lánh trần,
Cưỡi
con bạch lộc băng chừng Côn Lôn,
Dặm
Tần mù mịt nguồn cơn,
13.
Người xưa vết cũ, nay còn thấy đâu.
Tinh
hoa trời đất gồm thâu.
14.
Đạo trời đạo đất gót đầu chốt then.
Sinh cơ chủ chốt diệu huyền,
15.
Muôn thần, vạn thánh mọi miền, quản cai.
Âm
dương mặc sức phân phôi,
Là
hồn, là phách muôn loài thụ sinh.
16. Hư
vô chưởng quản mặc tình,
Biến
thiên huyền hóa siêu linh tuyệt vời.
Bao
trùm khắp tám phương trời,
Đất
thời lo chở, trời thời lo treo.
17.
Ruổi rong nhật nguyệt khinh phiêu,
Tinh
huy vận chuyển muôn chiều chẳng ngơi.
Chư
thần Lục Giáp nương hơi,
Càn
khôn cũng mặc ý người ruổi rong.
18. Tứ
thời chuyển biến thong dong,
Hai
chiều nóng lạnh mặc lòng xở xoay.
Tiêu
phù cầm gọn nơi tay,
Chữ
vàng, thẻ ngọc sẵn bày từ khi.
20.
Lão quân sáng tối tùy nghi
Tồn
vong, đại tiểu, cao đê tung hoành.
21.
Khuất thân, tiến thoái mặc tình,
22.
Không gì thoát khỏi uy linh của người.
Đi vào
nước lửa như chơi,
Dầu
lâm họa hoạn, pha phôi nhẽ nào.
23.
Gặp cơn bức bách chẳng sao,
Vương
thương, vết tích tơ hào chẳng khi.
Trường
sinh chẳng có hạn kỳ,
24.
Tiêu thân, diệt thể, quyền uy vô ngần.
Sánh
đôi mà vẫn đơn thân,
Cô đơn
mà vẫn chẳng phần lẻ loi.
Ngài
luôn gần gũi con người.
25.
Không ai có thể sánh tài vô vi,
Chẳng
ai mà chẳng phải tùy,
Người
người đều dõi bước đi của ngài.
Hành
vi Lão tử để đời,
26.
Lời ngài giảng dạy, mấy người tinh thông.
27.
Ngài sinh ngoài cõi cửu trùng,
Những
điều biến hóa mung lung khôn lường.
Biết
ta chín kiếp nhân lương,
28.
Đời ta mà biết lối đường ta hay.
29.
[Không
dịch]
[52]
Ta là
chín vị sau đây.
30-38
Họ
姓 |
Tên
名 |
Tự
字 |
1. Lý
李
2. Lý
李
3. Lý
李
4. Lý
李
5. Lý
李
6. Lý
李
7. Lý
李
8. Lý
李
9. Lý
李 |
Lão Đam
老聃
Trung
中
Thạch
石
Thạch
石
Trạch
宅
Nguyên
元
Nguyện
願
Đức
德 |
Nguyên Dương
元陽
Bá Dương
伯
陽
Bá Quang
伯
光
Tử Quang
子
光
Tử Văn
子
文
Tử Trường
子
長
Tử Thủy
子
始
Tử Sinh
子
生
Bá Văn
伯
文 |
39.
Ngài sinh cùng với Hư vô,
Tùy
thời ly hợp trầm phù tiến lui.
Khi
lui, nguyên thể tài bồi,
40.
Đến khi tiến bước, dạy đời, dạy vua.
41.
Thời Phục Hi, tên Ôn Sủng tử,[53]
42.
Thời Thần Nông, lấy chữ Xuân Thành;[54]
43.
Thời Chúc Dung, gọi Quảng Thành,[55]
44.
Đến đời Chuyên Húc, Xích Tinh là người.
[56]
45.
Thời Đế Cốc, tên ngài Chân tử,[57]
46.
Thiên Lão khi cộng sự Hiên Viên;[58]
47.
Thời Nghiêu, tên gọi Mạo Thiềng,[59]
48.
Thời Thuấn, Quách Thúc là tên của ngài.
[60]
50.
Thời Hạ Võ, tên thời Lý Nhĩ,[61]
51.
Thời Ân Thang, đích thị Tư Cung.
[62]
52.
Đời Văn, ngài thủ thư tàng,[63]
53.
Đến đời vua Võ, tên mang Vệ Thành.
[64]
54.
Đời Thành vương, tên Thành gọi lại,[65]
55.
Nguyên Khang 5, lại tái giáng trần;[66]
Trong
lòng mẹ bảy hai năm,
56. Ra
đời mới gọi tên bằng Lý Đam.
Ngài
cũng có Bá Dương là tự.
Và
từng là quản thủ thư tàng;
Bảy
trăm tuế nguyệt chứa chan,
57.
Băng chừng Sở quốc, lai hoàn cố hương.
Lại
gặp khi Bình vương ngoan cố.
Đạo
đức trời tới độ suy vi.
58.
Ngài liền bỏ Sở ra đi,
Băng
chừng tây tiến lâm ly dặm trường.
59.
Đến Hàm Cốc, gặp quan Doãn Hỉ,
Đạo
đức kinh ngài ký thác cho;
60.
Thời Tần, Kiển Thúc cũng là,[67]
61.
Tên ngài Phù Khánh
[68] thời Hồ nhiễu nhương.
62.
Thời nhà Hán, Vương Phương Bình gọi,[69]
(Mỗi
khi cần, ngài mỗi hiện ra;)
63.
Năm đầu niên hiệu Dương Gia,[70]
Thành
đô núi Tước hiện ra đường hoàng.
64.
Năm đầu niên hiệu Kiến Khang,
Đỉnh
non Bạch Lộc, rỡ ràng quang hoa.
[71]
65.
Năm đầu niên hiệu Thái Sơ,
Nơi
đền Bạch Lộc hiện ra với đời.
[72]
66.
Kiến Hòa vào khoảng năm 2,
Lão
quân lại hiện cửa ngoài Thành đô.
[73]
69.
Năm đầu Vĩnh Thọ hiện ra,
Đầu
non Bạch Lộc xưng là Bộc Nhân.
[74]
Những
là lẳng lặng trầm ngâm,
Dẫu ai
gạn hỏi cũng không trả lời.
70.
Đời sau lập miếu thờ ngài,
Xưng
ngài Thiên Phó, tên ngài hiển linh.
[75]
71.
Ngài rằng:
Ta vui
trong cảnh Thái thanh,
Quang
hoa xử sự, tinh thành trị dân.
72.
Nhiệm huyền biến hóa tấm thân,
Lấy
tuần lâm tử, làm tuần phục sinh.
Chu du
bốn biển phiêu khinh,
Tứ
thời bát tiết Huỳnh đình vào ra.
Dòng
đời khinh khoát vượt qua,
73.
Tam hoàng mỗi bước ta đà theo chân.
Tam
thai ta đội làm khăn,
Áo ta
đã được dệt bằng Hư vô.
Phàm
phu sao biết được ta,
74. Tử
sinh, phản phục, biết là bao phen.
Dân ta
đông đảo muôn miền,
Phàm
phu ngoài mặt, mà tiên đáy lòng.
75.
Quang huy thu liễm vào trong,
Tinh
thần sung mãn bởi không hao gầy.
Ai về
ta tưởng đêm ngày,
76. Ta
luôn phù trợ phút giây chẳng rời.
Ai mà
mơ đến ta hoài,
Hiển
linh, ta sẽ vì người hiện ra.
Cơ đồ
nhà Hán phôi pha,
77.
Xót vì, ta lại sinh ra ở đời.
Phàm
phu nhảy nhót dể duôi,
Nhưng
mà trí giả nghe lời bảo ban.
Đất
trời nghiêng ngửa nguy nàn,
78. Ta
bèn chuyển hóa mà toan cứu đời.
Nay ta
lựa chọn hiền tài,
79.
Người hay người phải, ta thời nhận ra.
Những
ai mà muốn tìm ta,
80.
Sách ta hãy đọc cho qua vạn lần,
Tộâi
khiên phải biết tự tân,
Làm
người tri kỷ, tri thân mới là.
Ta đây
chẳng ở đâu xa,
Thần
người cùng với Thần ta khác nào.
81.
Cha con tưởng nhớ gần sao,
Bằng
không nhớ tưởng, xa bao dặm đường.
Chớ
nên biếng nhác buông tuồng,
82.
Biếng lười, thần có cũng nhường như không.
Theo
ta mau mắn mới mong,
Mới
mong ta tháo gỡ tung buộc ràng.
Trắng,
xanh ngoài mặt ngỡ ngàng,
83.
Vàng, đen ẩn áo tiềm tàng bên trong.
Sinh
ta, màu đỏ ấy công,
Ta
sinh từ Nhất, từ trong điểm vàng.
84.
Rượu nồng người chớ có ham,
Để ta
đem đạo, chỉ đàng nẻo cho.
Tu
thân người phải nên lo,
Tâm
thần an tĩnh, lòng hồ như vơi!
85. Vô
vi, vô dục thảnh thơi,
Lầm
than, hoạn nạn có đời nào đâu !
Cốc
thần khăng khít trước sau,
Con
đường giải thoát cơ mầu là đây.
86.
Lìa ta, suy tưởng dông dài,
Tâm
thần lạc lõng, càng ngày càng mê.
Cương
nhu cân nhắc mọi bề,
Hai
chiều thành bại, đi về do ta.
Tả
biên sinh khí mới là,
87.
Hữu biên tử khí, giữa là Hoàng trung.
Giữa
là Hoàng khí mung lung,
Nguyên
dương nghi ngút muôn trùng cửu tiêu.
88.
Khuyên chư đồng tử sớm chiều,
Tiềm
tâm tu luyện, để theo Đạo mầu.
89. Ta
đà căn dặn từ lâu,
Kim
tinh lệch lạc thì cầu tới ta.
Mau
mau rong ruổi mới là,
90.
Gặp ta Nam Nhạc, sẽ qua nguy nàn.
Chớ
đừng bịn rịn tơ vương,
Xuân
ngày Quí tỵ nên thương thả tù.
91.
Đâu đâu dân cũng âu lo,
Bệnh
tình chất ngất, ngã cơ đầy đường.
Ta nay
hoán cải mối giường,
92. Cơ
đồ nhà Hán tan hoang từ rày.
Dân ta
đã biết, đã hay,
Tránh
điều vạ gió, tai bay sá nào.
93.
Những người thành khẩn thanh cao,
Việc
ta thông tỏ tơ hào khó chi.
94. Ý
ta hiền thánh minh tri,
Phàm
phu nào biết vân vi gót đầu.
95.
Bao lần giáng thế trước sau,
Theo
dòng lịch sử cơ mầu biến thiên.
Hiểu
ta hỏi mấy thánh hiền,
Chê
ta, vô số phàm hèn bấy nay.
Khảo sát
ba tiểu sử nói trên ta có những nhận xét sau đây:
1. Càng
theo đà thời gian, tiểu sử Lão tử càng trở nên huyền thoại.
- Tiểu sử
do Tư Mã Thiên (145-86 trước công nguyên) gần thực tế nhất, mô tả Lão tử
như một ẩn sĩ, một hiền triết có gia đình con cái như mọi người, bất quá
là sống lâu hơn người thường, biết đường tu luyện hơn người thường.
- Lão tử
minh, do Biên Thiều tạc năm 165 công nguyên, đã thấy có nhiều phần huyền
thoại.
- Lão tử
biến hóa kinh, viết khoảng năm 612 công nguyên, đã thấy đầy rẫy những
huyền thoại.
Ta sẽ
toát lược những huyền thoại ấy và giải thích những huyền thoại ấy. Tất
cả những huyền thoại về Lão tử có thể toát lược như sau:
- Ngài có
một cuộc thai sinh kỳ bí: ở trong lòng mẹ bảy mươi hai năm, lúc sinh ra
đã bạc đầu.
- Ngài có
trước trời đất, sống vĩnh cửu cùng với đất trời.
- Ngài là
Thượng đế giáng trần nhiều lần từ xưa tới nay để cứu độ chúng sinh.
Về cuộc
thai sinh kỳ bí của Lão tử, ta không thấy có gì lạ, vì dân gian xưa nay
đều thêu dệt rất nhiều huyền thoại quanh cuộc thai sinh của vị giáo chủ
mình.
2. Một
đặc điểm khác trong tiểu sử của đức Lão tử cho thấy rằng ngài có từ
trước đất trời, sống vĩnh cửu cùng với đất trời.
Trong Lão
tử minh ta thấy những câu:
«Ngài
cùng với hỗn nguyên ly hợp,
Với
tam quang ngài vượt thời gian.»...
[77]
«Rằng
ngài trước đất trời sinh xuất,
Chính
vì ngài chẳng mất lòng son.
Thiên
chân giữ được vẹn tròn,
Cho
nên ngũ phúc chẳng còn thiếu chi.»
Lão tử
biến hóa kinh viết:
«Những
từ có trước đất trời,
Vui
trong Thái thủy tuyệt vời ngao du.»...
[79]
«Trường sinh chẳng có hạn kỳ,
Tiêu
thân diệt thể, quyền uy vô ngần.»
Khảo
Trang tử ta cũng thấy có câu:
«Ta và
trời đất cùng sinh,
Ta và
vạn vật sự tình chẳng hai.»
Khảo Phúc
âm, ta thấy chúa Jesus xưng mình có trước vua David.
Tất cả
những sự kiện trên chỉ có thể hiểu được nếu chúng ta chấp nhận con người
có:
- Phần
Thiên, phần Thần, bất sinh bất tử mà Lão tử gọi là Đạo, nho gia gọi là
Thái cực, Bà la môn gọi là Atman, Phật giáo gọi là Chân như hay Bản lai
diện mục.
- Phần
nhân, phần tâm, phần hồn, có sinh, có tử mà ta thường gọi là phàm tâm,
hay tiểu ngã, vọng ngã.
Các huyền
thoại trên cho thấy xưa nay con người đều mơ ước bất tử chính là vì đã
thấu đáo được sự huyền nhiệm ấy. Còn dân gian thì chỉ hiểu lơ mơ vấn đề,
qua trung gian các huyền thoại còn sót lại.
3. Một
huyền thoại đáng chú ý hơn nữa là từ thời nhà Hán. Lão tử đã được coi
như là Thượng đế, chẳng những giáng trần một lần mà đã giáng trần nhiều
lần.
Khảo lịch
sử Trung Hoa ta thấy từ thời thượng cổ các vua chúa đã tế lễ Thượng đế
hoặc Thái nhất ở Nam Giao. Năm 123, đời Hán Vũ đế ta thấy Mậu Kỵ 謬忌
người đất Bạc 亳 đã làm sớ tâu xin Hán Vũ đế thờ Thái nhất. Mậu Kỵ tâu
rằng Thái nhất trọng hơn chư thần. Ngũ đế chỉ là những cộng sự viên của
Thái nhất.
Lịch sử
ghi rằng: sáng ngày đông chí năm 113, Vũ đế dùng lễ Giao để tế Thái
nhất.
Khảo thư
tịch đạo Lão ta lại thấy rằng Ngọc Hoàng Thượng đế thực ra có ba ngôi,
tuy danh hiệu khác nhau nhưng đồng một bản thể.
Ba ngôi đó là:
(1)
Nguyên thủy Thiên tôn, hay Thiên bảo quân, hay Ngọc hoàng ở cung Ngọc
thanh.
(2) Linh
bảo Thiên tôn hay Linh bảo quân ở cung Thượng thanh.
(3) Thần
bảo Thiên tôn hay Lý Lão quân hay Lão tử ở cung Thái thanh.
Linh mục
Wieger cho rằng quan niệm «tam vị nhất thể» của đạo Lão này đã được vay
mượn của Thiên chúa giáo, qua trung gian Giáo phái Nestoriens. Giáo phái
này có lẽ đã truyền sang Trung Quốc từ đời Đường. Đời Đường, ở Chu Ốc 周
屋 cách Tây Nam Phủ 100 dặm có một dòng tu Nestoriens. Năm 781 họ đã dựng
một bi ký, mà gần đây các nhà khảo cổ đã đào được.
Sự giải
thích của Wieger mới đầu tưởng hữu lý, nhưng rút cuộc cũng không ổn, vì
Nestorius sinh khoảng năm 380, chết khoảng năm 440 công nguyên, mà Lão
tử đã được coi như là Thượng đế giáng trần từ thời nhà Hán, ít nhất là
từ năm 165 công nguyên, như Lão tử minh đã ghi.
Đọc quyển
La Divinisation de Lao Tseu dans le Taoïsme des Han của Anna K.
Seidel do École Française d’Extrême Orient xuất bản năm 1969 với những
tài liệu chứng minh một cách hết sức hùng hồn, ta liền thấy lập luận của
Wieger không đứng vững. Ta nên nhớ đạo Lão bắt đầu thịnh từ thời Hán Vũ
đế (140-87 trước công nguyên). Còn giáo phái Nestorianisme chỉ được
truyền vào Trung Hoa khoảng năm 635 đời Đường Thái tông.
Như vậy muốn hiểu sự kiện «Lão tử được coi là một phân thân của Thượng
đế giáng trần» cho đứng đắn, ta phải giải thích như sau:
(1) Xưa
nay các thượng trí, thượng nhân đều tin rằng Trời chẳng xa người.
(2) Thiên
đạo hay huyền học, chỉ cốt dạy người chân lý thiết yếu ấy.
(3) Thánh
nhân, chân nhân là những người đã sống phối kết với Thượng đế, vì thế
nên được đồng hóa với Trời. Huyền thoại về Lão tử ở Trung Hoa là một
bằng cứ. Huyền thoại về Krishna trong Bhagavad-Gita là một bằng cứ khác.
Các nhà huyền học Hồi giáo cũng thường xưng mình là Chân lý, là Thượng
đế. Al-Hallaj, một thánh nhân Hồi giáo thường xưng mình là Chân lý, là
Trời nên đã bị cầm tù từ năm 915 đến ngày 23 tháng 3 năm 922 thì bị xử
tử vì tội dám phối hợp lẫn lộn trời người (confondre le divin et
l’humain) gây hoang mang cho mọi người.
Al-Hallaj
đã nói: «Ta là đấng ta yêu, Đấng ta yêu là ta. Chúng ta là hai thần
trong một xác. Nếu bạn thấy ta bạn sẽ thấy ngài, nếu bạn thấy ngài, bạn
sẽ thấy ta.» Ta có thể dịch thành thơ như sau:
Ta
cùng với đấng ta yêu,
Hai
đàng là một, khôn chiều qua phân.
Một
thân mà có hai thần,
Thấy
ta, thấy Chúa cũng ngần ấy thôi.
Kỳ lạ
thay những lời lẽ này có âm hưởng như lời lẽ trong Phúc âm Jean: «Ai đã
thấy ta, tức là thấy Cha. Sao ngươi lại nói rằng: Xin chỉ Cha cho chúng
tôi? Ngươi, há không tin rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta hay sao?»
Sự tháo
gỡ những huyền thoại về Lão tử, cho ta trông thấy rõ căn cơ con người,
mà Lão tử là một tượng trưng, và định mệnh con người, mà Lão tử là một
trong những người đã thực hiện được. Nó cũng giúp ta hiểu rõ nhiều huyền
thoại của các đạo giáo thế giới. Bàn cãi rộng hơn cũng không lợi gì
thêm. Ta có thể tạm kết thúc bằng một lời trong sách Khải huyền (Apocalypse):
«Kẻ nào thắng, ta sẽ cho ngồi với ta trên ngôi ta, như chính ta đã thắng
và ngồi với Cha ta trên ngôi Ngài.»
Hàm Cốc
Quan: Quan lệnh Doãn Hỉ bái Lão Tử, xin Lão Tử viết quyển Đạo Đức Kinh
II.
ĐẠI CƯƠNG ĐẠO ĐỨC KINH
Đạo
đức kinh
của Lão tử chia làm hai phần:
Thượng
kinh gồm ba mươi bảy chương, 2140 chữ, bắt đầu bằng chữ Đạo
道.
Hạ kinh
gồm bốn mươi bốn chương (từ chương 38 đến hết chương 81), 2815 chữ, bắt
đầu bằng chữ Thượng đức
上 德.
Vì thế
nên gọi là Đạo đức kinh
道 德 經.
Tổng cộng toàn kinh có tám mươi mốt chương, 4999 chữ.
Đạo đức
kinh là một quyển sách nhỏ, nhưng nổi tiếng là khó hiểu xưa nay. Mỗi
người bình giải một cách, Tây có, Tàu có, Việt có, không biết cơ man nào
là người bình, mà bức màn bí mật nhiều khi vẫn còn nguyên vẹn.
Riêng Lão
tử thời cho rằng quyển Đạo đức kinh là một quyển sách dễ hiểu, có mạch
lạc. Đạo đức kinh chương 70 viết:
Lời ta
dễ biết dễ làm,
Nhưng
mà thiên hạ chẳng am chẳng tường.
Lời ta
nói có chủ trương,
Việc
ta vốn có lối đường chốt then.
Nhưng
mà tục tử ngu hèn,
Hiểu
ta chẳng nổi chuyện xem thường tình.
Hiểu
ta mấy bậc tinh anh,
Ít
người hiểu nổi nên danh càng lừng.
Xưa
nay các bậc thánh nhân,
Ngọc
tàng dưới lớp áo quần xác xơ.
Vậy trước
khi đi vào Đạo đức kinh ta phải tìm cho ra những lối đường, những then
chốt của Đạo đức kinh. Trước hết chúng ta sẽ phải ghi nhận rằng Lão tử
là một bậc chân nhân đã sống phối kết với Trời.
Theo danh
từ châu Âu hiện đại, thì ngài là một nhà huyền học. Nói như vậy, tức là
ngài không phải là Thượng đế giáng trần để cứu nhân loại, như người
Trung Hoa thời Hán đã suy tôn, mà ngài chính là một con người, nhờ công
phu học hỏi, nhờ công phu tu luyện đã liễu đạt được chân tính con người,
đã sống phối kết với Thượng đế.
Suy tôn
ngài là Thượng đế giáng trần chẳng những một lần mà nhiều lần để cứu
nhân loại như Biến hóa kinh chủ trương hay là một con người bất tử đã
sang cả Ấn Độ dạy đạo cho đức Phật như Hóa Hồ kinh chủ trương, thực ra
cũng chẳng có lợi gì cho chúng ta, vì như vậy chúng ta không có cách nào
để tìm cho ra đường lối ngài.
Ngược
lại, coi ngài là một người học vấn, vì tu luyện đã tìm ra được chân đạo,
đã đạt tới trạng thái cực cao minh linh diệu của con người, sẽ giúp ta
hiểu đạo ngài, và giúp ta biết đường theo chân nối gót ngài.
Cát Hồng
tiên ông
葛 洪 仙 翁
viết:
«Các học giả có óc hẹp hòi đã coi Lão tử như là một người trời siêu xuất
quần sinh và khuyên các thế hệ tương lai bắt chước ngài; nhưng làm thế
tức là ngăn cản không cho mọi người tin được rằng có thể nhờ học hành mà
tìm ra được bí quyết trường sinh bất tử. Thực vậy, nếu Lão tử chỉ là một
hiền nhân đã đắc đạo, thì mọi người phải hết sức để theo gương bắt chước
ngài. Nhưng nếu ra nói rằng: đó là một nhân vật đặc biệt, có thiên tính
thì ta không thể nào bắt chước ngài được nữa.»
A.
Lão tử một con người hiếu cổ
Thực ra
đức Lão tử không phải là người đầu tiên đã khám phá được Chân đạo, Chân
lý. Nhiều người trước ngài đã khám phá và đã thực hiện được Chân đạo,
Chân lý. Trong Đạo đức kinh Lão tử nhiều lần đã long trọng tuyên dương
đời sống cao siêu của người xưa, những phương châm cao đại của người
xưa, mục đích cao đại của người xưa.
Ngài để
cả chương 15 để mô tả lại đời sống huyền diệu của các nhà huyền học đời
xưa. Ngài viết:
Ai
người xưa khuôn theo Đạo cả,
Sống
huyền vi rất khó tri tường.
Nay ta
gạn ép văn chương,
Hình
dung dáng dấp liệu đường phác ra.
Họ e
ấp như qua băng tuyết,
Họ ngỡ
ngàng như khiếp láng giềng.
Hình
dung phong thái trang nghiêm,
Băng
tan, tuyết tán như in lạnh lùng.
Họ đầy
đặn in chừng mộc mạc,
Nhưng
phiêu khinh man mác hang sâu.
Hỗn
mang ngỡ nước đục ngầu,
Đục
ngầu lắng xuống một mầu trong veo.
Ngỡ ù
cạc một chiều an phận,
Nào ai
hay sống động khôn lường.
Phù
hoa gom góp chẳng màng,
Đã say
đạo cả coi thường phù hoa.
Sống
ẩn dật không phô thanh thế,
Việc
thế gian hồ dễ đổi thay...
Nơi
chương 41, ngài viết:
Lời
xưa đã từng khi truyền tụng,
Biết
đạo thời như vụng như đần.
Tiến
lên mà ngỡ lui chân,
Tới
bên đạo cả mà thân tưởng hèn, v.v.
Nơi
chương 42, ngài nhắc lại một phương châm của người xưa:
Người
xưa dạy câu này chí lý,
Ta
cũng đem ta chỉ cho đời:
Xin
đừng bạo động ai ơi,
Ai mà
bạo động chết thôi bạo tàn.
Đó lời
«then chốt» ta ban.
Nơi
chương 68, ngài viết: «Sống kết hợp với Trời là tuyệt điểm của đời
xưa...»
- Liệt tử
cho rằng câu: «Cốc thần bất tử, thị vị Huyền tẫn» đã có trong
Hoàng đế thư.
- Trang
tử cho rằng câu: «Thất Đạo nhi hậu đức... thất nghĩa nhi hậu lễ, v.
v.» là lời của Hoàng đế.
- Hàn Phi
tử cho rằng câu: «Tương dục hấp chi, tất cố trương chi, v. v.» là
lời của Chu thư.
- Các
chương 22, 46, 57, 69, 78 đều trích dẫn cổ thư.
Xem như
vậy, thì Lão tử:
1. Chuộng
cổ nhân.
2. Mộ đạo
cổ nhân.
3. Yêu
nếp sống thiên nhiên của cổ nhân.
4. Đã đạt
tới tinh hoa mà cổ nhân đã đạt.
5. Muốn
làm sống lại nếp sống của cổ nhân, về phương diện cá nhân cũng như về
phương diện chính trị.
Cũng nên
ghi nhận rằng về phương diện hiếu cổ, hoài cổ này Lão tử hoàn toàn giống
Khổng tử.
Trong
Luận Ngữ, Khổng tử cũng nói:
«Ta
trần thuật, chứ không sáng tạo,
Tin cổ
nhân mộ đạo cổ nhân.»
[98]
Như vậy
người xưa phải có cái gì đẹp đẽ, siêu việt cho nên, các thánh hiền sau
này mới ra công khai thác, bảo vệ và lưu lại cho hậu thế.
Cái tinh
hoa, siêu việt của người xưa là gì?
1. Người
xưa sống gần Đạo, gần Trời.
Đã đành
không phải người xưa đều có diễm phúc sống gần Đạo, gần Trời, nhưng chắc
chắn là đã có một số người đạt được cực điểm tinh hoa đó.
Ngày nay
chúng ta gọi họ là những người có «tâm địa ban sơ» nghĩa là những tâm
hồn sống kề cận với căn bản, với cốt cách con người.
Đó là
những người hãy còn hồn nhiên toàn vẹn, chưa bị pha phôi bởi vọng niệm,
tư tâm, kiến văn, kiến thức.
2. Những
người xưa ấy sống trong cảnh tĩnh lãng buổi thái sơ, có một tâm thần hồn
nhiên tiêu sái; không bị dục vọng cuốn lôi; danh lợi dụ dỗ, họ như sống
trên một vùng Đào nguyên, ngoài dòng biến thiên của lịch sử, ngoài sự
quay cuồng của hồng trần.
Còn chúng
ta ngày nay như là những người đang ở trong một thời kỳ tăm tối, bị đà
thời gian lôi cuốn đến nỗi phải điêu đứng hao mòn, không còn cái duyên
may là được thường xuyên tiếp xúc với những gì linh thiêng siêu việt như
người xưa nữa.
3. Người
xưa tóm lại y như sống ngoài sự vận chuyển của thời gian, sống trong
trạng thái ban sơ (état primordial), hồn nhiên, toàn mỹ, không bị những
tập tục xã hội ràng buộc; không bị những nhà cầm quyền với những luật
pháp khắt khe chèn ép.
Lão tử đã
gợi lại cuộc đời lý tưởng ấy, và cố gắng giải thoát con người khỏi những
thằng thúc do những tập tục, những qui ước của nhân quần xã hội và lịch
sử gây nên.
B.
Lão tử là một nhà huyền học
Nói Lão
tử là một nhà huyền học, nhiều người tưởng như vậy sẽ hạ giá Lão tử.
Trái lại, nếu chúng ta hiểu rõ thế nào là huyền học, ta sẽ thấy đó là
một huy hiệu rất cao siêu.
Huyền học
(mystique) là một danh từ hiện đại tặng dữ cho những ai có một đời sống
siêu nhiên mãnh liệt, ý thức như đã tiếp xúc được với luồng quyền lực vô
biên củavũ trụ.
Những nhà
huyền học là những người:
1. Có tâm
thần rất thông minh, tinh tế
2. Nhìn
thấy Đạo, thấy Trời nơi tam khảm mình
3. Nhận
thức được tấn tuồng biến thiên ảo hóa của vũ trụ cũng như của lịch sử
nhân quần.
4. Cố tu
luyện, cố thanh lọc tâm thần để đi đến chỗ cao minh linh diệu.
5. Sống
phối hợp với Trời, coi mình là hiện thân của Thượng đế.
Các nhà
huyền học đông cũng như tây đều tin tưởng rằng sau bức màn hiện tượng
biến thiên chất chưởng, còn có một Bản thể siêu việt, tuyệt vời.
Các ngài
không biết dùng danh từ gì để mô tả Tuyệt đối thể ấy cho hay, cho xứng,
cho nên hoặc là tuyên bố mình bất lực trước Tuyệt đối vô biên ấy, hoặc
là dùng những danh từ tiêu cực, mơ hồ để diễn tả, để đề cập đến Tuyệt
đối thể ấy.
Các ngài
cho rằng con người sinh ra phải tìm cho về được nguồn mạch linh thiêng
huyền diệu ấy, và tất cả các sự biến hóa của vũ trụ lúc chung cuộc cũng
kết thực trong đại thể vô biên vô tận ấy.
Mà nguồn
mạch linh thiêng huyền diệu ấy đã tiềm ẩn ngay trong lòng con người. Con
người chỉ việc lắng lòng lại, chỉ việc thu thần định trí, nhìn sâu vào
tâm khảm mình sẽ tìm ra được Bản thể siêu việt huyền nhiệm ấy.
Tìm ra
được rồi, chỉ việc sống một cuộc đời khiêm cung, giản dị, hồn nhiên,
tiêu sái, hạnh phúc.
Từ nay
không còn lo âu, không còn háo hức, vì biết rằng ngoại cảnh chẳng qua
chỉ là những tấn tuồng phù du hư ảo. Từ nay sẽ thoải mái, hạnh phúc vì
biết rằng mình đã nắm giữ được một cái gì quí báu nhất, linh thiêng nhất
trần gian.
C.
Toát lược Đạo Đức kinh
Trong
quyển Đạo Đức kinh tất cả tư tưởng của Lão tử đều xoay quanh mấy vấn đề
then chốt đó.
(a).
Thoạt đầu sách, Lão tử đã đề cập đến Đạo.
Chữ Đạo
đây phải được hiểu là Tuyệt đối thể bất khả tư nghị, vô biên tế, là căn
cơ, là nguồn gốc muôn loài.
Ngoài
chương đầu sách, Lão tử còn đề cập đến Đạo, đến tính chất của Đạo, đến
quyền năng của Đạo ở các chương: 4, 14, 21, 25, 32, 34, 51.
(b). Còn
chữ Đức phải được hiểu là sự hiển dương của Đạo.
Thánh nhân chính là sự hiển dương tuyệt vời của Đạo, cho nên cũng được
gọi là Thượng đức
上 德
nơi đầu
chương 38, tức là chương đầu của Hạ kinh.
(c). Sau
khi đã hiểu Đạo là bản thể của vũ trụ, là trục cốt của vũ trụ, thì những
sự biến thiên bên ngoài đều được coi là tương đối không mấy đáng cho ta
quan tâm
(Xem các chương 2 và 36). Mục đích của cuộc biến hóa chính là sự trở về
hiệp nhất với Đạo (chương 42).
(d).
Thánh nhân là những người lãnh hội được đạo thể, thực hiện được đạo thể
nơi mình, nên không ra khỏi nhà mà vẫn thấu suốt thiên hạ sự
(chương 47). Các ngài sống khiêm cung đơn sơ, hồn nhiên, tiêu sái, phối
hợp với trời, treo gương sáng cho đời, sống giữa hồng trần mà chẳng
vương tục lụy, chẳng để cho vinh nhục lợi danh và những thú vui giác
quan làm tản lạc tâm thần, mờ ám lương tâm (Xem các chương 4, 7, 8, 9,
10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 26, 27, 28, 29, 30, 33, 34, 35, 37, 38,
41, 44, 45, 47, 48, 49, 50, 55, 63, 64, 66, 67, 71, 72, 79, 81).
(e).
Nguyện ước của Lão tử là muốn cho mọi người đắc Nhất, đắc đạo, để trần
hoàn này sống trong thanh bình hoan lạc
(các chương 39 và 46).
Chương
53, ngài viết:
Đạo
trời tu dưỡng nơi mình,
Trước
sau ắt sẽ tinh thành chẳng sai.
Gia
đình tu đạo hôm mai,
Đức
Trời ắt sẽ láng lai tràn trề.
Đạo
Trời giãi sáng làng quê,
Đức
Trời ân cũng thêm bề quang hoa.
Đạo
Trời rạng chiếu quốc gia,
Đức
Trời lai láng tuôn ra vô ngần.
Đạo
Trời soi khắp gian trần,
Đức
Trời âu sẽ muôn phần mênh mang...
(f). Con
đường tu luyện của ngài rất là giản dị:
- Không
tập thở, tập hít,
- Không
cần tư thế ngồi thiền,
- Không
cầu trường sinh bất tử cho thân xác.
- Không
nấu thuốc luyện đơn, cũng không cầu linh chi, linh thảo, tuyệt thực,
tuyệt cốc.
Nơi
chương 30, ngài viết:
Người
đức cả coi thường tục đức,
Thế
cho nên thơm phức hương nhân.
Phàm
phu nệ đức phàm trần,
Cho
nên xơ xác thêm phần xác xơ.
Người
đức cả vô vi khinh khoát,
Người
phàm phu lao tác tây đông.
Người
nhân dạ ít đèo bòng,
Con
người nghĩa khí kể công kể giờ.
Con
người nghi lễ so đo,
Làm
chưa thấy ứng, nhỏ to bất bình.
Nơi
chương 48, ngài viết:
«Học
nhiều càng lắm rườm rà,
Càng
gần Đạo cả càng ra đơn thuần.
Giản
phân, rồi lại giản phân,
Tần
phiên rũ sạch còn trần vô vi.
Vô vi
huyền diệu khôn bì,
Không
làm mà chẳng việc chi không làm.
Vô vi
mà được thế gian,
Càng
xoay xở lắm đời càng rối beng.»[104]
Nơi
chương 52, ngài viết:
Âm
thầm ấp ủ tấc son,
Một
đời trần cấu chẳng mòn mỏi ai.
Mặc ai
đày đọa hình hài,
Một
đời tất tưởi phí hoài tấm thân.
Quang
minh là thấu vi phân,
Cương
cường là biết giữ phần mềm non.
Hãy
dùng ánh sáng ngàn muôn,
Đem về
soi tỏ gốc nguồn chói chang.
Thế là
thoát mọi tai ương,
Thế là
biết sống cửu trường vô biên.
(g). Lão
tử rất ghét hình thức bên ngoài.
Nơi
chương 38, ngài viết:
Hễ Đạo
mất, nặng tình với Đức,
Đức
không còn lục tục theo nhân.
Hết
nhân, có nghĩa theo chân,
Nghĩa
không còn nữa thấy thuần lễ nghi.
Nên
nghi lễ là chi khinh bạc,
Cũng
là mầm loạn lạc chia ly.
Bề
ngoài rực rỡ uy nghi,
Bề
trong tăm tối, ngu si, ngỡ ngàng.
Nên
quân tử chỉ ưa đầy đặn,
Chứ
không ưa hào nháng phong phanh.
Chỉ
cần thực chất cho tinh,
Không
cần bóng bẩy lung linh bên ngoài.
Bắc
cân khinh trọng cho tài.
Biết
đường ôm ấp, biết bài dễ xuôi.
(h). Về
phương diện chính trị, Lão tử chủ trương:
- Không
làm khổ dân, không vẽ chuyện (các chương 3, 17, 29, 75).
- Tránh
chiến tranh (chương 30).
- Không
sùng thượng chiến tướng (chương 31).
- Để cho
dân sống hồn nhiên, không kích thích lòng tham của dân (các chương 17,
65).
- Ngài mơ
ước các nước trong thiên hạ đều nhỏ như những làng xóm, gần nhau đến nỗi
gà kêu chó cắn đều nghe thấy; mà rất xa nhau, vì chẳng ai muốn tới nước
của nhau.
Khảo
Trang Tử, ta thấy quan niệm của Lão tử cũng như của Trang tử là phục hồi
lại thời hoàng kim của các vua Phục Hi, Thần Nông, Hoàng đế, Chúc Dung,
v.v. khi ấy dân còn sống trong những bộ lạc rất nhỏ, còn hồn nhiên chưa
biết chữ nghĩa luật pháp, nhưng sống sung sướng trong thanh bình thịnh
trị.
Trang Tử
viết: «Xưa vào thời Dung Thành... Hoàng đế Chúc Dung, Phục Hi, Hoàng đế,
dân mới biết kết giây để nhớ việc. Họ cho cơm của họ là ngon, áo của họ
là đẹp, phong tục của họ là hay, nhà của họ là yên ổn. Các nước láng
giềng nhìn thấy nhau, nghe thấy tiếng gà kêu chó cắn của nước cạnh, mà
dân đến chết cũng chẳng đi đâu. Thế mà thời ấy dân lại thịnh trị.»
Như vậy
về phương diện chính trị, Lão tử cũng không nêu được ra quan niệm gì mới
mà chỉ muốn làm sống lại khung cảnh thời hoàng kim xa xưa.
Thời Hán
Vũ Đế, Cấp Ám đã áp dụng những tôn chỉ đạo Lão vào nghệ thuật trị dân.
Ông không can thiệp vào đời sống của dân, chỉ để ý đến đại cương không
đi vào chi tiết.
Một hôm
Cấp Ám trách Hán Vũ Đế: «Bệ hạ có nhiều dục vọng quá, mà bề ngoài làm ra
vẻ thi nhân nghĩa, như vậy làm sao mà có thể bắt chước Nghiêu, Thuấn
được? Ngày xưa Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn, Vũ không có dục vọng. Chỉ
có những minh quân thánh đế mới vô dục. Còn các bậc quân vương khác đều
lệ thuộc dục tình, như là rượu chè, sắc dục, tiền tài cung thất, hoặc
ngao du, săn bắn, hoặc nuôi chó nuôi ngựa; hoặc mê văn chương; hoặc mê
võ nghiệp; hoặc lo chinh phạt, chiếm đất đai; hoặc mê say Phật, Lão.
Những dục vọng ấy tuy tác hại nhiều, ít khác nhau, nhưng chung qui đều
làm tản mạn tâm thần, và làm sai lạc chính lý. Những bậc quân vương như
vậy, mà lại gượng ép thi hành nhân nghĩa thì làm sao có thể cảm lòng dân
được. Xưa muốn làm cho người khác trở nên hay, nhà vua trước phải sửa
mình. Mà muốn sửa mình, trước hết phải bớt ham muốn. Một tâm hồn bớt ham
muốn sẽ hư linh, và thiện sẽ nhập, khí sẽ bình, lý sẽ thắng, cho nên bất
kỳ hành động nào cũng hợp lý, cũng tốt đẹp. Nghiêu Thuấn trị dân âu cũng
không ngoài những nguyên tắc ấy.»
Những lời
lẽ của Cấp Ám, làm ta hiểu rõ những nguyên tắc trị dân của đạo Lão. Một
vua tham sắc, tham tài, tham danh, tham lợi, sẽ làm cho muôn dân khổ
cực. Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý trường thành, Hốt Tất Liệt với mộng xâm
lăng, Trụ Vương với lòng hiếu sắc cho dân gặp biết bao điêu đứng. Nhiều
vị vua nước Tàu đã tôn trọng chủ nghĩa vô vi, nên trên chỗ ngai vàng đã
treo hai chữ Vô vi thật lớn.
(i).
Trong Đạo Đức kinh, Lão tử đề cao Vô vi
(xem các
chương 3, 10, 37, 38; 43; 48; 63; v. v.) và muốn đem chủ trương vô vi
vừa vào công cuộc tu thân, vừa vào công cuộc trị dân.
Vô vi về
phương diện tu thân, dĩ nhiên không phải là sống nhàn cư vô sự, mà chính
là sống một cuộc đời cao siêu, huyền hóa với Trời. Liệt tử định nghĩa
«vô vi» là hoạt động siêu việt.»
Trang tử định nghĩa «vô vi» là hoạt động của Trời.
Thái
Thượng xích văn đổng cổ kinh
viết: «Mọi việc hữu vi đều do vô vi mà ra, có vô vi thần mới trở về.»
(Hữu vi sinh tự vô vi,
Vô
vi, thần sẽ hồi qui vẹn toàn.)
Vô vi về
phương diện chính trị, là cảm hóa dân bằng thần uy, thần lực của mình,
chứ không phải là vô cớ làm phiền dân, bắt dân hi sinh để thực hiện
những tham vọng của mình.
III.
TỔNG LUẬN
Những
bài học Lão tử cho ta về phương diện tu thân, cũng như về phương diện
chính trị, tuy giản dị nhưng rất cao siêu, và rất khó thực hiện. Đó là
một lý tưởng cho cá nhân cũng như nhân quần phải vươn lên. Có lẽ đến
thời hoàng kim mai hậu nhân loại mới thực thi được. Ước gì học Đạo Đức
kinh xong chúng ta sẽ:
Thảnh
thơi, ta sống thảnh thơi,
Đời ta
chẳng chút lôi thôi tần phiền.
Đời ta
thơm phức hương tiên,
Bao
nài lớn nhỏ, sá xem ít nhiều.
Cởi
giây thù oán chẳng đeo,
Ta đem
đức độ đổi điều gian ngoan.
Khó gì
ta cũng cứ làm,
Bắt
đầu từ dễ ta sang khó dần.
To gì
ta cũng không cần,
Bắt
đầu từ nhỏ, ta vần sang to.
Đời
người vạn sự gay go,
Đều từ
dễ dãi lần mò mãi ra.
Những
điều cao đại xưa giờ,
Đều từ
nhỏ nhặt đem vo cho thành.
Cho
nên những bậc tinh anh;
Chẳng
cần lớn lối vẫn dành cao sang.
Những
ai hứa hẹn muôn ngàn,
Tình
xuông rồi sẽ bẽ bàng đơn sai.
Những
ai khinh thị cuộc đời,
Càng
ngờ dễ dãi, càng ngời khó khăn.
Cho
nên những bậc thánh nhân,
Biết e
cái khó, khó khăn chừa người.
(ĐĐK, chương
63)
CHÚ THÍCH
...
Nhất nhật hữu vũ sĩ tạo môn tương
yết. Đức Tụ thiết trai cung dưỡng, khấu vấn Nguyên môn diệu chỉ. Vũ sĩ
viết: Tâm tức thị Đạo, Đạo tức thị Tâm. Tâm dữ Đạo ly, tắc nhập lục đạo,
tam đồ. Tâm dữ Đạo hợp tắc tạo Bồng lai,
Tam đảo. Địa ngục
thiên đường chỉ tranh thử nhất niệm nhĩ. Nhược phu giảng bạch vân hoàng
nha, sản anh nhi, xá nữ, vô luận vạn bất năng thành... chung thành vọng
mai chỉ khát, họa bính sung cơ...
一 日 有 羽 士 造 門 相
謁.
德 聚 設 齋 供 養.
叩 問 元 (玄
) 門 妙 旨.
羽 士 曰.
心 即 是 道.
道 即 是 心.
心 與 道 離.
則 入 六 道.
三 途.
心 與 道 合,則
造 蓬
萊.
三 島.
地 獄 天 堂 只 爭 此 一 念 耳.
若 夫 講 白 雲 黃 芽.
產 嬰 兒.
奼 女.
無 論 萬 不 能 成...
終 成 望 梅 止 渴.
畫 餅 充 饑 ...
Thái thượng bảo phiệt đồ
thuyết
太 上 寶 筏 圖 說
, tr. 16a.
|