THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch
»
Mục Lục
Bạt 2
Nhận định về Tham Đồng Khế
Nhân Tử Nguyễn văn Thọ
1) Ngụy Bá Dương viết Tham Đồng Khế năm 141.
Tham Đồng Khế như vậy đã được viết gần 2000 năm nay, và được gọi Đan
kinh chi vương, sách đứng đầu mọi quyển Đan Kinh khác.
Ngụy Bá Dương viết Tham Đồng
Khế, và chia sách thành 3 thiên:
a) Ngự Chính : Theo Trời hành sự,
b) Dưỡng Tính: Hàm dưỡng tính Trời.
c) Phục thực: Hàm dưỡng Khí Hạo Nhiên.
Ông Truyền sách cho Cảnh Hưu Từ, và Cảnh Hưu Từ đã viết quyển
THAM ĐỒNG KHẾ Tiên Chú gồm Thượng Thiên,
Trung Thiên, Hạ Thiên.
Sau lại truyền cho Thúc Thông, Thuần Vu Chân Nhân.
Ông này viết Tam Tướng loại:
Tam Tướng loại gồm 2 thiên và cho rằng:
Tham Đồng khế bàn về Kinh Dịch, về đạo Hoàng Lão, và về phép luyện đan.
3 đạo đó là một đạo, ăn khớp nhau và khế hợp nhau.
Ta thấy:
3 tập Tham Đồng Khế của Ngụy Bá Dương, như Lưu Nhất Minh trình bày, là
có 4 chữ.
3 tập của Cảnh Hưu Từ (Cảnh Tòng Sự) có 5 chữ.
2 tập của Thuần Vu Thúc Thông là tản văn.
Sách này do tôi khởi dịch ngày 15-11-2000, dịch xong ngày 28-4-2001.
2) Sao gọi là Tham Đồng Khế?
1. Khi tôi viết Bộ Kinh Dịch, tôi đã theo
quyển Chu Dịch Tham Đồng Khế phát huy của Du Diễm mà giải 3 chữ Tham
Đồng Khế như sau:
Tham là tham dự cùng Thái Cực.
Đồng
là Hòa đồng cùng Thái Cực.
Khế là Khế hợp với Thái Cực. (Chu Dịch Tham
Đồng Khế phát huy của Du Diễm, Tựa tr. 1)
Như vậy thì Tham Đồng Khế nghĩa cũng tương đương như Phối Thiên trong
Trung Dung chương 26, 31 và Đạo Đức Kinh chương 68, nghĩa là
Sống Hợp Nhất với Trời.
Tôi ưng ý lối dịch này nhất.
2. Richard Bertschinger tác giả quyển The Secret of Everlasting Life
dịch Tham Đồng Khế là Can Tông Chi hay Akinness of
the Three.
Ý nói Kinh
Dịch, Hoàng (Hoàng Đế),
Lão (Lão Tử) và
phép Luyện Đơn đều đồng phù, khế hợp với nhau.
3. Cũng có người cho rằng:
Tham là Tham Thiên địa tạo hoá chi
thể,
Đồng
là Tư đồng loại sinh thành chi dụng.
Khế là Tạo hoá sinh thành chi
công.
Lời giải này tương đương với lời giải của tôi.
4. Cũng có người cho rằng: Đại Dịch, Hoàng Lão, và Phục Thực cả 3 khế
hợp nhau.
Thực ra, Phục Thực và Dưỡng Tính là Một. Mà Hoàng Lão thì bao quát cả
trong ngoài, cả Dưỡng tính và Phục Thực. Phục Thực
là Phục Tiên Thiên Chân Nhất chi Khí, là Dưỡng nuôi Khí Hạo Nhiên trong
ta.
Nội kinh cho rằng: Căn vu trung giả, Tính
viết Thần cơ. Căn vu ngoại giả, Mệnh viết Khí lập. Các chân nhân xưa đều
cho rằng: Thần chủ bên trong, Khí từ ngoài tới, nên nói Dĩ Thần Ngự Khí.
Lời giải này tương đương với lời giải của Richard Bertschinger.
5. Lưu Nhất Minh ghi rõ ràng là Tham Đồng Khế bàn về Kinh Dịch, Hoàng
Lão và phép Luyện Đơn.
3. Tại sao tôi lại dịch bộ Tham Đồng Trực Chỉ
của Lưu Nhất Minh?
Năm 1963, có người biếu tôi bộ Chu Dịch Xiển Chân của Lưu Nhất Minh. Tôi
đọc thấy cách giải các đồ hình của Chu Dịch giống hệt như cách giải của
tôi, nên từ đó tôi rất quí Lưu Nhất Minh. Lưu Nhất Minh còn soạn ra 12
sách khác, như Tham Đồng Trực Chỉ, Ngộ Chân Trực Chỉ, Vô Căn Thụ Giải,
Huỳnh Đình Kinh Giải, Ngộ Đạo Lục, Ngộ Đạo Phá Nghi, Hội Tâm Tập, Chu
Dịch Xiển Chân, Thông Quan Văn, Tượng Ngôn Phá Nghi, Chỉ Nam Châm, Tham
Ngộ Chân Ngôn, Tu Chân Biện Chứng, Tu Chân cửu yếu.
Lưu Nhất Minh (1734- 1821) là một học giả tài ba,
bác lãm quần thư.
Ông là nhà Đơn Học lớn của Nhà Thanh. Ông chủ trương Tam Giáo quán thông
chi lý. Ông là Chưởng Môn Toàn Chân, Long Môn Phái , đời thứ 11.
Lấy Trung Chính chi Đạo của Nho Gia làm gốc.
Ông cho rằng Đạo này Nho gia gọi là Trung Dung, Phật gọi là Nhất Thừa,
Lão gọi là Kim Đơn.
Về phương diện luyện đơn, Ông chủ trương Tính Mệnh Song Tu, và có nhiều
nhận xét rất độc đáo.
Ông là một trong những người đắc đạo mà tôi biết.
Chính vì thế mà tôi còn dịch thêm quyển Ngộ Chân
Trục Chỉ, và Tượng Ngôn phá Nghi của ông.
Bàn về Kinh Truyện Tham Đồng Khế và cách chú giải
Tham Đồng Khế,
Xưa nay Kinh Truyện hỗn độn, tuy nói TĐK có tam thiên, nhưng vắn dài
không đều, kết lại thành vsăn, không theo các bản đương thời. Nay chia
sách thành Kinh 1 quyển, Truyện 1 quyển, Tam Tướng loại 1 quyển.
Theo bản của Đỗ
Nhất
Thành, người Tô Châu chia kinh thành 3 thiên. Mỗi thiên đều có
Tiêu Đề: Ví dụ:
Từ chương Càn Khôn cương nhu xuống dưới, và Tam Thánh thừa long ngự
thiên, là Kinh Dịch:
Tương dục Dưỡng Tính chi đạo, là Đạo Hoàng Lão dạy
Diên Mệnh, Dưỡng Tính, Trường sinh.
Duy Thánh Hiền xuống dưới, là Đạo Thánh Hiền phục
thực phi thăng, là Kim Đơn chi Đạo. Nói như vậy có thể là cưỡng
phân điều liệt, chưa đúng với yếu chỉ của lời Kinh.
2. Du Diễm, đời Nam Tống hay Nguyên, (Tống
Bảo Hựu Sơ 1253-1258) Tống Diên Hựu 1314-1320) người Ngô quận, Tự Ngọc
Ngô, Hiệu Toàn Dương Tử, Lâm Ốc Sơn Nhân, Thạch Giản Đạo Nhân dùng 10
năm khổ tâm, bỗng một đêm trong lúc định tĩnh, thì y như có người phụ
nhĩ cho biết rằng: Nguỵ Bá Dương viết: Tham Đồng
Khế, Từ Tòng Sự viết Tiên Chú, thẻ tre để lẫn lộn, nên mới có chuyện 4
chữ, 5 chữ và tản văn không đều
nhau. Khi hết kinh sợ rồi, Ông liền nghiệm lại thuyết trên, cho
nó theo đúng thứ tự, phân làm 3 thứ, nhưng vì các chú thích đã sẵn rồi,
không thể sửa được. Du Diễm cho rằng Ông nhờ Tham Đồng Khế mà đắc đạo.
3. Đởi vua Chính Đức (Đinh Sửu 1517)
Đỗ Nhất Thành đã cho rằng 4 chữ là Kinh, 5
chữ là Truyện, với Tam Tướng loại, là 3 loại sách. Mỗi sách lại có Bài
Nguyên tựa. Đỗ cũng cho rằng mình nhờ Thanh tư mà Khoát ngộ.
4. Đời Gia Tĩnh triều Minh (Bính Ngọ 1546)
Dương Dụng Tu khắc Tham Đồng cổ bản cũng
giống bản cuả Đỗ Nhất Thành, nhưng lại nói đó là Thạch Hàm Bản, do một
tiều phu đào được. Có bao giờ một sách bị chôn, sau 1500 thì làm sao mà
các giản lại còn nguyên được.
Đại để bản của Đỗ thị và bản của Ngọc Ngô (Du Diễm), sửa lại các giản để
sai. Dương thị y cứ vào bản của Đỗ Thị, nhưng lại nói thác là Thạch Hàm
vậy.
Nay cổ bản đã thấy thì đúng là công lao
của hai vị, Tuy nhiên Dương thị, Đỗ thị cách nhau 30 năm, thì dĩ nhiên
là sách của Đỗ thị có trước.
4. Cách phân chương cú của Tham Đồng Khế.
- Bành Hiểu (?- 954) tự Chân Nhất Tử chia Tham Đồng Khế làm 91 chương.
- Chu Hi chia sách thành Ba quyển.
- Bảo Nhất, Toàn Đương theo Chu Hi.
- Thượng Dương Trần Chí Hư chia sách thành 33 chương.
- Tiềm Hư phân thành 49 chương.
- Đào Tố Tỷ phân làm 44 chương, nhưng kinh triện hỗn loạn, tam tự điên
thác.
Có người lại phân thành: Kinh 18 chương, Truyện 18 chương, và Phú Ca 2
chương như Chu Dịch có 36 quẻ Chính và Thượng Kinh Hạ Kinh.
Tham Đồng Khế không bản nào giống bản nào. Thứ tự rất lộn xộn, cho nên
bản của Lưu Nhất Minh rất khác biệt với các bản khác, tôi đã dịch Tham
Đồng Khế theo quyển Tham Đồng Trực Chỉ của Lưu Nhất Minh.
Trong quyển này, tôi so sánh sách của Lưu Nhất Minh với sách của Bành
Hiểu,
(Bí tàng, Bành Hiều, Chu Dịch Tham Đồng Khế,
Tây Bắc Đại Học Xuất Bản Xã) , với sách của Phương Hú (Phương
Hú, Chu Dịch Tham Đồng Khế, Triết Giang Cổ Tịch Xuất Bản xã). Các
số bài ghi trong sách này nơi đầu mỗi chương là của Bành Hiểu, chỉ có
vài bài Bành Hiểu không có, phải lấy của Phương Hú (Chu
Dịch Tham
Đồng Khế)
có ghi số trang đã mượn trong sách.
Tôi theo Lưu Nhất Minh, nên Hai Thiên Đầu của Thuần Vu Chân Nhân, thì
dịch theo tản văn.
3 thiên sau của Nguỵ bá Dương dịch bằng loại thơ 4 chữ.
3 thiên sau cùng của Cảnh Hưu Từ thì dịch bằng loại thơ 5 chữ.
Các lời dịch trên chỉ là đại khái, vì thơ rất tối
nghĩa và khó dịch. Sau này có vị cao minh nào dịch hay hơn và sát nghĩa
hơn thì xin chỉ dạy.
Tuy Nhiên, Du Diễm cho rằng Tham Đồng Khế là sách chí giản chí dị. Ông
nghiên cứu nó trong 10 năm và nhờ nó mà Ông được giác ngộ. Ông viết
trong bài tựa quyển Chu Dịch Tham Đồng Khế phát huy, đề tựa năm Chí
Nguyên 21, đời Nguyên tức là năm Giáp Thân (1284) như sau: «Đạo luyện
đơn của thần tiên thật là chí giản chí dị. Chẳng qua là O mà thôi. O là
gì? Thưa là Thái Cực.» (Thần Tiên hoàn đan chi đạo, chí giản, chí dị,
như thử O nhi dĩ hĩ. Thử O giả hà? Dịch chi Thái Cực thị dã.») (Chu Dich
Tham Đồng Khế phát huy, tựa tr. 1)
Đông Hán Ngụy Bá Dương nhân đó luận về luyện Đan và gọi sách là Tham
Đồng Khế.
Tham là gì? Thưa là Tham dự cùng Thái Cực, Đồng là gì? Thưa là Hòa Đồng
với Thái Cực, Khế là gì? Thưa là Khế Hợp với Thái Cực.
(Đông Hán Ngụy Bá Dương giả chi dĩ luận tác đơn chi ý, nhi hiệu kỳ thư
vi Chu Dịch Tham Đồng Khế dã. THAM dã giả, tham hồ thử O dã. ĐỒNG dã
giả, đồng hồ thử O dã. KHẾ dã giả, Khế thử O giả dã.)
Lưu Nhất Minh cũng cho rằng đạo luyện đơn rất giản đị (Kim Đơn chi đạo,
chí ước nhi bất phiền nhĩ. Tham Đồng Khế trực chỉ tiên chú hạ biên, Cảnh
Hưu Từ Chân Nhân soạn, tr. 1) Đó là Đaọ Phản Bản Hoàn Nguyên, tìm lại
Bản Lai Diện Mục của mình, sống phối hộp với Trời, với Đạo (Xin cũng xem
tr. 1, sách trên)
Thế mà tôi lại thấy sách có nhiều đoạn khó hiễu. Mới hay sự hiểu biết
của người xưa rất là sâu sắc.
5. Bàn về Chú giải Tham Đồng Khế:
Chân Nhất (Bành Hiểu), Bão Nhất (Trần Hiển Vi) mỗi vị đều có sáng kiến
riêng.
Toàn Dương Tử (Du Diễm) chuyên về Nội Đơn, bàn về Thanh Tịnh.
Thượng Dương Tử (Trần Chí Hư) nói về đan pháp nhiều.
Lục Tiềm Hư (Lục Tây Tinh) phát huy đan quyết. Ông được Lữ Tổ điểm hoá.
Bành Nhất Hát giảng Ngoại Đan.
Lý Hối Khanh (Lý Văn Chúc) nói về Càn
Khôn, nhưng chưa thấu đáo, Ông giảng về Hối Tiền, Xóc Hậu, đầu đuôi mỗi
tháng, gọi Nhị Dược là Diên Hống. Về sau gọi là Long Diên, Hổ Hống.
Phép luyện đơn dùng danh từ rất hóc búa, nghĩa lại
không thống nhất, nên khó hiểu. Càng đi sâu tôi càng thấy chỉ là những
cách ví von cho vui mà thôi. Đan là cái gì Hư Vô, nên không có hình
tượng màu sắc, cũng không có gì là Long Hổ cả. Ngày nay các học giả
Trung Hoa coi Luyện Đơn là một loại Khí Công mà thôi. Nói thế cũng không
đúng, vì làm mất hết vẻ huyền bí của Đơn Đạo, nhưng lại thực tiễn và
khoa học hơn.
Cái gì hay, cái gì phải, cái gì mà ta có thể chứng minh, kiểm soát đước
thì ta giữ lấy, cái gì hoang đường, thì ta bỏ đi.
Đơn đạo manh nha từ thời Chiến Quốc, hình hiện vào thời Hán, thời Tấn,
nhờ Ngụy Bá Dương thời Đông Hán, người Cối Kê, tác giả bộ Tham Đồng Khế
(xuất bản khoảng năm 141), và Cát Hồng Bão Phác Tử, đời Tấn (284- 344),
tác giả bộ Bão Phác Tử nội thiên.
Đơn đạo hoằng dương vào thời Đường , thời Tống nhờ: Chung Ly Quyền, Lữ
Động Tân (798- ?), Trương Bá Đoan (987- 1082), Vương Trùng Dương (1112-
1170).
Thời Tần, thời Hán các đạo sĩ chuyên luyện
ngọai dược, ngoại đơn.
Từ Chung Ly Quyền đến Lữ Đồng Tân,
đơn đạo chuyển hướng thành Nội Đơn, và cho rằng
trong con người đã có sẵn các chất liệu dễ luyện thuốc Trường sinh.
Luyện Đơn đại khái là sống một cuộc đời định tĩnh, suy tư để đạt tới
chân thiện mỹ. Nó muốn dùng Dịch kinh để phối hợp Âm Dương, để phối hợp
Khảm Ly và để tẩy rửa tâm hồn và hòa mình với đạo. Nếu tâm không thanh
tịnh, nếu thần không tinh khiết, thì tu mấy cũng chỉ uổng công. Cho nên
đạt Đạo, chính là Chân Nhân, chính là Phối Thiên.
(The meditative practice known as Inner Alchemy (neidan) was designed as
a means to achieve individual spiritual perfection. It focus was the use
of symbols drawn from chemical alchemy (waidan) and the Book of
Changes (Yijing) to aid the adept in the process of purification ,
spiritual renewal and achieving union with the Tao... These disciplines
reqired the cultivation of one’s moral integrity and spiritual purity,
without these, other efforts would fail...This theorical framework
underlies the artworks shown in the following entries, many of which
show the specific phases in which the yin and yang
energies of the body are reintegrated into an undifferentiated oneness.
Central to these works is the idea that the goal of a Taoist trascendent
was not immortality per se, but spiritual perfection and union with the
Tao. Taoism and the arts of China, Stephen Little, p. 335 )
Tóm tắt Tam tướng loại của Thuần Vu Thúc Thông.
(Các số tr. ghi sau đây là số trang của sách này)
Tiên Ông dựa vào Trời Đất, gọi là Pháp Tượng.
Vì Đại Đạo thời Vô Hình,
mà Trời đất thì có tượng, cho nên lấy Hữu đi vào Vô Hình, lấy Thật chỉ
cái Không. Nên cái đạo Hư Vô hiện rõ nơi Tượng vậy.
(Tham Đồng Khế trực chỉ, tr. 22)
Khi một Âm đã sinh thì
Tiên Thiên biến thành Hậu Thiên (Cấu). Dương dần dần tiêu, Âm dần dần
trưởng, phóng túng theo dục tình, bỏ Chân theo giả.
Nên nói: Ngũ hành thuận hành, pháp giới hỏa
khanh dã. Ngũ hành thuận
hành, pháp giới là lò lửa. Lại như sao dời khỏi ngôi, nhật quĩ đi
sai đường, thì Hung cữu lập tức sinh ra, chuyện xảy ra sẽ như vậy (23)
Khi Thần minh muốn dạy người,
Thì Tâm Linh sẽ tự ngộ,
Hãy tìm cho ra mối manh,
Sẽ thấy rành cửa ngõ. (41)
Thiên đạo vô tư, thường truyền cho các bậc hiền
tài, vì Đạo là điều quí báu của Trời Đất, không phải người đại trung đại
hiêú thời không truyền, không phải đại đức, đại hạnh thời không trao.
Nếu quả là người hiền đức thì có bao giờ lại không chịu truyền trao?
(42)
Kim Đạo lấy luyện kỷ làm đầu, lấy Ôn Dưỡng làm cuối.
Nhân tâm con người từ lâu đã phóng đãng, tính hư tích tập đã dày, thật
là cái hại lớn cho công việc tu hành vậy. Rất khó mà hàng phục được.
Luyện kỷ phải luyện tới độ Vạn hữu giai không, nếu không Đơn khó mà
thành. (47)
Tu mệnh chưa xong, thì Sắc Thân khó lìa, tu tính
chưa xong thì Pháp Thân khó thoát. (50)
Óc ở chỗ cao nhất trong con người, ở sau đầu. Ở
chỗ tai mắt nghe nhìn không tới được. Thế là
Dưỡng tính.
Dưỡng Tính phải tới nơi thanh sắc câu hoá, không vô sở không, tới chỗ
chí tĩnh, mới là cùng cực công phu. Bởi vì Tu Đạo
mà không tới được chỗ chí tĩnh, thì chẳng những Dương Thần không hiện ra
được, mà Âm Thần cũng không hiện ra nổi. Nếu mà Dưỡng Tính tới được chỗ
Cực Tĩnh, thì Tính
Mệnh
đều tu xong, hình thần đều hoàn mỹ,
tới kỳ sẽ thoát hoá, nhất định sẽ lên tới Huyền Đô, tức như Phật Tổ đã
nói: Ta vì ngươi sẽ bảo đảm chuyện này, quyết định sẽ thành tựu (51)
Nói vậy, thời điều kiện tiên quyết đế Tu Hành, là phải tìm cho ra căn
cốt Trời trong ta. Mà căn cốt Trời đó chính là Não Thất 3, là Nê Hòan
Cung trong đầu óc con người, Nó cũng chính là Căn Bản con người chúng
ta, là Tiên Thiên Hư Vô Chân Nhất chi Khí, là Nhất trong chúng ta,
Căn là Tiên Thiên Hư Vô chi nhất khí. Nhất thời
sinh thiên, sinh địa, sinh vạn vật. Đó là gốc gác của Đạo. Người học
Đạo, năng tri kỳ Nhất tắc vạn sự tất. Người tu đạo, năng đắc kỳ Nhất nhi
Kim Đơn kết. (53)
Thượng Thiên bàn về Hoàn Đơn Đại Đơn, Nội Ngoại nhị dược, và tầng thứ
điều hoà chúng. Hạ Thiên bàn về Đỉnh Khí vận hỏa, các tầng lớp, từ đầu
đến cuối (54)
Tóm tắt Tham Đồng Khế của Ngụy Bá Dương
Muốn cho ai nấy đều
biết chân lý. Các sách đơn kinh, tử thư sau này, đều dựa vào Tham Đồng
Khế mà viết ra. Cho nên Tham Đồng là vạn cổ Đan Kinh Vương. Và chữ Kim
Đan cũng bắt đầu từ đó. (58)
Người học cách Tu Tính
Mệnh, mà lìa cái đạo Thiên Địa Âm Dương, Ngũ hành, thì không còn cái
thuật nào khác. (58)
Thế là Lý của Tham Đồng
Khế là lý của Kinh Dịch (59)
Thánh Nhân đứng đầu muôn loài, thừa lục long dĩ ngự thiên, nên động tĩnh
tùy thời. Nhất nhất đều in như Kinh Dịch, không có chút chi dám sai
ngoa. Vì Dịch lấy Âm Dương hòa bình làm căn bản.
Ngự Chính là
Quan Thiên Đạo, Chấp Thiên hành. Thế nên nói là Năng Hòa. Hoà
thời vạn dân sẽ nghe theo. Vương đạo thản thản,
là Lộ Bình Bất Tà vậy. Còn sai Thiên Đạo,
thất Thiên Hành thì là Bất hòa. Đã bất hòa thì trên dưới không ứng hợp
nhau. Đó là Tà Đạo hiểm trở, nó làm khuynh nguy quốc gia vậy.
Người tu đạo bắt chước đó nên lấy Cương Kiện Nhu Thuận làm Thể, lấy
Cương Nhu Trung Chính làm dụng. Cương nhu hợp nhất, như
Càn Khôn thất ngẫu (sánh đôi). Cương Nhu trung
chính, như Khảm Ly chi quang thùy. Cương Nhu tương đương,
Kiện Thuận hỗn thành, Tinh Khí sung túc, tâm quân hư linh, hồn nhiên
Thiên Lý. Cứ Chính Tâm là Thân có thể tu được vậy.
Vả trị thân trị quốc cũng chỉ có Một Lý. Tâm chính và Quân chính là Một
Đạo vậy. Không thấy vị vua nào bất chính mà lại theo được đúng thời
Trời. Chưa thấy ai có Tâm bất chính mà có thể giữ toàn được Đạo vậy.
(60)
Vả đạo tu chân, cốt là Pháp Thiên, Hiệu Địa, một
lời, một việc, phải hết sức cẩn mật, phải ám hợp Thiên Địa, Tạo Hóa, như
vậy mới có thể Dữ Thiên Điạ hợp kỳ Đức, đoạt Thiên địa chi khí số và đem
nó về cho mình. Hệ Từ Truyện viết: Quân tử cư kỳ
thất, xuất kỳ ngôn, nói phải thì nghìn dặm cũng nghe theo. Cho nên phải
Tu Từ, Lập kỳ thành để tiến đức. Vì là Tiến Đức, nên lời nói ắt là thành
khẩn. (67)
Người biết Ngự Chính, sẽ nhìn thấy lối đường Trời
Đất, sẽ theo được lối đường trời. Khi phát ra hiệu lệnh, sẽ thuận tiết
Âm Dương, và không dám sai đường lối trời. Cho nên ngôn hành là khu cơ
của người quân tử. Khu cơ đã phát, thì vinh nhục sẽ tới.
Khi đáng Dương thì dụng Dương, khi đáng Âm thì
dụng Âm. Dụng Dương là Tiến, Dụng Âm là Thoái. Tiến thoái có tuần tiết,
nên gọi là Thiên Nhân Hợp Phát. Dùng Âm Dương để ban hiệu lệnh vậy.
. Người biết Ngự Chính, sẽ nhìn thấy lối đường
Trời Đất, sẽ theo được lối đường trời. Khi phát ra hiệu lệnh, sẽ thuận
tiết Âm Dương, và không dám sai đường lối trời. Cho nên ngôn hành là khu
cơ của người quân tử. khu cơ đã phát, thì vinh nhục sẽ tới. (68)
Người tu đạo nếu có thể Dĩ Nhân Tâm hợp Thiên Tâm,
thì Âm Dương sẽ điên đảo trong chốc lát
(71)
Có bên trong, mới hình ra bên ngoài. Tâm mà chính,
thì lời sẽ lành (72)
Dịch làm gì có Tâm. Tính Mệnh chi Đạo chính là Dịch Đạo vậy.
Dịch đã vô tâm, thì người tu đạo cũng vô tâm.
Cái dụng của Vô Tâm là cái dụng của thuận thời. Thuận thời là Thuận Lý.
Cứ thuận lý mà hành sự, sẽ cảm động được Trời, chứ không phải là do
người, như vậy thì làm gì còn tâm? (74)
Lấy chữ Nhật đặt lên trên, chữ Nguyệt đặt xuống
dưới thành chữ Dịch, lấy Nghĩa Cương Nhu tương đương. Đó là suy
từ 2 chữ Đồng Loại Tương Tòng mà kết thành chữ. (75)
Sánh với người tu đạo cũng vâỵ. Dương khí vừa thịnh, nhưng còn yếu, Phải
nuôi dưỡng cái Nhất Điểm Sinh Cơ đó, Để lấy đó là Căn Bản cho sự Hoàn
phục bản nguyên. Không bao giờ được xa lìa nó. (82)
Lương tri, lương năng, Đạo Tâm thường tồn, Nhân Tâm an tĩnh. Hồn nhiên
Thiên Lý, chỉ ư chí thiện. Thấy lại được Bản Lai, Cương Nhu như nhất chi
diện mục, Ngã Mệnh do Ngã bất do Thiên. Thiên tức
Ngã, Ngã tức Thiên. Dữ Thiên vi đoà.
Chẳng phải là vui lắm sao(100)
Hằng
thuận địa
lý là học theo phép Đất nhu thuận, cái
gì cũng mang tải, cái gì cũng sinh. Thừa
Thiên bá
tuyên là học theo phép trời
Cương Kiện, cái gì cũng bắt đầu, không có gì khuất phục được. Có thể
Pháp Địa là Nhu Thuận phối địa, có thể Pháp Thiên là Cương Kiện Phối
Thiên. Nếu mà Cương Kiện được như Trời, Nhu Thuận được như Đất, thì sẽ
dị tri, giản năng (Hệ Từ thượng, chương I), thế là Lương Tri, Lương
Năng, hồn nhiên Thiên Lý, Chí Thiện, Vô Ác vậy.(105)
Dương dụng sự thì mọi sự thông suốt, như là đất
bằng vậy. Âm dụng sự, thì vạn vật bế tắc, như là đất dốc. (106)
Cũng như vua thừa thiên ngự trị, bắt chước trời đất, dùng cả 2 bên Cương
Nhu, hợp đức với Trời Đất, cùng mặt trời, mặt trăng hợp sáng, theo tiết
tấu của bốn mùa, hợp lẽ cát hung của quỉ thần, trước Trời Trời không
trách, sau Trời cho đúng chiều Trời (Trước Trời, Trời chẳng trách đâu,
Sau Trời cho hợp cơ màu thời gian. (Kiền, hào Cửu Ngũ). Dùng cách đó trị
đời, thì đời sẽ trị, dùng cách đó để tu đạo thì đạo sẽ thành.
Trong thì mình thành thần thánh, ngoài sẽ giúp
người thành Nhân. Tuy 10 đời vẫn còn, sẽ thọ lâu bền, sánh với
người thường, chuyện càng quá dễ. Xưa Phục Hi, Thần Nông tu theo đạo
này, nên hưởng thọ mãi mãi. Hoàng Đế tu đạo này đã cưỡi rồng về Trời, đó
là ít bằng chứng vậy.(106- 107)
Trên đây, mượn Dịch Lý, hoặc nói Thiên Đạo, hoặc nói Vương Đạo, phân ra
mà nói. Tiết này tổng kết lại bằng 2 chữ Ngự Chính, để cho rõ nghĩa hai
chữ Phản Hoàn. Phản Hoàn là từ Hậu Thiên trở về Tiên Thiên, là công dụng
của Hữu Vi. Cho nên nói Ngự Chính đứng đầu là Đỉnh Tân Cách Cố. Đạo Phản
Hoàn cốt ở sự Đổi Mới. Mà muốn đổi mới, thì không gì bằng Bỏ Đi Cái Cũ.
Cái cũ là gì? Là cái gì dơ bẩn ta đã vương phải
trước. Vứt bỏ cái gì dơ bẩn trước đây, thì Nhân Tâm sẽ được yên tĩnh.
Đỉnh là đồ dùng để nấu thuốc, nấu đồ ăn. Nó có thể đổi mới mọi
sự. Cho đồ vào Đỉnh để luyện ra cái gì mới, thì Đạo Tâm sẽ sinh.
Quản quát duy mật là E dè cái mắt không
nhìn, Tai nghe không nổi cho nên hãi hùng, là hạ công phu ở chỗ Chí
Vi Chí Ẩn, cốt là làm cho Nhân Tâm được Nhu Thuận.
Khai thư bố bảo là làm cho biến và giữ lấy cái Biến, làm
cho Thông và giữ cái Thông. Nhất cử nhất động phải vận Thần Cơ làm phát
động cái Đạo Tâm cương kiện. (110)
Người tu đạo, sẽ dùng chân tình của Đạo Tâm, có đủ cương khí, như chuôi
sao Khuê trên trời, như những nhà chấp pháp trong quốc gia vậy, sẽ
dùng Chân Tình của Đạo Tâm để mà Giác Chiếu, như
sao Văn Xương trên Trời giữ về ký lục vậy. Đạo Tâm làm chủ như sao Bắc
Thần trên trời, như vì vua nơi nhân gian vậy.
Chân tình không hôn ám, ngũ nguyên, ngũ đức sẽ tương sinh, sẽ hồn nhiên
nhất khí. Như Khôi Tinh chỉ chỗ nào, bất kể là Ngũ Vĩ sai hay đúng, đều
ứng thời cảm động. (112)
Nếu người tu đạo mà làm cho Đạo Tâm được hưng
phấn, chế ngự được Nhân Tâm, thì Chân Tình sẽ không bị lu mờ, Chân tri
sẽ thường tồn, Âm khí giảm bớt, Dương Khí thuần dần. Thế là Đỉnh Tân
Cách Cố (thay cũ, đổi mới), Tính Định, Mệnh Ngưng. Từ Hữu Vi nhập
Vô Vi, toàn thân theo đúng lý, muôn lo đều ngừng. Làm gì còn có chuyện
Ngạo Kháng sai Đạo, hay tà nịnh lạc nẻo, hay làm sai làm dở đến bị tai
hung?
Ôi, Tu Chân Đạo, cũng là Đạo Ngự Chính, nếu Đạo
Ngự Chính mà biết thế nào là Cát Hung, thì cũng biết thế nào là cát hung
trong Đạo Tu Chân. Tiên Ông trong thiên trên đem đạo Ngự Chính
sánh với Đạo Tu Chân. Thật là vi diệu vậy. (113)
Dưỡng Tính.
Cho nên Tiên Ông dạy Dưỡng Tính thì đưa ra chủ đề là:
Muốn tu Tính, trước hết phải tu Mệnh. Nghĩa là
muốn Dưỡng Tính phải lo Tu Mệnh. (119)
Cho nên trước tiên phải tu Hữu Vi Phản Hoàn chi
Đạo, để mà củng cố Mệnh Cơ. Sau đó mới Hành Bão Nhất Vô Vi chi đạo, để
hoàn thành việc Tu Tính. Tính Mệnh tu xong, sẽ bất sinh, bất
diệt, cùng đất trời đồng thọ. (120)
Thượng Đức là những người
dùng Đạo để Toàn Hình, Bão Nguyên Thủ Nhất, hành Vô Vi chi Đạo.
Thế là làm được công việc. Cho nên nói:
Thượng Đức vô vi, không cần quan sát, tìm cầu. Hạ Đức thì dùng thuật để
kéo dài mạng sống. Từ miễn cưỡng rồi mới an lạc.
Đó là tu theo Hữu Vi, như vậy mới được hoàn nguyên.
Cho nên nói: Hạ Đức vi chi, kỳ dụng bất hưu. Vả
bậc Thượng Đức chẳng cần sát cầu, vì bậc Thượng Đức thời Thiên Chân còn
nguyên vẹn, khách khí chưa xâm nhập nổi, nếu đốn ngộ được bản tính, thì
chẳng tu chẳng chứng, cũng sang được bờ bên kia, không cần phải quan
sát, tìm cầu. Còn Hạ Đức thì vất vả đi vào hữu dụng, vì ở nơi họ, Thiên
Chân đã khuy tổn, tri thức đã khai mở, nên dẫu đốn ngộ bản tính thì cũng
chưa thuần thuận ngay được.
Nên phải dùng phép Tiệm Tu, công lực có
lúc tăng, lúc giảm. Tăng rồi lại tăng, giảm rồi lại giảm. Cho đến khi
Nghĩa Tinh,
Nhân Thục, thì mới có thể ngưng nghỉ. Vì thế mà không
ngừng nghỉ mới là quí vậy. (138)
Chân Nhân chính là Thần Minh, cũng còn là Thánh
Thai. Nó chính là Tiên Thiên hư vô Chân Nhất chi Khí. Ngưng kết thành
Tượng. Chân Nhân đó, chí Thần, chí Diệu, phi sắc, phi không, tức sắc,
tức không. Sạ Trầm là Tịch Nhiên bất động; Sạ Phù là Cảm nhi toại
thông vậy. Sắc Không bất câu, động tĩnh tự nhiên, chí vô nhưng hàm chí
hữu, chí hư nhưng hàm chí thật. Khí Ngũ hành Âm Dương cái gì cũng sẵn
có. (141)
Phục Thực.
Khí thuộc Mệnh, Lý thuộc Tính. Hoài Huyền là cốt để Lập Mệnh. Bão chân
là cốt để Tận Tính. Phục là Phục Khí để Dưỡng Hạo Nhiên Chính Khí. Mệnh
là do ta tự tạo. Luyện là luyện kỳ Chân, để thành toàn bản lai Thiên
Chân. Tính không thể tối. Cửu là Thuần Dương Vô
Âm, là Kim Cương bất hoại trong ta, thế là Phục Luyện Cửu Đỉnh.
Không phải là Cửu Đỉnh, Lô Hoả, Phục Thực của đời sau, cũng không phải
là Ngự Nữ Khuê Đơn, cái tà thuyết của Cửu Đỉnh. Nếu mà định nói Lô Hoả
Khuê Đơn thì sao lại nói Hoài Huyền Bão Chân. (154)
Tà nguỵ trừ đi là Thoái Âm vậy. Chính khí thường
tồn là Tiến Dương vậy. (155)
Tiến Dương Thoái Âm, gia công phục luyện, thì lâu
ngày sẽ thấy Âm Tận Dương Thuần. Hình sẽ hoá thành Khí, Khí sẽ hoá thành
Thần, Thần sẽ hoá thành Hư. Thân ngoại có thân, và sẽ vũ hoá đăng tiên.
(155)
Vậy Tiến Dương hoả thoái Âm Phù là Dưỡng nuôi Chính Khí đất trời, mà
Thoái Âm phù là tiêu trừ tà ngụy. (156)
Bách xúc thời Âm là Khước trừ tà khí, thời khắc cẩn thận vậy. Câu súc
Cấm Môn là: Hộ trì chính Khí, không bao giờ ngơi. Cấm Môn là Huyền Tẫn
chi Môn, là Sinh Môn Tử hộ. Đó là lò Sinh Sát, là khiếu Âm Dương.
Sinh ra ta từ đó, làm ta chết cũng từ đó. Kết thai, Thoát Thai cũng từ
đó. Giữ được nó thì sống, làm mất nó sẽ chết. Đó là cái cửa khẩu tối
ư quan hệ, cho nên gọi là Cấm Môn. Cái cửa đó, mọi người ra vào,mọi
người qua lại, nhưng cái mà Bách Tính thường dùng lại không hay biết.
Nếu có ai hỏi Cửa ấy hình dáng ra sao, thì ta sẽ nói: Dưới Trời, Trên
đất, phía Tây là mặt Trời, phía Đông là mặt trăng,
ở giửa hình chữ Thập, nơi
4 phương gặp gỡ. Nó rất sáng. Nó là một Khổng Khiếu, trông xa thì nhỏ
như lông, trông gần thì to bằng Thế Giới, vạn tượng sâm la, bách bảo đều
đủ, có đủ Đất Trời. Không hiểu có ai biết nó không, nếu có ai biết nó,
nó sẽ xua đuổi tà khí. Từ chỗ chết trở về Bản nguyên, nó sẽ giữ được
Chính Dương, từ chỗ sinh ra ta trở về Bản Nguyên.
Có thể tuỳ tâm vận dụng, quay tả quay hữu,
y như ý muốn. Vả Đạo Hoàn Nguyên, Phản bản, chỉ là điều hoà tính tình,
hỗn hợp Âm Dương mà thôi. (169)
Thức Thần là chủng tử sinh Luân Hồi, là nguồn gốc
làm ta bị Tử Sinh. Nếu không trừ nó đi, thì không bao giờ ta nắm được
Tính Mệnh chúng ta. Phương pháp trừ diệt, nếu không dùng Chân Tri
Chân Tình thời không xong. Chân Tri Chân Tình có đủ Tiên Thiên Chân Nhất
chi khí. Khí này chí đại, chí cương, có sức thoái trừ quần ma, giết được
tam thi. (175)
Tóm Tắt Tham Đồng Khế của
Du Diễm
Thân Thế của Ngụy Bá Dương. (188)
Tóm tắt Tham Đồng Khế : Ngự Chính, Dưỡng Tính,
Phục Thực. (191)
Tóm tắt Tham Đồng Khế của Cảnh Hưu Từ
Mặt trời 1 năm đi 1 vòng trời, phân thành
4 mùa, Xuân, Hạ, Thu, Đông, ứng tứ khí Mộc Hoả, Kim Thuỷ. Mỗi mùa Thổ
vượng 18 ngày, hoà hợp tứ tượng. Tứ quí, Ôn, Nhiệt, Lương, Hàn. Ngày Đêm
dài vắn đều là Ngũ Hành tinh khí.
Cho nên nói: Nhật hợp Ngũ Hành Tinh. Mặt trăng, 1 tháng đi một vòng
trời. Mỗi tháng gặp mặt trời 1 lần. 1 năm gặp 12 lần. Mỗi tháng có Huyền
(mồng 8, 23), Vọng (15), Hối (30), Sóc (1). Tuỳ ánh sáng mặt trời mà xa
cách, tiến thoái. Sáu tháng đêm dài, sáu tháng đêm vắn. Ứng với Luật Lã
nên thành 12 tháng. Cho nên nói: Tháng theo Lục Luật. Mỗi tháng 5 ngày
là 1 Hầu, cộng sáu Hầu. Mỗi Hầu có 5 độ (210)
Nhật Nguyệt hiệp nhất là Thần, vãng lai là Hoá.
Vạn vật không có Thần thì không sinh, không có Hoá thì không thành.
Nhất là Thần, Lưỡng là Hoá. Chỉ có Thần mói
có thể Hoá, có Hoá mới thành Thần. Có thể là Thần,
có thể biến hoá, cho nên mới Thần hoá bất trắc. (210)
Ôi! Chỉ có một câu Tuỳ thời, thuận tiết, mà
hoàn thành được Kim Đơn Diệu Chỉ, còn nói được gì hơn?. Cho nên có thể
ngậm miệng, không cần bàn luận chi cả. Kim
đơn chi đạo, thuỷ chung chỉ là tu trì Thiên Tâm mà thôi. Thiên Tâm chính
là Đại Dược. Nếu biết Tuỳ Thời, Thuận Tiết, thì
Thiên Tâm sẽ Thường Tồn, từ mềm non, đến cứng cát, từ nhỏ cho tới lớn.
Càng lâu thì công trình càng thâm hậu, vĩnh viễn bất hoại.
Thế cho nên nói, Biết Một là xong tất cả.
Cần gì nói nhiều? (223)
Cho nên mượn Kinh Dịch đặc biệt nói về Bốn Quẻ Kiền Khôn, Khảm Ly. Coi
một năm là Kiền Khôn vãng lai, một tháng là Khảm Ly Nhật Nguyệt hợp ly,
hiển lộ ra được đầu mối của Thiên Tâm, để hướng dẫn cho bọn hậu thế mù
mờ. (224)
Huyền Tẫn, Cốc Thần, thuận thì sinh nhân,
sinh vật nhi thành Ảo Thân, Nghịch thì sinh Tiên nhi thành Chân Thân.
Thuận nghịch chi gian, mà Chân Ảo hết sức khác nhau. (239)
Người Thượng Đức hành Vô Vi chi đạo, vì ở nơi họ,
Thiên Chân chưa bị thương tổn, Âm Dương hoà hợp. Khiếu Nhân Tâm còn
đóng, mà Đạo tâm thời còn nguyên vẹn, cho nên gọi là Có.
Người Hạ Đức hành Hữu Vi chi Đạo, vì ở nơi họ,
Thiên Chân đã bị khuy tổn, Âm Dương bị tán hoán. Đạo Tâm khiếu bế, mà
Nhân Tâm thời hành sự, cho nên gọi là Vô (243)
Quần âm mà hoá tận, thì Kim Đơn sẽ thành thục.
Công phu mà chưa thành thì chưa ngưng nghỉ. Cổ tiên xưa nói: Còn chút
Dương Khí thì chưa thể chết, còn chút Âm khí thì chưa thành Tiên (260)
Cho nên người tu đạo, phải tu cho tới thuần Dương,
không còn chút Âm Khí nào, như vậy mới được. Trừ khử được chúng tà, và
Chính Dương đã yên ổn, được vậy mà vẫn chưa ngừng công phu,
như vậy sẽ
được Thần linh, Khí sảng, như khi trời có mây mưa, sẽ giải trừ oi
bức, phiền muộn, y như xuân khí nhuận trạch, hàn khí tiêu hết, thì băng
tích sẽ tiêu tan. (260)
Đạo Kim Đơn là đạo điều hoà Âm Dương. Âm Dương hoà thì sinh Đơn, Âm
Dương chống nhau thì làm hư Đạo. Suy diễn số Ngũ
Hành sinh khắc, thì sẽ suy ra đạo Kim Đơn. (267)
Đạo Kim Đơn là suy tình hợp tính, là Tìm Chân
trong Giả, tìm Sống trong chết, để cho Âm Dương tương hợp, trở lại Thiên
Lý, không hay không biết, theo đúng phép tắc của Trời, tìm ra Bản Lai
diện mục của mình, cho nên gọi là Hoàn Đơn. Hoàn Đơn là trở về với cái
Bản Lai, Nguyên Hữu của mình, không hề có tăng có giảm, lại nói rằng:
Hoàn Nguyên phản bản.
Ta không dám nói bậy. mà phỏng theo lời văn của
thánh hiền xưa. Đó chính là lời tựa của Chân Nhân, cho nên đó là lời nói
có gốc, lời nó có kê cứu.
Hoàn Đơn này, cổ lai thánh hiền, tuỳ phương tiện
mà đặt tên, nên không đồng nhất.
Cổ Ký thì gọi là Long Hổ Đan, Hoàng Đế thì gọi là
Mỹ Kim Hoa, Hoài Nam thì gọi là Thu Thạch, Ngọc Dương thì gọi là Hoàng
Nha, Tham Đồng Khế thì gọi là Kim Sa, là Đao Khuê, tất cả đều cốt là
hình dung ra Hoàn Đan là gì mà thôi.
Đạo này người Thượng Sĩ mà nghe được, thì chuyên
cần tu hành, cho nên nói người Hiền thì nghe theo, còn kẻ Hạ Sĩ mà nghe
thấy thì cưỡi toáng lên, Cho nên nói không hợp với kẻ bất tiếu (người
hư).
Cho nên đạo cổ kim xưa nay, là nhân ngồi nói
chuyên với nhau và thổ lộ tâm tình cho nhau nghe. Kim Đơn đại đạo xưa
nay vốn là chuyện khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương thụ của Thánh
Hiền. (268)
Phục là Phục tàng tiên
thiên chi khí, mà không làm
cho ý vọng động. Tức như Mạnh Tử nói: Ngã
thiện
dưỡng ngô Hạo nhiên chi khí vậy. Thực là dĩ hư cầu thực,
là Phục Thực vậy. Tức như Mạnh Tử nói về Cái Khí vậy. Khí đó Chí đại,
chí cương, trực dưỡng và vô hại, khí đó tràn đầy trong thiên hạ. Nuôi
dưỡng hạo nhiên chi khí mà làm cho nó tràn đầy thiên địa, tạo hoá không
giữ đựơc nó, vạn vật không di chuyển được nó, thế mới là
Phục Thực. (273)
Nếu có chí sĩ, mà được sư truyền khẩu quyết, sẽ từ
Hữu Vi mà vào Vô Vi, sẽ liễu Tính, liễu Mệnh, và được Hình Thần câu
diệu, dữ Đạo hợp Chân và được gọi là Chân Nhân, thọ cùng Trời Đất, làm
cho tứ chi kiên cố, nhan sắc tươi nhuận, tóc từ bạc trở thành đen, răng
rụng sinh (291)
Có thể nói Tu Tính, là Vô Vi. Tu mệnh là Hữu Vi.
Tu Tính chính là Vô Dục Dĩ quan kỳ Diệu của
Đạo Đức Kinh.
Tu Mệnh là Hữu Dục dĩ quan kỳ Khiếu của Đạo
Đức Kinh (Xem Tinh Hoa các Đạo Giáo, tr. 202, chú 8)
Như vậy Tu Đơn có thể nói là Tu Mệnh. Sách Tiên Học Tập Cẩm nơi trang
229 nói: Tu kim đan dĩ liễu
Mệnh. (THCDG, tr. 204, chú 40)
Khi tôi tập hít thở qua xương sống theo Đạo Lão trong vòng 8, 9 năm, tôi
bỗng nhiên ngưng tập, vì nghĩ rằng làm như vậy là
Thọ Cùng Thiên Địa nhất Ngu Phu.
Ngày nay bên Trung Quốc coi Luỵện Đan là Luyện Khí Công, mục đích là làm
cho con người khỏe mạnh.
Tu Tính đề Biết Trời. (Xem Tinh Hoa các Đạo Giáo,
tr. 203, chú thích 24), Tu Tính cốt là tìm cho ra được cốt lõi Trời, cốt
lõi Trường Sinh bất tử của Con Người. (Xem THCDG, TR. 203, Chú 26)
Tu Mệnh để sống lâu thêm tuổi thọ. (Xem THCDG, TR.
203, chú thích 32.) Tu Mệnh cốt là để Cải biến Khí Chất (THCDG, tr. 204,
chú 50).
Tu Mệnh là Tu Xác Thân, Tu Tính là luyện Tâm Hồn, để Tâm Hồn trở thành
Thần Minh. Tu Tính chính là Tu Thiền.
Cho nên PHẬT GIÁO, LÃO GIÁO gặp nhau ở chỗ
cao, gặp nhau ở Chân Tâm. Đó cũng chính là Trung Đạo của Trung Dung,
Tham Đồng Khế có thể tóm tắt đơn giản như sau:
Ôi! Chỉ có một câu Tuỳ thời, thuận tiết, mà hoàn
thành được Kim Đơn Diệu Chỉ, còn nói được gì hơn?. Cho nên có thể ngậm
miệng, không cần bàn luận chi cả. Kim đơn chi đạo, thuỷ chung chỉ là tu
trì Thiên Tâm mà thôi. Thiên Tâm chính là Đại Dược. Nếu biết Tuỳ Thời,
Thuận Tiết, thì Thiên Tâm sẽ Thường Tồn, từ mềm non, đến cứng cát, từ
nhỏ cho tới lớn. Càng lâu thì công trình càng thâm hậu, vĩnh viễn bất
hoại. Thế cho nên nói, Biết Một là xong tất cả. Cần gì nói nhiều? (223) |