THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch

» Mục Lục


Tham Đồng Khế trực chỉ tự

Thất phản cửu hoàn. Kim dịch đại hoàn đan chi đạo. Vi thiên địa sở bí. Vi quỷ thần sở kỵ. Lịch thánh khẩu khẩu tương truyền. Bất ký văn tự. Sở dĩ học đạo giả như ngưu mao, minh đạo giả như lân giác. Gia chi bàng môn tam thiên lục bách. Khúc kính thất thập nhị gia. Dĩ tà hỗn chính. Dĩ giả loạn chân. Tuy hữu nhất nhị chí sĩ. Ngọc thạch bất phân. Nhược phi phụ thiên túng chi tư. Cao minh chi kiến giả. Kỳ bất vi tà đạo sở cảm dã. Hữu kỷ nhân tai.

七 返 九 還. 金 液 大 還 丹 之 道. 為 天 地 所 秘 . 偽 眇 神 所 忌. 歷 聖 口 口 相 傳. 不 記 文 字 所 以. 道 者 如 牛 毛. 明 道 者 如 麟 角. 加 之 傍 門 三 千 六 百. 曲 徑 七十 二 家. 以 邪 混 正. 以 假 亂 真. 雖 有 一 二 志 士. 玉 石 不 分. 若 非 負 天 縱 舟 姿. 高 明 之 見 者. 其 不 為 邪 道 所 感 也. 有 幾 人 哉.

Đông Hán Ngụy Bá Dương chân nhân, đắc Trường Sinh Âm chân nhân chi truyền, hội ngộ viên thông, liễu khước đại sự, thùy mẫn hậu sinh hiếu đạo chi trác, chuẩn Dịch đạo nhi tác Tham Đồng Khế, phân thượng, trung, hạ tam thiên. Thủ tự ngự chính chi đạo, trung tự dưỡng tính chi lý, mạt tự phục thực chi phương. La liệt tam điều. Quán thông nhất lý. Biệt khai môn hộ. Đa thiết ngụ ngôn. Tiếp dẫn phương lai. Dĩ hữu tượng tỉ vô tượng. Dĩ hữu hình thị vô hình. Kỳ trung dược vật hỏa hầu. Vô nhất bất bị.

東 漢 魏 伯 陽 真 人. 得 長 生 陰 真 人 之 傳. 會 悟 歖 通. 了 卻 大 事. 垂 憫 後 生 好 道 之 涿. 準 易 道 而 作 參 同 契. 分 上 中 下 三 篇. 首 敘 御 政 之 道. 中 敘 養 性 之 理. 末 敘 伏 食 之 方. 羅 列 三 欑. 貫 通 一 理. 別 開 門 戶. 多 設 寓 言. 接 引 諘 來. 以 有 象 比 無 象. 以 有 形 示 無 形. 其 中 蹴 物 火 候. 無 一 不 備 .

Thư thành chi hậu. Chứng chư Thanh Châu tùng sự Cảnh Hưu Từ Công. Từ Công toại tiên chú tam thiên. Phát minh khế trung áo diệu. Ngụy chân nhân hựu truyền đồng quận Thuần Vu Thúc Thông. Thuần Vu thị hựu tác Tam Tướng Loại thượng hạ nhị thiên. Bổ tắc Tham Đồng Khế chi di thoát. Ư thị kim đan chi lý. Tận xuất nhi vô dư uẩn hĩ.

書 成 之 後. 證 諸 青 州 從 事 景 休 徐 公. 徐 公 遂 葮 註 三 篇. 發 明 契 中 奧 妙. 魏 真 人 又 傳 同 郡 淳 于 叔 通. 淳 于 氏 又 作 三 相 類 上 下 二 篇. 補 罻 參 同 契 之 遺 脫. 於 是 金 丹 之 理. 盡 出 而 無 餘 蘊 矣 .

Như tam ông giả giai địch diện tham chứng. Tâm ấn thành thư. Phi tha nhất thiết mô phỏng sai nghi khả tỉ. Thử hựu Tham Đồng trung chi tham đồng. Hậu thế vạn quyển đan kinh. Giai bản ư thử. Sở dĩ nhân giai xưng vi vạn cổ đan kinh chi chủ. Chu Tử tác khảo dị chú giải Tham Đồng. Trình Tử, Tượng Sơn, diệc thường tán mỹ. Khả tri thử thư vi Nho Đạo chi sở cộng thưởng giả dã. Thiết niệm thử thư. Lưu thế dĩ cửu. Thứ tự vặn loạn. Chú sớ gia các xuất kỷ kiến. Hoặc dĩ tiền giả vi hậu. Hậu giả vi tiền. Hoặc dĩ kinh văn dữ chú ngữ tương hỗn. Hoặc tương tự văn dữ chính văn giáp tạp. Bất đãn văn ý bất quán, thứ tự đại thác, thả tịnh bất phân hà giả thị kinh, hà giả thị chú, hà giả thuộc ư Ngụy, hà giả thuộc ư Từ, hà giả thuộc ư Thuần Vu. Cánh tự Ngụy chân nhân nhất nhân chi thư. Cánh hữu vô tri chi bối. Hoặc trác nhi vi thái chiến. Hoặc ngộ nhi vi thiêu luyện hủy báng thánh đạo, mai một chân tông. Đại thất tam ông độ thế chi bà tâm. Kỳ tội thượng khả ngôn hồ.

如 三 翁 者. 皆 覿 面 參 證. 心 印 成 書. 非 他 一 濬 模 倣 猜 疑 可 比. 此 又 參 同 中 之 參 同. 後 世 萬 卷 丹 經. 皆 本 於 此. 所 以 人 皆 稱 為 萬 古 丹 經 之 主. 朱 子 作 考 異 註 解 參 同. 程 子 象 山. 糈 嘗 讚 美. 可 知 此 書 為 儒 道 之 所 共 賞 者 也. 冓 念 此 書. 流 世 已 久. 次 序 紊 亂. 註 疏 家 各 出 己 見. 或 以 前 者 為 後. 後 者 為 前. 或 以 經 文 與 註 語 相 混. 或 將 序 文 與 正 文 夾. 不 但 魡 意 不 貫. 次 序 大 錯. 且 並 不 分 何 者 是 經. 蠉 者 是 註. 何 者 屬 於 魏. 何 者 屬 於 徐. 何 者 嗂 於 淳 于. 竟 似 魏 真 人 一 人 之 書. 更 有 無 知 舟輩. 或 涿 而 為 採 戰. 或 誤 而 為 燒 煉 毀 謗 聖 道. 埋 沒 真 宗. 大 失 三 翁 度 世 之 婆 心. 其 罪 尚 可 言 乎.

Càn Long Nhâm Dần tuế. Ngẫu đắc Vô Danh Thị Ông chân nhân chú. Thượng Dương Tử Trần chân nhân (Trần Chí Hư) chú. Kỳ kinh chú các phân nhất loại. Tiết tự tiền hậu tương quán. Kinh tự kinh, chú tự chú, bổ tắc tự bổ tắc, văn tự văn, tự tự tự. Mễ diêm phân phán. Tạo bạch hiển nhiên. Thiên bách niên chân kinh chi oan khuất chí thử phương thân. Nhị chú Trần giảo ư ông. Vưu vi chỉnh tề. Nhân thủ Trần bản vi cứ. Kỳ chính văn thứ tự. Tự hữu bất quán giả. Lược vi cánh di. Phân tiết chú thích. Kỳ trung nhất thiết tỉ tượng dụ ngôn. Tất giai phá vi phấn túy. Dữ đại chúng tế khán trực chỉ. Hà giả thị lô đỉnh, hà giả thị dược vật, hà giả thị âm dương, hà giả thị ngũ hành, hà giả thị tiên thiên, hà giả thị hậu thiên, hà giả thị hỏa hầu, hà giả thị phanh luyện, hà giả thị nội ngoại, hà giả thị thủy chung. Hạch thực tận lộ. Khẳng khính toàn hiện. Thư thành chi hậu. Danh viết Tham Đồng Khế Trực Chỉ. Thảng hữu đồng chí giả. Kiến nhi duyệt chi. Tắc tri Tham Đồng chi đạo. Nãi lịch thánh khẩu khẩu tương truyền chi bí. Nhi Ngộ Nguyên chi chú, diệc phi dã hồ cát đằng chi ngữ. Chính văn tiết tự. Hoặc hữu bất quán chi xứ, vưu lại hậu chi cao minh giả cải chính yên.

乾 隆 壬 寅 歲. 偶 得 無 名 氏 翁 真 人 註. 上 陽 子 陳 真 人 註. 其 經 註 各 分 一 類. 節 序 前 後 相 貫 . 經 自 經. 註 自 註. 補 塞 自 補 塞. 文 筄 文. 序 自 序. 米 鹽 分 判. 皂 白 顯 然. 千 忕 年 真 經 之冤 屈. 至 此 方 伸. 二 註 陳 較 於 侲尤 為 整 齊. 因 取 陳 本 為 據. 其 正 文 次 序. 似 有 不 貫 者. 略 為 更 移. 分 節 註 釋. 蜬 中 一 切 比 象 喻 言. 悉 皆 為 粉 粹. 與 大 眾 細 看 直 指. 何 者 是 爐 鼎. 何 者 是 藥 物. 何 者 是 陰 陽. 何 者 是 五 行 。何 者 是 先 天. 何 者 是 後 天. 何 者 是 火 候 .

何 者 是 烹 煉. 何 者 是 內 外. 何 者 是 始 終. 淀 實 盡 露. 肯 綮 全 現. 成 書 之 後. 名 曰 參 同 直 指. 倘 有 同 志 者. 見 而 閱 之. 則 知 參 同 之 道. 乃 歷 聖 口 口 相 傳 之 秘. 而 悟 元 之 註. 亦 非 野 狐 葛 藤 之 語. 正 文 節 序. 或 有 不 貫 之 處. 尤 賴 後 之 高 明 者 改 正 焉.

Thời

Đại Thanh Gia Khánh tứ niên tuế tại Kỷ Mùi xuân chi chính nguyệt nguyên đán nhật Thê Vân Sơn Tố Phác Tản Nhân Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh tự tự ư tự tại oa trung.

大 清 嘉 慶 四 年 歲 在 己 未 春 之 正 月 元 旦 日

棲 雲 山 素 樸 散 人 悟 元 子 劉 一 明 自 序 於 筄 在 窩 中.

Tựa của Tham Đồng Khế trực chỉ 

Thất phản cửu hoàn là Đại Đạo Kim Dịch Hoàn Đơn. Đó là điều bí mật của Trời Đất, đó là điều úy kỵ của quỉ thần. Lịch thánh xưa nay toàn truyền miệng cho nhau, không ghi lại thành văn tự, cho nên học giả thì đông như lông trâu, mà người biết được Đạo này thì hiếm như sừng con lân vậy. Lại còn thêm 3600 bàng môn, 72 khúc kính. Đem tà hỗn với chính, đem giả loạn với chân. Tuy có một hai chí sĩ, nhưng không phân biệt được ngọc với đá, nếu không phải là họ đã phụ ơn Trời, thì họ cũng đã đem cái kiến thức cao minh của mình, để cho tà đạo mê hoặc, những người như vậy hỏi có mấy người.

Ngụy Bá Dương Chân Nhân đời Đông hán (từ 25 đến 220), được thày là Trường Sinh Âm Chân Nhân truyền dạy. Ông có tư chất thông minh, lại có lòng thương xót hậu thế, nên đã dựa vào Chu Dịch để viết Tham Đồng Khế, chia làm Thượng, Hạ, Trung tam thiên. Tập đầu bàn về Thuật Ngự Chính, tập giữa bàn về Lý Dưỡng Tính, tập cuối bàn về phương pháp Phục Thực (Ăn Uống). Ba vấn đề nhưng qui về một Lý. Mở môn hộ riêng, dùng nhiều ngụ ngôn, đón tiếp moị người. Lấy hữu Tượng sánh với Vô Tượng, lấy hữu hình chỉ vẽ vô hình. Trong đó dược vật, hỏa hầu cái gì cũng đủ.

Khi sách đã in, thì biếu Tùng Sự Thanh Châu, Cảnh Hưu Từ Công. Từ Công chú được 3 thiên. Phát minh những điều vi diệu của Tham Đồng Khế.

Ngụy Chân Nhân lại truyền cho người Đồng Quận (ở Cối Kê) là Thuần Vu Thúc Thông. Thuần Vu Thị cũng làm Tam Tướng Loại tam thiên, bổ sung những điều khuyết điểm của Tham Đồng Khế. Thế là Kim Đơn chi lý, đã phô bày ra hết không còn gì che dấu cả,

Như thế là cả ba ngài đều chính mình tham chứng, tâm ấn viết thành sách. Các ngài không mô phỏng những gì sai trái, như đã thấy. Nên đây là cốt tủy của Tham Đồng. Vạn quyển đơn kinh của hậu thế sau này, đều lấy đây làm gốc. Cho nên ai cũng kêu nó là vạn cổ Đơn Kinh chi chủ 萬 古 丹 經 之 主 . Chu Tử  (1130-1200) viết Khảo Dị Chú Giải Tham Đồng, Trình Tử (1033-1107), Tượng Sơn (1139-1192) cũng thường khen sách này. Như  vậy thấy rằng Nho gia cũng rất khen thưởng sách này.

Thiết nghĩ sách này, lưu truyền đã lâu, nên thứ tự đã rối loạn. Các người bình giải sách này, đều đưa ra ý kiến riêng của mình, hoặc đem đoạn trước cho ra đoạn sau, hoặc đem sau ra trước, hoặc lẫn Kinh văn với Chú thích, hoặc đem Lời Tựa xếp lầm với Chính Văn. Chẳng những văn ý không ăn khớp với nhau, mà thứ tự cũng sai lạc. Lại cũng không phân đâu là Kinh, đâu là Lời Chú. Cái gì là của Ngụy Bá Dương, cái gì là của Cảnh Hưu Từ Công, cái gì là của Thuần Vu.

Cũng là một sách của Bá Dương, mà những kẻ vô tri, lại bàn về Thái Chiến, hoặc Thiêu Luyện, hủy báng Thánh Đạo, làm mai một Chân Tông, làm mất lòng từ bi độ thế của Ba Ông (Ngụy, Từ, và Thuần Vu).

Năm Càn Long, Nhâm Dần (1782), may được một người Vô Danh là Ông Chân Nhân chú giải, lại được Thượng Dương Tử (Trần Tử Hư) Trần Chân Nhân chú. Kinh phân rõ ràng, tiết tự trước sau ám hợp. Kinh ra kinh, chú ra chú, chỗ nào thêm thì là thêm, văn ra văn, chú ra chú, gạo muối phân biệt, hắc bạch hiển nhiên, Chân kinh bị oan khuất cả nghìn năm nay, đều được minh oan. Hai bài chú của Ông Trần và Ông đem sánh với nhau càng thấy tề chỉnh. Tôi lấy bản Ông Trần làm chính, chính văn và thứ tự thấy có gì không ổn, thì bỏ bớt đi.Phân tiết và chú thích lại, tất cả những Tỉ Tượng, Dụ Ngôn trong đó đều coi là phấn toái (không cần), cùng với đại chúng xem đâu là Chân chỉ. Thế nào là Lô Đỉnh, thế nào là Dược Vật, thế nào là Âm Dương, thế nào là Ngũ hành, thế nào là Tiên Thiên, thế nào là Hậu thiên, thế nào là Hỏa Hầu, thế nào là Phanh Luyện, thế nào là Nội Ngoại, thế nào là Chung Thủy, nhân hạt đều lộ, đầu đuôi toàn hiện.

Sách viết xong gọi là Tham Đồng trực chỉ. Nếu có ai đồng chí, xem và đọc nó, sẽ biết Tham Đồng chi Đạo. Đó chính là bí quyết của thánh hiền xưa nay, Ngộ Nguyên chú thích, không phải nói ngông cuồng. Nếu chính văn, tiết tự, có chỗ không được ổn, mong các bậc cao minh sau này cải chính cho.

Năm Đại Thanh, Gia Khánh tứ tuế (1799), ngày Nguyên Đán, Xuân Kỷ Mùi, Thê Vân Sơn, Tố Phác, Tán Nhân, Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh, viết lời tựa này tại Oa Trung.

 

Tam Tướng Loại nguyên tự

三 相 類 原 序  

Tham Đồng Khế giả, phô trần[1] ngạnh khái[2] bất năng thuần nhất, phiếm lạm nhi thuyết, tiêm vi vị bị, khoát lược phảng phất. Kim cánh soạn lục, bị tắc di thoát, nhuận sắc u thâm, câu viện tương đãi. Chỉ ý đẳng tề. Sở xu bất bột. Cố phục tác thử. Mệnh Tam Tướng Loại. Đại Dịch tính tình hĩ. Như khởi độ, Hoàng Lão dụng cứu, giảo nhi khả ngự. Lô hỏa chi sự, chân hữu sở cứ. Tam đạo do nhất, câu xuất kính lộ. Chi hành hoa diệp, quả thực thùy bố. Chính tại căn chu, bất thất kỳ tố. Thành tâm sở ngôn, thẩm nhi bất ngộ. 

參 同 契 者. 敷 陳 梗 概. 不 能 純 一. 泛 濫 而 說. 纖 微 未 備. 闊 略 髣  拂 . 今 更 撰 錄. 補 罻 遺 脫. 潤 色 幽 深. 鉤 援 相 逮. 旨 意 等 齊. 所 趨 不 悖. 故 復 作 此. 命 三 相 類. 大 易 忕 情 矣. 如 豈 度. 黃 老 用 究. 較 而 可 御. 爐 火 之 事. 真 有 所 據. 三 道 由 一. 俱  出 徑 鶆. 枝 莖 花 葉. 果 實 垂布. 正 在 根 株. 不  素  其 素. 誠 心 所 言. 審 而 不 誤.

Tam Tướng loại Nguyên tự 

Tham Đồng Khế mà nói ra cốt yếu, thì khó mà đi đến chỗ thuần nhất. Nếu nói đại khái, thì những điều nhỏ nhặt cũng chưa có đủ, hãy còn khái lược phảng phất. Nay soạn lục lại, bổ sung những gì còn thất thoát, nhuận sắc u thâm, ý chỉ  tề chỉnh, không đi ra ngoài đề. Cho nên viết sách này. Gọi là Tam Tướng loại. Sách Đại Dịch thì bàn về Tính Tình. Sách của Hoàng Lão thì để suy cưú. Còn bàn về Lô Đỉnh, thì đều có sở cứ. Ba Đạo là một. Đều có đường lối. Hoa quả lá cành, tất cả đều bày ra, tất cả đều có ngọn ngành, mà vẫn giữ được Tinh Hoa. Thành Tâm nói lời, suy ra không sai.

 

Tiểu sử  Lưu Nhất Minh 

Lưu Nhất Minh 劉 一 明 (1734–1821) là truyền nhân của Long Môn Phái đời thứ 11. Năm 17 tuổi (Càn Long 15, tức 1750), bị bệnh nặng, càng uống thuốc, bệnh càng nặng. May gặp được một Chân Nhân cho thuốc chữa trị. Năm 17 đi phỏng đạo mọi nơi. Gặp Kham Cốc Lão Nhân dạy cho bí quyết nội đơn, sau bái Ngài làm thày. Sau đó, để cầu tham chứng, Ông ở kinh sư 4 năm, Hà Nam 2 năm, Nhiễu Đô 1 năm, Tây Tần 3 năm, đi nhiều nơi khác 4 năm. Trong vòng 13 năm, đọc hết Tam Giáo kinh thư. Năm Càn Long 37, ông lên chơi Hán Thượng. Gặp Tiên Ông Lưu Trượng Nhân, được Ông chỉ điểm. Bao điều nghi ngờ trong 13 năm qua đều được giải quyết.

Nửa đời sau, Ông ẩn cư tại Cam Túc, huyện Du Trung, núi Thê Vân, và Hưng Long Sơn tu đạo, lập đàn truyền giáo, viết sách dạy đời. Và đã gây ảnh hưởng khắp vùng Tấn Hiệp, Cam, Ninh. Lúc ấy Ông là Đạo sĩ của Long Môn Phái.

Ông tinh thông Dịch học, giỏi y học. Đã soạn Đạo Thư Thập Nhị Chủng như  Ngộ Đạo phá nghi, Tượng Ngôn Phá Nghi, Tu Chân Biện Nạn, Hội Tâm Tập, Chỉ Nam Châm, Huỳnh Đình Kinh, Chu Dịch Xiển Chân, Tham Ngộ Chân Ngôn, Tu Chân Cửu Yếu, Thông Quan Văn, Tham Đồng Trực Chỉ, Ngộ Đạo Lục, Vô Căn Thụ, Âm Phù Kinh, Ngộ Chân Trực Chỉ.

Ông là nhà Đơn Học lớn của Nhà Thanh. Ông chủ trương Tam Giáo quán thông chi lý.

Lấy Trung Chính chi Đạo của Nho Gia làm gốc.

Ông cho rằng Đạo này Nho gia gọi là Trung Dung, Phật gọi là Nhất Thừa, Lão gọi là Kim Đơn.

Về phương diện luyện đơn, Ông chủ trương Tính Mệnh Song Tu, và có nhiều nhận xét rất độc đáo.

Ông là một trong những người đắc đạo mà tôi biết.[3]


[1] Phô Trần = Trình bày.

[2] Ngạnh khái = Thô cử, Đại Chương = nói Đại khái.

[3] Tham khảo: Trung Quốc Đạo Giáo, Khanh Hi Thái chủ biên, Đông Phương xuất bản trung tâm, q. I, tr, 396.