TƯ
TƯỞNG NHO HỌC &
SỰ BẢN ĐỊA HOÁ TẠI VIỆT NAM
Nhân tử
Nguyễn Văn Thọ
Xem bài liên quan:
Tư tưởng Phật học |
Tư tưởng Lão học
Đạo Khổng là một đạo rất hay, chỉ tiếc là
khó hiểu, nhưng nếu ta mất công sưu tầm, sẽ tìm ra mạch lạc của nó.
Chỗ cao siêu của Đạo, Đức
Khổng không phải bất kỳ ai cũng truyền, mà chỉ truyền cho người có căn
cơ, như Nhan Hồi.
Tử Cống than: «Văn chương Thầy ta thì
chúng ta đều được nghe. Còn về Bổn Tánh và Thiên Đạo, thì chúng ta chẳng
được nghe Thầy ta dạy.» (Luận Ngữ, 5, 12)
Ngài nói: «Ngô Đạo Nhất dĩ quán chi»
吾 道 一 以 貫 之
(Luận
Ngữ, 4, 15): Đạo ta,
có thể thâu tóm bằng chữ Nhất. Như vậy, Nhất đây là thuyết:
Thiên
địa vạn vật đồng nhất thể.
Khi bình về Học Thuyết Khổng Tử, cụ Trần
Trọng Kim đã viết: «Khổng Tử là một bậc thượng trí. Ngài nghĩ ngợi mà
suy xét mọi việc rồi mới phát minh ra cái học thuyết, chủ lấy sự theo
Thiên Lý làm căn bản. Ngài cho là trời đất và vạn vật đều có cái Lý ấy
cả, tất là cùng đồng một thể, cho nên Ngài mới lấy chủ nghĩa THIÊN ĐỊA
VẠN VẬT NHẤT THỂ làm thống hệ cho học thuyết của mình. Cái lý ấy là cái
Nguyên Nhân của sự sinh hoá trong vũ trụ... Cái lý vô hình ấy... gọi là
Thái Cực.» (Nho Giáo Trần Trọng Kim, q. 1, tr. 68)
Khảo Khổng Giáo, ta thấy Thái Cực, Nhất,
Trung, Thiên Lý, Thiên Đạo, Thiên Tâm, hay Tính đều là một.
Qui Nguyên Trực Chỉ, một quyển sách cổ từ
thời nhà Tống có chủ trương Tam Giáo đồng nguyên, nơi chương 26 có viết:
«Cái Chân Như Bản Tánh mà mỗi người đều có sẵn trước khi được cha mẹ mình
sinh, nó là một cái Thể chân thiệt, không dối trá, gọi là Bổn Lai Diện
Mục. Thiền Tông thì gọi nó là Chánh Pháp Nhãn Tạng. Liên Tông thì gọi
nó là Bổn Tánh Di Đà. Đức Khổng thì gọi nó là Thiên Lý. Đức Lão Tử thì
gọi nó là Cốc Thần. Dịch thì gọi nó là Thái Cực. Mỗi nơi
kêu tên một khác, kỳ thiệt nó vẫn là một Chân Như Bản Tánh vậy.» (Qui
Nguyên Trực Chỉ, Đỗ Thiếu Lăng dịch, chương 26, tr, 339)
Cho thấy cái chốt, cái căn
bản của Khổng Giáo chính là Thái Cực.
Luận Ngữ viết:
«Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sinh.»
君
子
務
本,
本
立
而
道
生
(Luận Ngữ, ch. I,
câu 2). Người quân tử chuyên lo CÁI GỐC. GỐC có vững, Đạo Lý mới sinh
ra.
Vụ
bổn như vậy là trọng gốc, là lưu tâm, lưu ý đến căn bản vũ trụ, quần
sinh; là lưu tâm, lưu ý đến những vấn đề hệ trọng quan thiết đến vận
mạng con người; là suy khảo về nguyên lý vũ trụ, quần sinh, về bản tính,
về chân đạo, chân lý.
Cái gì là căn bản vũ trụ
quần sinh? Khổng giáo xưa nay vẫn chấp nhận rằng:
Thái Cực hay Trời làm căn
bản vũ trụ quần sinh.
Đại Đỗng Chân Kinh, một sách của
Đạo Lão viết:
Muốn tìm căn bản, phải tìm nơi Thái Cực (Căn
bản do lai Thái Cực tầm - Đại Đỗng chân kinh, tr. 4b).
Hệ từ viết:
«Dịch hữu Thái cực. Thị sinh Lưỡng
Nghi, Lưỡng Nghi sinh tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái.»
易 有 太 極.
是
生 兩
儀. 兩
儀 生
四 象.
四 象
生 八
卦
(Dịch:
Hệ Từ thượng)
Dịch Kinh Đại Toàn cũng có
một bài thơ, trong đó có câu:
Tu tri nhất bản sinh song cán,
須 知 一 本 生 雙 幹
Thủy tín thiên nhi dữ vạn tôn.
始 信 千 兒 與 萬 孫
Dịch
Có hay một gốc đôi cành rẽ,
Mới thấy nghìn con, vạn cháu đông.
Một gốc là Thái Cực. Đôi cành là Âm
Dương.
Gốc hay Thái Cực thời trường tồn, bất
biến.
Âm Dương thời hư ảo, biến thiên.
Trang Tử viết trong Nam Hoa Kinh như sau:
«Hư Tĩnh, Điềm Đạm, Tịch Mạc, Vô Vi ấy chính là Gốc sinh ra vạn
vật. Hiểu điều đó, nên Nghiêu làm vua thiên hạ, Thuấn trở nên hiền thần;
ở ngôi trên, áp dụng được nó, nên Đế Vương, Thiên Tử; ở cấp dưới, áp
dụng được nó, trở nên Huyền Thánh, Tố Vương.» (Nam Hoa Kinh, Thiên Đạo
XIII, A).
Nhìn sang Triết Học Ấn Độ, ta thấy sách
Áo Nghĩa Thư cũng có chủ trương tương tự.
Shri Aurobindo toát lược Áo Nghĩa Thư
đại khái như sau:
«Áo Nghĩa Thư muốn lập căn bản vũ trụ quần
sinh và đưa ra quan niệm Thực Thể duy nhất, bất biến, lồng trong mọi tạp
thù, biến ảo, và là chủ chốt chi phối vũ trụ hình tướng, biến dịch bên
ngoài.
«Áo Nghĩa Thư cho rằng: hai phương diện
biến hằng của vũ trụ quần sinh, đều bao hàm trong những trạng thái động
tĩnh của Brahman, Thực thể duy nhất, bất khả phân, và căn cơ của vũ trụ.
Theo Áo Nghĩa Thư, Thực Thể duy nhất ấy thể hiện và hiển dương trong thế
giới chuyển dịch và hình tướng này, qua trung gian những lớp lang, tiết
tấu, những giai đoạn, những trình độ, những thời kỳ khác nhau.
«Sự biến thiên, chuyển dịch cốt là để
thực hiện lại Duy Nhất, cốt là để cho quần sinh phối hợp được với Duy
Nhất.» (Shri Aurobindo, Trois Upanishads, p. 20 and ss.)
Tư Mã Thiên tóm tắt niềm tín
ngưỡng tự nhiên của nhân loại bằng những lời lẽ mộc mạc sau đây: «Trời là
thủy tổ của con người, cha mẹ là gốc gác của con người. Người ta khi
cùng khổ sẽ quay về nguồn, về gốc, cho nên khi khổ sở, lao lung, cùng
cực thời thường kêu Trời, thời thường kêu cha mẹ.» (Traduction Couvreur,
Annales de la Chine, p. 110)
Đức Khổng cũng tin rằng Trời là gốc gác
muôn vật, quần sinh, gốc gác con người, nên muốn hiểu con người, trước
phải biết Trời, vì Trời là gốc, mà con người là cành, là ngọn. Trung
Dung viết:
Tư tri nhân, bất khả bất tri Thiên
思 知 人 不 可 以 不 知 天.
Dịch:
Biết Người, trước phải biết Trời,
Hiểu Trời chẳng nổi, hiểu Người làm
sao?
(Trung Dung, ch. XX)
Những người vụ bản còn là những con người
đi sâu được vào tầng lớp làm căn cơ, cốt cách con người, tìm ra được
Đạo, được Trời ở đáy lòng.
Ngày nay, người ta gọi những người đó là
những người có «tâm địa ban sơ» (mentalité archaique), nghĩa là những
tâm hồn sống kề cận với căn bản, với cốt cách con người (Arche). Đó là
những con người hãy còn hồn nhiên, toàn vẹn, chưa bị pha phôi bởi vọng
niệm, tư tâm, kiến văn, kiến thức. Nói thế, tức là con người vụ bản đi
sâu được vào Vô thức. Vô thức đây không phải là thứ Tiềm thức hời hợt
của Freud, chơi vơi giữa óc não và nhân tâm, nhưng Vô Thức đây chính là
Vô Thức Đại Đồng của Jung, là Toàn Nhất của Hartmann, là Tự thể của
Kant, là Tuyệt Đối của Schelling, hay Bản Tính của Carus.
Đức Khổng gọi cái Vô Thức ấy là Tính (Trung
Dung, I), Thiên Mệnh (Trung Dung, I), là Mệnh (Luận Ngữ XX,
3), là Đạo (Trung Dung I), là Thành (Trung Dung, XX, XXI),
là Minh Đức (Đại Học, I), và suy luận ra rằng
ý thức hay nhân
tâm không phải là chủ trong con người, ngược lại chúng phải khuôn theo,
thuận theo Vô Thức, thuận theo Thiên Tính để tiến tới hoàn thiện.
Tìm ra được căn cơ, cốt cách, bản tính con người, tức là tìm thấy Đạo,
thấy Trời trong tâm khảm mình.
Ngô Thảo Lư viết: Đạo, Lý, Thành, Thiên,
Đế, Thần, Mệnh, Tính, Đức, Nhân, Thái Cực, lời tuy có khác, nhưng ý chỉ
có một. (Tống Nguyên học án, q. 12, tr. 8).
Chính vì thế mà Mạnh Tử viết:
Thấu triệt lòng, sẽ hay biết Tính,
Hay biết Tính, nhất định biết Trời,
Tồn Tâm, dưỡng Tính chẳng rời,
Ấy là giữ Đạo thờ Trời chẳng sai...
(Mạnh Tử, Tận tâm chương cú thượng
I).
Đại Học viết:
Đại Học có mục phiêu rõ rệt,
Đuốc Lương Tâm cương quyết phát huy,
Dạy dân lối sống tân kỳ,
Chưa nơi hoàn thiện, còn đi chưa ngừng.
Có mục phiêu rồi lòng sẽ định,
Lòng định rồi, nhẹ gánh lo toan
Hết lo, lòng sẽ bình an,
Bình an, tâm trí rộng đường xét suy.
Suy xét rộng, tinh vi thấu trọn,
Thấu sự đời, ngành ngọn đầu đuôi,
Trước sau đã rõ khúc nhôi,
Thế là gần Đạo, gần Trời còn chi.
Đã nói rằng Trời là căn cơ,
gốc gác con người, thì con người chẳng thể lìa xa được khỏi Trời, dù là
một phút giây, vì cành làm sao lìa khỏi gốc được? Vì thế Trung Dung
viết: «Đạo dã giả bất khả tu du ly dã.»
道 也 者 不 可 須 臾 離 也.
Quan niệm này đem so với quan niệm của
các nhà minh triết Ấn Độ, ta thấy giống nhau hoàn toàn.
Katha Upanishad viết:
Chân Tâm chủ tể muôn loài,
Thể thời duy nhất, Hình thời ngàn muôn.
Biết Ngài ngự giữa tâm hồn,
Mới mong hạnh phúc trường tồn, vô
chung,
Biết Ngài bất biến thung dung,
Lồng trong trời đất lao lung chuyển
vần.
Biết Thần ngự giữa chúng Thần,
Biết Ngài duy nhất giữa quần sinh ban,
Bao nhiếu mơ ước chứa chan,
Biết Ngài phân phát cho toàn sinh linh.
Biết Ngài ngự giữa lòng mình,
Mới mong hạnh phúc siêu sinh trường
tồn.
(Katha Up. 5, 14. - Prasna
6, 5 - Brih. 4, 4 - 1- 2)
Vì thế mà Kinh Thi mới viết:
Chái Tây Bắc, góc nhà thanh vắng,
Đừng làm chi đáng để hổ ngươi.
Đừng rằng tăm tối chơi vơi,
Đừng rằng tăm tối, ai người thấy ta.
Thần giáng lâm ai mà hay biết,
Nên dám đâu khinh miệt, dể ngươi?
(Mao Thi, Đại Nhã, Ức Thiên)
Quan niệm trên cũng đã được Trung Dung
nhắc lại nơi chương XVỊ
Đức Khổng vì đã tìm ra được
Trời, được Đạo tàng ẩn trong tâm khảm mình, nên đã sống một cuộc đời đạo
hạnh chân thực, nghĩa là sống phối kết với Trời.
Trung Dung gọi thế là
Phối Thiên (Trung
Dung,
ch. XXVI)
Thomas Mann gần đây cũng cho rằng
đạo
hạnh chân thực chính là sống phối kết với bản thể (L'Homme se sente
directement branché sur le mystère profond de l'être.) (Critique,
mars, 1961. No 166, p. 218).
Ngoài ra, Đức Khổng còn cho
rằng mọi lề luật chi phối con người và quần sinh vũ trụ đều đã được ghi
tạc ngay trong lòng con người, trong lòng quần sinh, vạn hữu.
Trung Dung viết:
Đạo luôn gần gũi người đời,
Những ai lập đạo xa rời chúng nhân,
Hiếu kỳ, lập dị là nhầm.
(Trung Dung, ch. XXII)
Kinh Thi viết:
Trời sinh ra khắp muôn dân,
Vật nào phép nấy định phân rành rành.
Lòng dân sẵn có căn lành,
Nên ưa những cái tinh thành, tốt tươi.
(Kinh Thi, Chưng Dân).
Chính vì lĩnh hội được cái chân đạo ấy,
mà Đức Khổng không câu nệ về những hình thức cầu đảo bên ngoài.
Khi Ngài đau, Tử Lộ khuyên Ngài nên cầu
đảo. Ngài trả lời: «Ta cầu đảo từ lâu rồi.» (Luận Ngữ, VII, 30).
Ý Ngài muốn nói: tuy không cầu đảo theo thói thông thường, nhưng thực ra
đời Ngài đã là cả một bài kinh nguyện trường thiên, vì luôn sống phối
kết với Thượng Đế.
Ngài khuyên mọi người nên
học cho nhiều để tìm cho ra cốt cách, căn cơ của mình, tìm cho ra Trời,
ra Đạo ở nơi tâm khảm mình, và cho rằng đó là điều kiện thiết yếu để
sống cuộc đời đạo hạnh, chân thực.
Đại Học viết:
Muốn đức sáng truyền đi thiên hạ,
Người xưa lo cải hóa dân mình.
Trị dân trước trị gia đình,
Gia đình muốn trị, sửa mình trước tiên
Muốn sửa mình, Tâm nên sửa trước,
Sửa Tâm Hồn, trước cốt ý ngay.
Ý ngay, phải học cho dày.
Dày công học vấn sẽ hay Khuôn Trời.
Hay Khuôn Trời thoắt thôi thấu triệt
Thấu triệt rồi, ý thiệt, lòng ngay.
Lòng ngay, ta sẽ hóa hay,
Ta hay, gia đạo mỗi ngày một yên.
Nhà đã yên, nướữc liền thịnh trị.
Nước trị bình bốn bể bình an.
Từ dân cho tới vua quan,
Tu thân một mực lấy làm căn cơ.
(Đại Học, I)
Ngài chủ trương dạy thiên
hạ làm bừng sáng ngọn đuốc lương tâm, cố gắng cải thiện không ngừng, để
tiến tới hoàn thiện.
Đại Học viết:
Đại Học có mục phiêu rõ rệt,
Đuốc Lương Tâm cương quyết phát huy.
Dạy dân lối sống tân kỳ,
Chưa nơi hoàn thiện còn đi chưa ngừng.
(Đại Học, I)
Đó chính là chủ trương của các vị đại
Thánh, đại Hiền trong thiên hạ.
Thời cổ xa xưa, Mahagourou, vị thánh Ai
Cập, cũng đã dạy thiên hạ phát huy «ánh sáng nội tại ấy». Đó là ánh sáng
soi cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Ánh sáng ấy là «con người chân
thực». Ánh sáng ấy tiềm tàng khắp nơi, ẩn áo ngay cả trong lòng nham
thạch. Đối với con người... ánh sáng ấy gần gũi họ hơn mọi sự, ánh sáng
ấy đã hiện diện trong lòng mọi người. Thực thể ấy gần gũi con người hơn
mọi hình thức lễ nghi, vì con người chỉ cần hồi quang, quán chiếu là tìm
thấy ngay ánh sáng ấy. Khi con người biết ra, mà vượt lên trên mọi lễ
nghi hình thức, là con người lên được tới cùng Osiris, lên được tới ánh
sáng. Ánh sáng ấy chính là thượng thần Amoun- Ra, căn nguyên và cùng
đích mọi sự. (A.E. Powell, Le système solaire, p. 351)
Tóm lại, Đức Khổng chủ trương
chân đạo
phát xuất từ «thâm tâm con người». Trung Dung viết:
Nên đạo quân tử phát xuất tự «thâm
tâm»,
Đem trưng bày phổ cập tới thứ dân,
Khảo chứng tiên vương không có chi lầm
lỗi.
Sánh với luật đất trời không phản bội,
So quỉ thần đường lối đúng không sai,
Thánh nhân ngàn đời sau, chẳng có chê
bai.
So quỉ thần đường lối đúng không sai,
Thế là đã biết lòng Trời đó,
Thánh nhân ngàn đời sau chẳng có chê
bai,
Thế là đã biết lòng người tỏ rõ.
(Trung Dung, ch. XXIX)
Những con người vụ bản là những con
người hiếu cổ. Hiếu cổ không phải để mua vui, mà chính là để hướng
về nguồn, mà chính là để dùng gương xưa, tích cũ, lèo lái cho công trình
tạo tác thời nay, mà chính là để theo chân người xưa, khám phá và làm
sống động lại các tầng lớp thẳm sâu của tiềm thức. Như vậy khảo cổ tức
là khơi sâu, chẳng những khơi sâu thời gian và lịch sử, mà còn khơi sâu
tâm khảm con người, làm cho con người mở rộng thêm tầm kích, sống thêm
sâu xa linh diệu. Chính vì vậy mà Đức Khổng ưa khảo cổ. Ngài nói trong
Luận Ngữ:
Ta trần thuật chứ không sáng tạo,
Tin cổ nhân, mộ đạo cổ nhân.
(Luận Ngữ, Thuật Nhi, VII, 1)
Trung Dung viết thêm: «Trọng
Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương Văn, Võ.»
仲 尼 祖 述 堯,
舜,
憲 章 文 武
(Trung Dung, ch. XXX).
Các môn đệ Đức Khổng Nhiều người cũng tỏ
ra hiếu cổ. Mạnh tử thuật lại rằng: «Các ông ấy có chí cả, và thường
lớn tiếng nhắc đi, nhắc lại: ôi người xưa, ôi người xưa.» (Mạnh tử,
Tận Tâm chương cú hạ, 37. Luận Ngữ. VII, 19. Luận Ngữ, IV, 21).
Những người vụ bản còn có tâm hồn định
tĩnh. Vì họ chú trọng đến các tầng lớp thẳm sâu trong tâm hồn, nên
có đời sống nội tâm rồi rào.
Các ngài ưa trầm tư, mặc tưởng, để tìm ra
nguyên lý, tìm ra định luật chi phối vũ trụ
Đại Học viết:
Có mục phiêu rồi lòng sẽ định,
Lòng định rồi, nhẹ gánh lo toan.
Hết lo lòng sẽ bình an,
Bình an tâm trí, rộng đàng xét suy.
Suy xét rộng, tinh vi thấu trọn,
Thấu sự đời, ngành ngọn đầu đuôi.
Trước sau đã rõ khúc nhôi,
Thế là gần Đạo, gần Trời còn chi.
(Đại Học, I)
Trang Tử cũng có chủ trương tương tự Ông
viết: «Nước lặng sẽ chiếu soi thấy được râu mày, lại được thợ dùng để
đánh thăng bằng. Nước lặng mà còn trong, huống chi là tinh thần? Lòng
thánh nhân mà tĩnh lãng, thời sẽ nên gương soi trời đất, vạn vật.» (Nam
Hoa Kinh, Thiên Đạo, XIII, A).
Vì vậy mà Đức Khổng thường trầm tư, mặc
tưởng (Luận Ngữ, XV, 30). Ngài cũng dạy các môn đệ năng xét
mình, để trừ khử những điều không hay, không tốt, (Luận Ngữ,
I, 3), để khiến cho tâm hồn trở nên như băng tuyết (Luận Ngữ
II, 2).
Chính nhờ sống một cuộc sống nội tâm sâu
sắc như vậy mà đức Khổng thường ung dung thư thái (Luận Ngữ,
VII, 4). Có thể nói được rằng ngày nay chúng ta thường
buồn
bực, khổ sở, bất mãn, một phần là vì đã bỏ quên mất nếp sống tâm hồn, mà
sống phiến diện nơi óc não, nơi giác quan, hay vùi đầu vào ngoại cảnh,
đem hết tâm lực chạy theo tiền bạc, lợi danh, hoặc thú vui nhục dục.
Thế là trạng thái đánh mất tâm hồn mình,
theo từ ngữ Thánh Kinh (Mat. 16, 26), hoặc theo từ ngữ của
Harvey Cox trong cuốn The Feast of Fools (While gaining the whole
world, Western men has been losing his own soul), hay làm thất lạc con
tim theo Mạnh Tử (Mạnh Tử, Cáo Tử chương Cú thượng, 2).
Nhờ vụ bản, mà Đức Khổng đã tìm ra được
nguyên lý duy nhất, do đó suy ra vạn sự.
Đức Khổng đã nói: Đạo ta là do một nguyên
lý mà suy ra (Ngô đạo nhất dĩ quán chi
吾 道 一 以 貫 之,
Luận Ngữ, IV
15), và Luận Ngữ, XV, 2).
Nguyên lý duy nhất ấy chính là gốc, mọi
sự khác chỉ là ngọn. Biết được nguyên lý duy nhất rồi sau sẽ suy ra các
điều khác. Không biết được nguyên lý duy nhất thời mọi sự sẽ rối mù.
Đoàn Trung Còn bình: Nhất dĩ quán chi là
một môn học cao vi của nhà Nho. Người ta bắt đầu từ chỗ gần, mà xét tới
chỗ xa, từ chỗ hiển mà đạt tới chỗ mật. Nhà học Đạo cần phải có tâm bình
đẳng, đạt mức trung dung, do một mối mà phăng lần ra, thì có thể bắt từ
ngọn mà đi đến gốc. Nhờ quan sát như vậy, nhà Đạo hiểu tâm tánh người
đời. Cao hơn nữa, nhà Đạo biết ra lẽ bí mật trong vũ trụ vậy. (Đoàn
trung Còn, Luận Ngữ, XV, 2)
Chính vì thế mà Trang tử đã nói:
«Thông
vu nhất, nhi vạn sự tất.» 通 于 一 而 萬 事 畢 (Biết được nguyên lý, thời vạn vật cũng biết
xong xuôi. (Nam Hoa Kinh, Thiên Địa XII, A). Ông
cũng còn nói: «Đắc kỳ hoàn trung, dĩ ứng vô cùng.»
得 其 環 中 以 應 無 窮
(Trước hết phải nắm được tâm điểm, Sau đó sẽ ứng dụng
được vô cùng.) (Nam Hoa
Kinh, Tề vật luận II, C).
Đức Khổng còn dùng nguyên lý duy nhất mà
suy ra lẽ tuần hoàn biến hóa của mọi sự biến địch trong hoàn võ. Ngài
cho rằng mọi sự biến hóa chung qui đều trở về lại căn nguyên, và sự tu
luyện học hỏi của con người cũng cốt là để nhập thần, huyền hóa. Vì thế
mà Ngài đã viết trong Hệ Từ, khi bình về Hào Cửu Tứ quẻ Hàm như sau:
Dạy rằng muôn sự trên đời,
Cần chi lo lắng, rối bời mà chi.
Muôn đường nhưng vẫn đồng qui,
Trăm chiều lo lắng qui về một căn.
Cần chi mà phải băn khoăn,
Việc gì mà phải bận tâm lo lường.
Vầng trăng đắp đổi vầng dương,
Vầng dương đắp đổi đài gương Quảng
Hằng.
Mặt trời cùng với mặt trăng,
Luân phiên đắp đổi, nên hằng sáng soi.
Lạnh đi, nóng lại tới nơi,
Nóng đi, lạnh lại trở lui thay liền.
Hàn ôn đắp đổi thường xuyên,
Cho nên niên tuế miên triền sinh ra.
Trôi vào quá vãng là co,
Vị lai là giãn, giãn là triển dương.
Khuất thân, co giãn thời thường
Đôi bên cảm ứng, mở đường lợi sinh.
Sâu đo có lúc co mình,
Co mình cốt để duỗi mình dễ hơn.
Long xà đông tới chập chờn,
Ngủ vùi tháng lạnh, bảo tồn tấm thân,
Học sao tinh nghĩa nhập thần,
Rồi ra áp dụng muôn phần hay ho,
Đã rành đã tỏ hóa cơ,
Rồi ra lợi dụng ấm no thân mình.
Thân mình sung túc, an ninh,
Rồi ra nhân đức thi hành sùng tôn,
Băng chừng từ đó tiến lên,
Là vào tới cõi siêu nhiên, thánh thần.
Thần minh khế hợp vào tâm,
Hóa cơ đã tỏ, siêu nhân đã đành.
(Hệ từ hạ, chương V)
Đức Khổng đã áp dụng nguyên lý duy nhất
ấy vào công cuộc tu thân, tề gia. trị quốc, bình thiên hạ.
Sau khi đã định được căn bản của vũ trụ
quần sinh là Thái Cực, là Trời. Mà Trời hay Thái Cực thời:
- Bất biến,
- Hằng cửu,
- Siêu vi. - Vừa lồng trong
vạn vật, vừa siêu xuất vạn vật
- Vừa là căn cơ, vừa là cùng đích muôn
loài.
- Lại hoàn thiện, tuyệt đối.
Ở nơi con người thì
Thái cực là Lương
Tâm, Lương tri, tuyệt đối, hoàn thiện, nên chính là Tính con người, là
phần Thiên nơi con người. Nó khác hẳn với nhân tâm, vì nhân tâm chỉ
là thất tình, lục dục, luôn luôn biến thiến, thay đổi.
Cho nên trong công trình tu
luyện phải luôn theo tiếng Lương Tâm, giữ gìn cho Lương Tâm được luôn
luôn trong trẻo, và phải trở về với Lương Tâm là mới trở về được với
Đạo, với Trời.
Kinh Thư gọi Lương Tâm là Đạo Tâm.
(Kinh Thư, Đại Vũ Mô, 15)
Trung Dung gọi là Tính. (Trung Dung, I)
Đại Học gọi là Minh Đức. (Đại
Học, I)
Kinh Dịch gọi là Thái Cực. (Dịch,
Hệ Từ)
Mạnh Tử gọi là Xích tử chi tâm (Mạnh Tử,
Ly Lâu hạ, 12).
Ngoài ra chư Nho còn gọi là Nhất, là
Trung, là Thành, là Mệnh v.v...Chính vì thế nên Bản Tính con người thời
hoàn thiện. (Nhân chi sơ, Tính bản thiện). (Tam Tự Kinh)
Chính vì thế mà trong công cuộc tu thân
con người phải tiến tới hoàn thiện (Đại Học, I), tiến tới chí
thành, chí thiện
Thành giả Thiên chi đạo dã,
Thành chi giả, nhân chi đạo dã.
Dịch
Hoàn toàn là Đạo của Trời,
Trở nên hoàn thiện, đạo người xưa nay.
(Trung Dung, XX).
Như vậy, cá nhân và xã hội đều phải theo
một khuôn mẫu, là tiến tới chỗ hoàn thiện. Khổng tử nói: «Trò Sâm, Đạo ta
do một nguyên lý mà suy ra. Tăng tử đáp: Dạ...Đạo Thày là đem hoàn thiện
vào lòng mình và làm cho người khác trở nên giống mình.» (Luận Ngữ, Lý
Nhân, IV, 15).
Mạnh tử cũng nói: «Mạnh tử chỉ bàn về tính
thiện, và không ngớt ngợi khen Nghiêu Thuấn... Đạo Lý chỉ có một mà thôi.»
(Mạnh tử, Đằng văn Công chương cú thượng, 1)
Chính trị
chính là sửa sang mọi
người và đưa mọi người về tới Hoàng Cực hoàn thiện.
Trung Dung viết:
Đạo quân tử có năm hình thức,
Nương ba chồi, thịnh đức sum sê.
Quân thần, phụ tử, phu thê,
Anh em cốt nhục, bạn bè tất giao.
Ấy năm đạo tối cao thiên hạ,
Trí, Dũng, Nhân, đức cả 3 chồi,
Năm cành, ba cỗi tốt tươi,
Tinh thành do một gốc Trời trổ sinh.
(Trung Dung XX)
Trung Dung còn viết:
Thành vốn dĩ tự mình hoàn thiện,
Đạo thời thường tự khiển, tự do.
Thành là cùng đích, duyên do,
Duyên do, cùng đích khắp cho muôn loài.
Bỏ nhẽ ấy khôn bài có vật,
Nên hiền nhân quí nhất chữ Thành.
Hoàn thành không những riêng mình,
Rồi ra hoàn thiện quần sinh muôn loài.
Hoàn thành mình là người nhân đức,
Tác thành vật, là bực thông minh.
Thiên nhiên tự tính uy linh,
Trong ngoài hai mặt, một mình quán
thâu.
Nên quân tử biết câu sau trước,
Xếp thời giờ, tổ chức cho hay.
(Trung Dung XXV).
Như vậy, về phương diện
chính trị, phải liệu lý từ trong ra ngoài. Căn cơ có tỏ, thì tâm mới
định; thần có linh, thì tâm mới thiện; Tâm có thiện, thì thân mới an;
thân có an, thì gia đình mới tốt; gia đình có tốt, thì quốc gia mới
thịnh; quốc gia có thịnh, thì thiên hạ mới mong bình. Mới hay có thấu
đáo căn cơ, cốt cách của mình, thì thân mới tu, gia mới tề, quốc mới
trị, thiên hạ mới bình. Cái gốc có vững, thì cái ngọn mới không xiêu.
Ngày nay, thế giới trở nên đảo điên, suy
vi, loạn lạc, chính là vì người ta đã trở nên vong bản, đã quên mất gốc,
hoặc không biết rằng cái gốc hoàn thiện đã ở ngay trong tâm cơ con
người. Thành thử, người ta cầu mong hòa bình mà chỉ thấy loạn lạc; người
ta hứa hẹn an lạc, mà chỉ thấy toàn gian khổ, điêu linh. Tất cả những
cái thống khổ, khốn nạn, tất cả những chén phiền não, tân toan mà con
người đã, đang, và sẽ uống hằng ngày, đều là do đã lạc mất tâm, đã quên
mất gốc.
Chúng ta muốn an bình ư?
Hãy tìm về gốc, trở về nguồn. Chúng ta muốn có một nền học vấn cao siêu
ư? Hãy khảo về gốc, suy về nguồn. Chúng ta muốn tìm ra giải đồng thân
ái, liên kết ta được với người, với chúng dân trong hoàn võ ư? Hãy tìm
ra gốc, tìm ra nguồn.
Căn cơ, nguồn gốc của chúng ta, chúng ta
khỏi tìm ở khởi điểm lịch sử. Nguồn gốc vũ trụ nhân quần, chúng ta khỏi
suy khảo cho tới phút lập địa, khai thiên. Muốn tìm về gốc nguồn
chúng ta, chúng ta chỉ việc phạt quang hết những lau lách dục vọng hay
tạp niệm nội tâm (M. T. Tận tâm chương cú hạ, 21), rồi ra chúng
ta sẽ thấy hiện ra một con đường quang, đưa tới nguồn, tới gốc, rồi ra
chúng ta sẽ thấy hiện ra trong Não Thất 3, tức là trong Nê Hoàn Cung
chúng ta một viên ngọc quí sáng ngời, đó là Lương Tâm chúng ta, mà
Đạo Lão gọi là Kim Đơn, mà khoa luyện đan Âu Châu gọi là Philosopher's
Stone. Đó là cái Đạo mà sáng nghe biết rồi, chiều chết cũng cam của
Khổng giáo. (Triêu văn Đạo, tịch tử khả hĩ.
Luận
Ngữ,
Lý Nhân IV, 8). Tìm ra Đạo này là một công trình khó khăn, nhưng
thích thú.
Tóm lại, Thái Cực hay Trời, khi sinh ra
ta thì gọi là Căn Cơ, khi kêu ta về thì gọi là Cùng Đích. Như vậy Trời
không ở đâu xa, mà đã nằm sẵn trong lòng sâu con người. Ta đã thấy bất
kỳ đạo giáo chân chính nào trên thế giới cũng đều chủ trương như vậy.
Sách Trung Dung đã viết theo kiểu
này: Sách bắt đầu bằng chữ Thiên, rồi nở ra thành Tam Đức, Ngũ Luân, Cửu
Kinh, đoạn khép lại thành Đạo Thánh Nhân, rồi lại trở về với Trời vô
thanh, vô xú. Thật là hoàn hảo tuyệt vời.
Thế là:
Tung ra tản mạn khắp muôn phương trời,
Thu tóm lại dấu nơi ẩn áo.
Hay sao hay, kỳ ảo khôn cùng
Đó là thực học chính tông,
Ai hay tìm hiểu, sẽ thông ý mầu,
Thông ý mầu, rồi sau ứng dụng,
Dùng cả đời, cũng chẳng hề vơi.
(Trung Dung, Chu Hi chương cú)
Sau đây, chúng ta sẽ dùng Kinh Dịch
để giải thêm thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể.
Kinh Dịch chủ trương: Vũ trụ này
do một đại thể duy nhất, một căn nguyên duy nhất phân hóa ra. Bản thể
duy nhất ấy Dịch gọi là Thái cực, là Âm Dương hợp nhất, là Thổ, là Nhất,
là 5, hay 15.
Dịch trình bày tư tưởng trên bằng:
a) Hình vẽ Thái Cực, gồm Âm lẫn Dương.
b) Bằng chữ Dịch
易
gồm 2 chữ Nhật
日, và Nguyệt
勿
(月).
Nhật thời Bất Biến, Nguyệt thời Biến Thiên.
易 =日 + 勿 = 日 + 月
c) Bằng chữ Thổ
土, gồm hai nét Âm Dương
二, và nét Sổ
| hợp nhất.
d) Bằng số 5 vì năm là 3 (Dương) + 2 (Âm).
e) Bằng số 15 vì 15 là 9 (Dương) + 6 (Âm).
Thái Cực thời Bất Biến.
Âm Dương thời Biến Hóa vô cùng.
Bản Thể ấy đã sinh hóa, phóng phát ra vũ
trụ, bằng cách phân hóa.
1 chia 2.
2 chia 4.
4 chia 8.
8 chia 16, chia 32, chia 64.
Dịch diễn tả tư tưởng ấy bằng chữ:
Thái Cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát
quái...
Hoặc bằng hình vẽ:
a/ Bản thể vũ trụ và vạn hữu vẽ thành vòng
Dịch tròn.
Lúc đó:
Tâm điểm là Thái Cực.
Vạn hữu là hào quải vây quanh bên ngoài..
Thái Cực hay Bản Thể như vừng dương sinh
xuất muôn ánh hào quang vạn hữu.
b/ Bản thể vũ trụ (Thái Cực) và Vạn Hữu
(Hào quái) xếp theo hình ngang. Lúc ấy, Bản Thể (Thái Cực) là gốc cây,
vạn hữu (hào quái) như cành, như lá bên trên.
Vòng biến dịch tuần hoàn của vũ trụ được
tượng trưng bằng:
a/ Vòng Dịch Tiên Thiên bát quái
Đồ hình này có 2 nửa phải, trái. Nửa phải
có 4 quẻ là Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Hào trong cùng của 4 quẻ này đều là
Hào âm. Hơn nữa, Hào Âm ngày càng tăng. Hào Dương càng ngày càng giảm:
(Tốn có 1 hào Âm, Khảm có 2 hào Âm cách nhau, Cấn có 2 Hào Âm liền nhau,
Khôn có 3 hào Âm), vì thế, chiều này gọi là chiều Âm trưởng, Dương tiêu.
Như vậy, ta thấy rằng, ở chiều này, Vật
Chất ngày càng thịnh, Tinh Thần ngày càng suy
Nửa trái có 4 quẻ là Chấn, Ly, Đoài, Kiền.
Hào trong cùng của 4 quẻ này đều là Hào Dương. Hơn nữa, Hào Dương ngày
càng tăng, Hào Âm ngày càng giảm. (Chấn có 1 hào Dương, Ly có 2 hào
Dương cách nhau, Đoài có 2 hào Dương liền nhau, Kiền có 3 hào Dương), vì
thế chiều này gọi là chiều Dương trưởng, Âm tiêu. Như vậy ta thấy rằng ở
chiều này Tinh Thần ngày càng thịnh, Vật Chất ngày càng suy.
b/ Bằng Vòng Dịch Tiên Thiên 64 quẻ.
Nơi vòng Dịch Tiên Thiên 64 quẻ, ta thấy
nửa phải có 32 quẻ, từ Cấu đến Khôn. Tất cả các Hào trong cùng của 32
quẻ này đều là Hào Âm. Đó là Chiều Âm, vì
Âm ngày càng thịnh, đó cũng gọi là chiều Thuận.
Nửa trái có 32 quẻ, từ Phục đến Kiền. Tất
cả các hào trong cùng của 32 quẻ này đều là Hào Dương.
Đó là Chiều Dương vì Dương ngày càng thịnh, đó
cũng còn gọi là Chiều Nghịch.
Thế là:
Gẫm Đạo Lý có sau, có trước,
Lẽ Âm Dương có ngược, có xuôi.
Xuôi là gió cuốn bụi đời (Thiên Phong
Cấu),
Đẩy đưa vào chốn trần ai, cát lầm,
Có thử thách mới phân vàng đá,
Có lầm than mới rõ chuyện đời.
Ngược là sấm chớp tơi bời (Địa Lôi Phục),
Tầng sâu bày giãi căn trời nội tâm,
Trông tỏ đích chí nhân, chí chính,
Biết mục phiêu sẽ định, sẽ an.
Rồi ra suy xét nguồn cơn,
Con đường phối mệnh chu toàn tóc tơ.
Dịch Kinh quí nhất chiều nghịch. (Dịch
nghịch số dã. Kinh Dịch, Thuyết quái, chương III, câu 2), vì Chiều
Nghịch là Chiều sinh Thánh, sinh Thần, còn chiều Thuận là Chiều sinh
Nhân, sinh Vật.
c/ Hoặc giản dị hơn, bằng vòng Dịch
Thập
Nhị quái khí.
Thập Nhị quái Khí là 12 quẻ rút ra từ Vòng
Dịch 64 quẻ nói trên.
Nửa phải có 6 quẻ là Cấu, Độn, Bĩ, Quan,
Bác, Khôn. Đó là Chiều Âm.
Nửa trái có 6 quẻ là Phục, Lâm, Thái, Đại
Tráng, Quải, Kiền. Đó là chiều Dương.
d/ Hoặc bằng 1 đồ bản vẽ Thái cực nằm
chính giữa, với 6 vòng tròn đồng tâm bên ngoài. Ngoài cùng có 12 quái
khí.
Trông vào hình đồ trên ta thấy:
1/ Thái Cực ở Tâm Điểm.
2/ Vạn Hữu được tượng trưng bằng 6 vòng
tròn bao quanh bên ngoài.
3/ Vòng biến dịch bắt đầu từ tâm điểm đi
ra tới biên, rồi lại quay ngược trở về Tâm.
4/ Càng đi ra bên ngoài, âm càng thịnh,
dương càng suy (âm từ 1 hào, dần dần tăng lên cho tới 6 Hào).
5/ Lúc vòng Dịch quay trở về được đánh dấu
bằng quẻ Phục. (Quay trở lại)
Như vậy, Phục là con đường hồi tâm, qui
tâm, hồi hướng, hướng nội.
Phục cũng là Kiến Thiên Địa chi Tâm: Thấy
được Tâm (Bản Thể) của Trời đất. Tâm của Trời đất cũng là Tâm của mình.
6/ Càng đi sâu vào tâm, càng trở nên trong
sáng. Âm căn càng ngày càng giảm, Dương quang càng ngày càng tăng.
Vào đến vòng dịch thứ 6, là đạt thuần
Dương, thuần Kiền.
7/ Vào tới Tâm Điểm là Đắc Đạo, đắc Nhất,
đắc Thiên.
8/ Vòng biến dịch, tuần hoàn trên vẽ lại
đời sống con người lý tưởng, cũng như đời sống nhân quần và toàn bộ lịch
sử tiến hóa con người. Chẳng những thế, còn vẽ lại được vòng biến dịch
luân lưu của mặt trời, mặt trăng, hay nói rộng hơn là toàn thể chu kỳ
biến hóa của vũ trụ.
9/ Vòng biến dịch này có 2 chiều:
Con người nói riêng, nhân loại nói chung,
khi còn trẻ sẽ hướng ngoại, đem tinh thần phục vụ giang sơn, tổ quốc,
cải thiện ngoại cảnh, đổi lấy miếng cơm, manh áo, đóng góp với đời...
Khi đã luống tuổi, khi đã trở về già, sẽ
hướng nội, qui tâm, sẽ dùng ngoại cảnh hỗ trợ cho tâm thần, tu luyện bản
thân, tiến mãi trên con đường huyền hóa...
Thiệu Khang Tiết viết: «Vạn Vật tòng Trung nhi khởi, tòng Trung
nhi chung.» (Vạn Vật từ Trung Tâm sinh xuất, lại qui
hoàn về Trung.)
Dịch lại viết:
«Nhất Âm, nhất Dương chi vị
đạo. Kế chi giả, thiện dã, thành chi giả, tính dã.»
一 陰 一 陽 之 謂 道,
繼 之 者 善 也.
誠 之 者 性 也
(Hệ từ thượng, chương
V).
Một Âm, một Dương là Đạo (Đạo có 2 chiều:
Âm trước, Dương sau: Vật chất trước, tinh thần sau). Theo đường đó thời
tốt, đi tới cùng đường sẽ thực hiện được Tính Trời.
Chỗ cao siêu của Dịch là cốt dạy con
người: Tẩy Tâm, thoái tàng ư mật
洗 心
退 藏 於 密
(Hệ từ Thượng, ch. 11), tẩy rửa
tâm hồn, trở về với tâm linh.
Các chính Tính, Mệnh, Bảo hợp Thái Hòa.
各
正
性 命 保 合 太 和
(Kiền Quái, Thuyết quái) Giữ cho Tính, Mệnh được ngay chính, bảo vệ,
hiệp nhất được với Thái Hòa (Thái Cực).
Sau đây,
tôi xin đi sâu thêm bằng cách lần lượt trình bày cùng quí vị những đóng
góp của Tứ Thư, Ngũ Kinh vào công trình đi tìm Thượng Đế tiềm ẩn đáy
lòng, tức là vào công trình xây đắp con đường Qui Nguyên Phản Bản, lý
tưởng theo thánh hiền Nho Giáo.
Tôi sẽ
dùng TÂM ĐIỂM và vòng TRÒN bên ngoài với hai chiều thuận nghịch để trình
bày những tư tưởng then chốt của Tứ Thư, Ngũ kinh, đồng thời cũng để
minh định rằng con đường quy nguyên phản bản cuả Nho Giáo chính là con
đường hồi hướng, con đường quay về Tâm để mà tìm Đạo, tìm Trời hoặc quay
về gốc, trở về nguồn.
Nhìn
vào
đồ hình này, ta sẽ thấy ngay chủ
trương chính
yếu
của Nho Giáo có thể tóm tắt như
sau:
1. Thái Cực, hay ĐẠO hay TRỜI hay THƯỢNG
ĐẾ là bản thể tuyệt đối, là căn nguyên duy nhất, sinh suất ra quần sinh
vũ trụ, vừa siêu suất (transcendent), vừa ẩn tàng (immanent) trong lòng
sâu, trong TÂM ĐIỂM vạn hữu, nhân quần, để làm trục cốt, căn cơ, âm thầm
chỉ huy, hướng dẫn mọi cuộc biến thiên, tiến thoái.
2. Vạn hữu, vạn tượng, vũ trụ, quần sinh,
những hình tướng biến thiên, những công dụng biến thiên đa tạp cuả một
bản thể tuyệt đối, của một Thái Cực hợp lại thành một vòng biến thiên
Sinh Tử. Những Vòng Tròn biến thiên bên ngoài, tuy là biến thiên sinh
tử, nhưng vẫn có vinh hạnh mang trong lòng mình một căn cơ, một nguồn
sinh HẰNG CỬU, BẤT DIỆT.
3. Thượng Đế hay Thái Cực, ở nơi tâm điểm
với vạn tượng, vạn hữu hay giữa các quẻ ở vòng tròn bên ngoài có liên
lạc mật thiết với nhau:
- Từ tâm điểm,từ Thựơng Đế ra vòng tròn
bên ngoài hay ra vạn tượng vạn hữu bên ngoài là chiều suy thoái, phóng
phát ly tán, phân kỳ, hướng ngoại. Đó là chiều NHẤT TÁN VẠN, đó là chiều
sinh Nhân sinh Vật.
- Từ TÂM ĐIỂM chuyển dịch, biến hóa ra
vòng bên ngoài, rồi lại từ vòng bên ngoài chuyển dịch biến hóa quay trở
về Tâm Điểm vẽ thành một vòng CHU DỊCH, hay một vòng biến hóa ĐẠI TUẦN
HOÀN, hay ĐẠI CHU THIÊN.
Thế tức là VẠN VẬT TUẦN HOÀN CHUNG NHI
PHỤC THỦY,để thực hiện điều Đại Huyền Kỳ của Trời Đất là Thủy Chung Như
Nhất, mà Âu Châu gọi là Alpha = Omega (Alpha là đầu,là Thủy, vì chữ
Alpha là chữ đầu trong mẫu tự Hi Lạp, Omega là chữ cuối cùng).
- Kinh
Dịch gọi là:
Nguyên
Thuỷ Yếu Chung
(Dịch, Hệ Từ Hạ, chương IX)
Nguyên
Thuỷ Phản Chung
(Dịch, Hệ Từ Thượng, chương IV)
- Thiệu
Khang Tiết viết: «Vạn Vật
tòng trung nhi khởi, tòng trung nhi trung.»
- Văn Đạo
Tử viết:
«Mới đầu
từ trong thuận hành mà sinh, cuối cùng lại trở lại để ẩn tàng tại trung
điểm tại trung Hoàng Thái Cực tìm lại được Bản Lai Diện Mục của mình.»
[1]
- Nguyễn
Án Trường, tác giả quyển Tạo Hoá Thông cho rằng: «Thái Cực
là Một vậy. Vạn vật bắt đầu từ một và kết thúc ở Một... Trang Tử gọi thế là: «Xuất cơ,
nhập cơ»
[2]
Cuộc biến
dịch, tuần hoàn trong vũ trụ như vậy thực là có nhịp điệu, tiết tấu,
chiều hướng, giai trình. Ta có thể theo dõi sự diễn biến ấy từ đầu đến
đuôi được.Tất cả chỉ là một Nguồn sinh hóa diễn biến dần dà từ trung tâm
ra tới các tầng lớp bên ngoài, rồi lại chuyển hoá, xoay mình băng qua
các lớp biến thiên từ ngoài vào trong, cho tới Trung Tâm Nguyên Thủy,
tạo thành một vòng biến thiên, một vòng sinh hoá có lớp lang, tiết tấu
mạch lạc, có nguyên ủy thủy chung.
Vòng đại
tuần hoàn này của vũ trụ chẳng qua cũng như tình non nước lúc tan lúc
hợp, mà
Tản Đà đã
ngâm vịnh bằng những lời thơ thắm thiết như sau:
Cho dù
sông cạn đá mòn,
Còn non
còn nước hãy còn thề xưa.
Non cao
đã biết hay chưa
Nước đi
ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho
non chớ có buồn làm chi.
Nước kia
dù hãy còn đi
Ngàn dâu
xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm
giao ước kết đôi
Non non,
nước nước, chưa nguôi lời thề.
4- Trông vào đồ hình trên (tâm điểm và
hình tròn), ta thấy về phương diện nhân sinh quan, Nho giáo chủ trương
con đường lý tưởng cuả nhân loại có hai chiều, hai mặt khác nhau:
a/ Một chiều hướng ngoại, cốt phục vụ nhân
sinh, điểm tô cho ngoại cảnh, cho gia đình, cho quốc gia, xã hội, cho
xác thân,cho vấn đề cơm áo, vật chất. Dịch kinh gọi thế là chiều
Âm.
b/ Một chiều hướng nội, cốt để tìm cho ra
tinh hoa cốt cách con người,tìm cho ra con đường tâm linh, hướng nội để
quy căn, phản bản,tìm cho ra Đạo, ra Trời tiềm ẩn nơi lòng mình. Dịch
kinh gọi thế là chiều Dương.
Hai chiều
hướng Đạo, Đời nói trên rất là quan yếu.
Kinh
dịch
nơi chương 5 Hệ Từ Thượng viết:
«Nhất âm, nhất dương chi vị Đạo. Kế chi giả thiện dã, thành chi giả, tính
dã.»
一 陰 一 陽 之 謂 道,
繼 之 者 善 也.
誠 之 者 性 也.
Tạm
dịch:
Một Âm một Dương là đạo. Theo được là tốt, thành toàn được là thực
hiện được Thiên tính mình.
Dĩ nhiên,
tôi sẽ không đề cập đến chiều Âm, chiều phục vụ đời sống gian trần,
chiều đem lại phú cường thái thịnh cho giang sơn đất nước, vì đó không
phải là chủ đề nghiên cứu của chúng ta hiện nay. Tôi sẽ dùng Tứ thư, Ngũ
kinh để đề cập đến chiều Dương, đến một vấn đề mà nhiều ngươì tưởng là
sở đoản cuả Nho giáo, đó là con đường Đạo đức tâm linh, con đường qui
nguyên - phản bản.
Những đóng góp
của kinh Dịch
Kinh
Dịch
cho rằng:
- Học
Dịch cốt là tìm cho ra tâm điểm của bất dịch, ở giữa lòng mọi biến
thiên. (Lôi phong hằng, quân tử dĩ lập bất dịch phương. (xem Đại Tượng
quẻ Hằng)
- Học
Dịch cốt là để tìm cho ra Căn Cơ, Vĩnh Cửu, Tuyệt Đối, tiềm ẩn sẵn
trong lòng mình, trở về được CHÍNH VỊ, THIÊN VỊ, sống hạnh phúc, thanh
sảng. Để diễn tả ý ấy:
- Văn
ngôn hào lục ngũ, quẻ Khôn có mấy câu bất hủ như sau:
«Quân Tử Hoàng Trung thông lý. Chính vị cư
thể. Mỹ tại kỳ trung nhi sướng ư tứ chi, phát ư
sự nghiệp. Mỹ chi chí dã.»
君 子 黃 中 通 理,
正 位 居 體,
美 在 其 中 而 暢 於 四 支,
發 於 事 業,
美 之 至 也.
Dịch:
Hiền nhân thông lý Trung Hoàng
Tìm nơi chính vị mà an thân mình,
Đẹp từ tâm khảm xuất sinh,
Làm cho cơ thể xương vinh mỹ miều,
Phát ra sự nghiệp cao siêu,
Thế là đẹp đẽ đến điều còn chi.
- Học
Dịch cốt là: CÙNG LÝ, TẬN TÍNH, CHÍ MỆNH. (Thuyết Quái, chương I)
Cùng lý:
Là hiểu biết rành rẽ về nguyên lý sự vật.
Tận
tính:
Là hiểu biết rành rẽ về Bản Tính cao cả của con người.
Chí
mệnh:
Là thực hiện được định mệnh sang cả của con người, trở thành thánh nhân
sáng láng như hai vừng nhật nguyệt, cao xa như trời đất, uyển chuyển
tiết tấu như bốn mùa trời. (Phù Đại nhân giả dữ Thiên địa hợp kỳ đức,
dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh, dữ tứ thời hợp kỳ tự, dữ quỷ thần hợp kỳ cát
hung...
-
xem Kiền quái, Văn ngôn, hào cửu ngũ.).
Văn Đạo
Tử, gần đây cũng chủ trương rằng học Dịch cốt là để tìm cho ra căn cốt
tinh hoa của mình, tìm cho ra định mệnh sang cả của mình, tìm cho ra lẽ
phản bản hoàn nguyên, chứ không phải vụ chuyện bói toán, sấm vĩ. (xem
Văn Đạo Tử, Giảng Đạo Tinh Hoa Lục, trang 9, quyển I.- Xem Dịch Học Nhập
Môn của tác giả).
Dịch Kinh
dạy chúng ta phải «Tẩy rửa tâm hồn, rút lui về nơi tâm linh ẩn náu».
(Tẩy Tâm, thoái tàng ư mật
洗
心
退 藏 於 密
- Hệ Từ Thượng chương XI).
Dịch
Kinh
dạy cho chúng ta biết lẽ đời, lẽ Đạo hết sức là rõ ràng:
Thuận thì
sinh nhân, sinh vật,
Nghịch thì
sinh Thánh, sinh thần
[3]
Tán thời
sinh nhân, sinh vật (THÁI CỰC = ÂM + DƯƠNG)
Tụ thời
sinh thánh, sinh thần (ÂM+DƯƠNG = THÁI CỰC)
KHÍ + THẦN = ĐƠN
[4]
NHÂN + THIÊN = ĐẠO, NHẤT.
Và như vậy: Nương theo dịch lý,
Chúng ta có thể khẳng định rằng: Không biết hướng nội, không biết hướng
tâm, không biết thu thần định trí, suốt đời hướng ngoại, để cho tâm thần
tản lạc vào những công việc vụn vặt, bên ngoài thì không thể nào thành
thánh, hiền, tiên, phật được.
Thái Hư thị cũng đã nói: «Đơn Đạo, thánh
công, không ngoài công trình hoàn phản».
[5]
Những đóng góp
của Kinh Thư
Kinh Thư nơi thiên Đại Vũ Mô, tiết 15, cho
ta khẩu quyết để thành thánh hiền:
Nhân tâm duy nguy
人
心
惟
危
Đạo tâm duy vi
道
心
惟
微
Duy tinh duy nhất
惟
精
惟
一
Doãn chấp quyết trung
允
執
厥
中
Dịch:
Lòng của trời siêu vi, huyền ảo,
Lòng con người điên đảo, ngả nghiêng,
Tinh ròng, chuyên nhất ngày đêm,
Ra công, ra sức, giữ nguyên lòng Trời.
Những đóng góp
của Kinh Thi
Nơi thiên Đại Nhã đã cho chúng ta thấy cả
một hoạt cảnh của dân chúng Trung Hoa thời cổ sơ, với niềm tín ngưỡng
rất lạ lùng.
Thủa xa xăm ấy, dân chúng như dây dưa mọc
lan man, chưa có nhà cửa sống trong hang cốc (Kinh Thi, chương
Đại minh, Miên miên qua điệt)
Họ tin sùng Thượng Đế là tin rằng Thượng
Đế sống rất gần gũi với con người.Trong cuộc giao tranh quyết liệt vơí
binh sĩ vua Trụ ở Mục Dã, Võ Vương muốn gây tinh thần cho quân sĩ mình
đã kêu lên: Thượng Đế ở với ba quân, ba quân đừng nghi ngại.
Kinh Thi viết:
Quân Thương Ân bạt ngàn Mục Dã,
Một rừng người chật cả sa tràng,
Cho ba quân thêm dạ sắt gan vàng,
Võ Vương kêu: Thượng Đế ở cùng ta đó,
Ba quân hãy vững lòng, vững dạ.
[6]
Lời kêu gọi đó làm cho binh sĩ nhà Châu,
hứng khởi, ào lên đánh tan quân Thương Ân trong có một buổi sáng.
Kinh Thi viết thêm:
Nơi Mục Dã mênh mang rộng rãi,
Xe bạch đàn chói chói chang chang,
Ngựa tứ nguyên phau phau đẹp rỡ ràng,
Khương thượng phụ trông oai phong lẫm
lẫm,
Ngài như chim ưng xoè tung đôi cánh,
Giúp Võ Vương thế mạnh xiết bao,
Cả phá Thương, ba quân tiến ào ào,
Sau một sáng, trời thanh quang trở lại.
[7]
Thời buổi thô sơ ấy, nhân loại đã tin rằng
Trời từ đáy thẳm lòng sâu tâm hồn, chiếu diệu ánh sáng muôn trùng ra để
làm khuôn phép mẫu mực, để ra mệnh lệnh. Các bậc vương giả, hiền nhân
thời ấy cố sống sao đức hạnh tuyệt vơì, để kết hợp với Trời, để có thể
nên vẻ sáng của Trời như Văn Vương. Họ mong muốn được được đức hạnh như
Trời (dữ Thiên, đồng đức).
Hễ thấy ai:
Đức sáng quắc sáng choang ở dưới,
Họ liền biết:
Mệnh hiển dương, chói lọi ở trên.
[8]
Thời buổi thô sơ ấy, các bậc thánh hiền,
vương giả đều tin rằng có Trời ngự trị trong lòng mình. Văn Vương nói:
Chẳng thấy nhãn tiền, nhưng vẫn giáng
lâm,
Chẳng phải long đong nhưng vẫn giữ
được.
[9]
Văn Vương lên tới trình độ đức hạnh siêu
việt, nên như vẻ sáng của Thượng Đế, vì thế goị là Văn Vương, ý nói
Thượng đế là chất mà ngài là Văn, là vẻ sáng Trời được phát huy ra.
Kinh Thi viết:
Việc Trời chẳng tiếng, chẳng tăm,
Nên dùng dạng thức vua Văn hiển hình,
Cho muôn dân thấy mà tin.
[10]
Kinh Thi viết thêm:
Văn Vương trọn một niềm kính nể,
Làm chói chang Thượng đế ra ngoài,
Muôn nghìn phúc lộc chiêu lai,
Một lòng nhân đức chẳng phai lòng vàng.
[11]
Thời buổi thô sơ ấy, dân chúng quan niệm
rằng giữ vẹn đạo Trời, ấy là nối chí tổ tiên, ấy là hiếu kính. Mà giữ
vẹn đạo Trời chính là sống một cuộc đời vẹn hảo, phối kết tất giao với
Thượng đế.
Kinh Thi viết:
Muốn nhớ tới tổ tiên khi trước,
Hãy gắng công tích đức tu thân,
Mệnh trời phối hiệp vào thân,
Muôn ngàn phước lộc xa gần chiêu lai,
Thủa nhà Ân còn thời thịnh trị,
Đã từng Thượng Đế tất giao,
Gương nhà Ân hãy soi vào,
Mệnh Trời cao cả nhẽ nào dễ đâu.
[12]
Kinh Thi viết thêm:
Mệnh Trời ấy há đâu có dễ
Muốn cho ta đừng kể tư thân,
Biểu dương phóng phát thiện chân …
[13]
Tóm lại thời buổi ấy, những hiền nhân quân
tử đã thông hiểu nhẽ: «Thiên Nhân tương dữ», tình Trời người cá
nước duyên ưa, thiên ý, nhân tâm hòa hợp. Trời người cùng tấu khúc nhạc
hòa hài.
Kinh Thi viết:
Trời xanh dẫn dắt chúng dân,
Như là tấu khúc nhạc huân, nhạc trì,
Trời, Người, đôi ngọc chương khuê,
Bên cho, bên lấy, đề huề, xiết bao,
Tay cầm, tay giắt, khéo sao,
Trời xanh, dẫn dắt dân nào khó chi.
[14]
Những đóng góp
của Kinh Lễ
Xuyên qua Kinh Lễ, ta thấy Nho giáo chủ
trương:
Thời nào cũng như thời nào, con người sinh
ra ở đời, không thể tự do muốn làm gì thì làm, mà phải tuân theo các
định luật tự nhiên, các định luật sinh lý, tâm lý, nhân sinh, các định
luật giao tế, xã hội. Tuân theo các định luật thiên nhiên ấy, ta mới có
thể tạo cho mình một đời sống lý sự, đẹp, tươi vui, tạo cho mọi người và
xã hội an vui, hòa hợp. Đó là điều kiện căn bản để tiến tới Chân, Thiện
Mỹ.
Những định luật tự nhiên ấy đã được gắn
liền ngay vào cơ cấu, ngay vào bản chất muôn loài, muôn vật, đã được gắn
liền vào mọi động tác, mọi hành vi, mọi biến hóa để định thế nào là hay,
là phải.
Nhưng, muồn tìm cho ra những định luật
thiên nhiên ấy không phải là chuyện dễ.
Ta có thể tìm cho ra những định luật thiên
nhiên ấy hoặc bằng trực giác, hoặc bằng phương pháp loại suy, hoặc bằng
cách khảo sát lại lịch sử, quan sát hiện tại, hiện tình, hay dùng Dịch
Lý mà suy diễn ra.Thế tức là: Muốn tìm ra những định luật thiên nhiên,
phải hiểu vật, hiểu người, biết nay, biết xưa, khảo sát lại hiến chương
của đờøi trước, tham khảo lại sự thành bại đời nay. (Bác vật, Thông
nhân, tri kim, ôn cổ, khảo tiên đại chi hiến chương, tham đương thời chi
đắc thất. -- Lễ ký chính nghĩa, tựa, tr. I. Xem
Tống Bản Thập Tam Kinh, Lễ Ký).[15]
Nhận định
trên rất quan trọng về phương diện đạo giáo, về phương diện tu thân,
hoàn nguyên phản bản, vì lẽ nó xác định rằng: ĐỊNH LUẬT THIÊN NHIÊN
chính là LUẬT TRỜI. Luật Trời ấy đã được ghi tạc ngay trong LƯƠNG TÂM
con người, trong tâm khảm con người.
Những định luật gì không phải là thiên
nhiên đều là nhân vi, nhân tạo, và không thể nào đem lại hạnh phúc thật
sự cho con người, Chân, Thiện, Mỹ, thật cho hoàn vũ.
Chính vì vậy mà nếu ta muốn qui nguyên
phản bản mà lại phóng ngọai, mà hưóng ngoại tìm cầu, thì chẳng khác nào
mò trăng đáy nước, bắt cá ngọn cây.
Những đóng góp
của kinh Xuân Thu
Kinh Xuân Thu, theo Đổng Trọng Thư,
đưa ra hai ý niệm triết lý và đạo giáo sau đây:
- Trời Người có quan hệ mật thiết với
nhau,
- Con người đúng với danh nghĩa của no,ù
phải toàn thiện, hoàn hảo như Trời.
Đổng Trọng Thư cho rằng sách Xuân Thu
cốt là để xiển minh cái quan niệm THIÊN NHÂN TƯƠNG DỮ, Nghĩa là Trời và
Người có quan hệ mật thiết với nhau. Trời là Tổ của vạn vật, là tổ của
con người. (Xem Trần Trọng Kim, Nho Giáo,II, tr.35).
Cho nên, khi ta mới sanh, chưa phải là
người, vì con người xứng đáng với danh hiệu nó phải hoàn toàn như Trời.
(Trần Trọng Kim, Nho giáo II, tr.35.)
Thế tức là, trong con người đã sẵn có
Thiên Chân, Thiên tính, và đã sẵn có mầm mộng hoàn thiện. Con người có
bổn phận làm triển dương mầm mộng hoàn thiện ấy, cho tới tinh vi cao
đại. Chính trị, có bổn phận hướng dẫn, giáo hóa dân, thành tòan sứ mệnh
cao cả ấy.
Những đóng góp
của sách Đại Học
Nho giáo trước sau vẫn chủ trương rằng:
Trời chính là căn bản,là gốc gác con người. Cái gốc gác, căn bản ấy lại
tiềm ẩn, sâu xa, trong đáy lòng nhân loại, để làm Bản tính nhân quần.
Bản tính Trời, ấy là Gốc, mọi việc khác
như tâm tư, thân xác gia đình quốc gia,xã hội thiên hạ, sư. v.v… là thân
là cành, là ngọn. Không biết được gốc, làm sao mà trị được ngọn, không
hiểu được Trời, làm sao hiểu nổi người. (Tư tri nhân bất khả dĩ bất
tri Thiên.
思 知 人,
不 可 以 不 知 天.
– Trung Dung,
chương XX.)
[16]
Cho nên Đại Học chủ trương rằng
người quân tử phải cố gắng học hỏi, mài miệt suy tư, để tìm cho ra cái
khuôn Trời, cái Gốc Trời nơi mình. (cách vật)
[17]. Đó là
cái học cao siêu nhất, rốt ráo nhất (trí tri) rồi ra mới có thể « chính
tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ được.»
Tất cả chủ trương trên, đã được trình bày
ngay ở đầu sách Đại Học.
Đại Học có mục phiêu rõ rệt,
Đuốc lương tâm cương quyết phát huy,
Dậy dân lối sống tân kỳ,
Chưa nơi hoàn thiện còn đi chưa ngừng,
Có mục phiêu rồi lòng sẽ định,
Lòng định rồi, nhẹ gánh lo toan,
Hết lo, lòng sẽ bình an,
Bình an, tâm trí rộng đàng sét suy,
Suy xét rộng, tinh vi thấu trọn,
Thấu sự đời, nghành ngọn đầu đuôi,
Trước sau đã rõ khúc nhôi,
Thế là gần Đạo, gần Trời còn chi,
Muốn Đức sáng truyền đi thiên hạ,
Người xưa, lo cải hóa dân mình,
Trị dân, trước trị gia đình,
Gia đình muốn trị, sửa mình trước tiên,
Muốn sửa mình, Tâm nên sửa trước,
Sửa tâm hồn trước cốt Ý hay,
Ý hay phải học cho dày,
Dày công học vấn sẽ hay KHUÔN TRỜI.
[18]
Hay Khuôn Trời, ắt thôi thấu triệt,
Thấu triệt rồi ý thiệt lòng ngay,
Lòng ngay ta sẽ hóa hay,
Ta hay, gia đạo mỗi ngày một yên,
Nhà đã yên, nước liền thịnh trị,
Nước trị bình, bốn bể bình an,
Từ vua cho tới dân gian,
Tu thân, một mực lấy làm căn cơ...
(Đại Học, I).
Những đóng góp
của sách Luận Ngữ
Xuyên qua đời sống đức Khổng, xuyên qua
tâm tư, ý nguyện, xuyên qua những lời giảng giáo của đức Khổng trong
Luận Ngữ, ta sẽ rút tiả ra được những bài học sau đây:
1.Con người phải có niềm tin vững mạnh về
định mệnh sang cả của mình. Khi bị vây ở đất Khuông đức Khổng đã nói:
‘Văn Vương đã thác rồi, vẻ sáng ấy chẳng ở
lại nơi ta sao? Nếu Trời muốn để mất vẻ sáng ấy, thì khi Văn Vương đã
thác, chẳng có ban nó cho ta. Bằng Trời chưa muốn mất vẻ sáng ấy, thì
người dất Khuông làm được gì ta (Luận ngữ IX, 5)
2. Người quân tử phải biết
lẽ Nhất
quán của Trời Đất.
Đức Khổng nói: Ngô Đạo Nhất dĩ quán chi
吾 道 一 以 貫 之.
(Luận Ngữ, IV, 15).
Thế tức là có thể dùng chữ Nhất, mà tổng
hợp, mà quán xuyến hết cả đạo Nho.
Nhất, như trên đã trình bày:
Là căn nguyên muôn loài, muôn vật,
Nhất là nguồn gốc mọi biến hóa.
Nhất là cùng đích muôn loài.
Con người từ Nhất từ Trời mà ra,
Chung cuộc lại trở về phối hợp với Nhất
với Trời.
Đó chính là cái đạo Phối Thiên, đó
chính là Trung Đạo (Luận Ngữ, XIII, 21) đó chính là Thiên Đạo, là cái
Đạo mà sáng được nghe, chiều chết cũng cam. (Luận Ngữ, IV, 8)
3. Người đạo hạnh thực sự chỉ cần sống
thuận thiên lý.
[19]
Nghe, nhìn, nói, làm, luôn luôn phù hợp
với định luật tự nhiên của đất trời.
[20]
4. Người đạo hạnh thực sự phải biến đời
mình thành một bài kinh trường thiên.
Đó chính là câu:
Khâu chi đảo cửu hĩ
丘
之
禱
久
矣
của đức Khổng (Luận Ngữ VII, 34)
5. Người hành đạo thực sự phải sống phối
kết với Trời, phải bắt trước Trời mà hành sự.
Đức Khổng nói: «Ta muốn thôi không nói nữa» Tử Cống
nói: «Nếu thày chẳng nói, bọn đệ tử chúng tôi làm sao đem lời dặy của
thày mà truyền lại đời sau cho được?» Đức Khổng đáp: «Trời có nói gì đâu
mà bốn mùa vẫn vần xoay, vạn vật luôn sinh hóa. Trời có nói gì đâu?»
(Luận Ngữ, XVII,18).
6. Người đạo hạnh thực sự sẽ đạt tới
tứ
tuyệt
四
絕
như Khổng tử. (Luận Ngữ, IX, 4)
Vô ý
毋
意
: Không còn tình ý riêng tây.
Vô tất
毋
必
: Không còn bị ngoại cảnh gò
bó.
Vô cố
毋
固
: Không cố chấp, mà cởi mở,
mà khoan quảng, hòa đồng.
Vô ngã
毋
我
: Không còn cái tiểu ngã,
không còn cái mình nhỏ nhoi ti tiện, mà hoàn toàn
bác hậu phối địa, cao minh phối thiên
博 厚 配 地 高 明 配 天.
(Xem Trung Dung, chương XXVI)
Những đóng
góp của sách Mạnh Tử:
Mạnh tử là người đóng góp khá
nhiều vào công trình khám phá cho ra con đường Qui nguyên phản bản của
đạo Nho.
1.Ông dứt khóat chủ trương phải quay về
tâm mà tìm đạo, tìm Trời. Nơi chương Tận tâm thượng ông viết:
«Cả vạn vật ở trong ta đó,
Quay về ta, ta cố tinh thành.
Kiện toàn, hoàn thiện tinh anh,
Vui nào hơn được vui mình đang vui.
[21]
2. Ông cho rằng trong thâm tâm ta đã sẵn
có con đường đưa tới Đạo tới Trời, nhưng con đường ấy đã bị lau lách dục
tình vùi lấp mất. (Kim mao tắc tử chi tâm hĩ.
今 茅 塞 子 之 心 矣
- Mạnh Tử, Tận
Tâm Chương Cú Hạ.)
3. Ông khuyên mọi người thu hồi con tim
phóng đãng luân lạc nơi ngoại cảnh trở về (Học vấn chi đạo vô
tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hĩ.
學 問 之 道 無 他, 求 其 放 心 而 已.
- Mạnh Tử, Cáo Tử, chương cú
thượng, câu II)
4. Ông chủ trương rằng: Đi sâu về phía tâm
linh, sẽ tìm ra được Thiên tính, sẽ tìm thấy Thượng đế tiềm ẩn sẵn trong
lòng con người. Nơi chương Tận Tâm Thượng ông viết:
«Tận
kỳ tâm giả, tri kỳ tính dã. Tri kỳ tính, tắc tri thiên hĩ.
盡 其 心 者, 知 其 性 也. 知 其 性 則
知 天 矣.»
Tạm dịch:
Thấu triệt lòng, sẽ hay biết tính,
Hay biết tính, nhất định biết Trời.
[22]
5. Ông
cho rằng: Bảo toàn được tinh hoa cốt cách con người, bảo toàn được thiên
tính, đó là chân đạo, đó là cách phụng sự Thượng đế tốt đẹp nhất. Ông
viết: «Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tính,
sở dĩ sự thiên dã. 存 其 心,
養 其 性, 所 以 事 天 也.»
Tạm dịch:
Tồn tâm dưỡng tính chẳng rời,
Ấy là giữ đạo, thờ Trời chẳng sai…
[23]
6.
Vì ông trực giác được rằng Bản thể tuyệt đối, đã tiềm ẩn sẵn trong đáy
lòng con người, vì ông trực giác được rằng Thượng đế đã tiềm ẩn trong
đáy lòng nhân loại để làm căn cơ gốc gác cho con người để làm khuôn
phép, mẫu mực cho con người, nên ông mạnh dạn chủ trương:
BẢN TÍNH
CON NGƯỜI THỜI HOÀN THIỆN (Mạnh Tử Cáo Tử thượng, 2)
[24]
7. Mạnh
Tử cũng là một trong những triết gia Nho giáo đã phân tách được rằng:
Dưới lớp nhân tâm còn có Thiên tính,
Dưới lớp Nhân dục, còn có Thiên lý làm chủ
chốt.
Nhân tâm thời bất toàn.
Thiên tính thời vẹn hảo.
Nhân tâm
mới chỉ là mầm mộng cuả sự toàn thiện, mới chỉ gồm có những mối manh
hoàn thiện, như lòng trắc ẩn, tu ố, từ nhượng, thị phi.
Thiên tính mới là sự hoàn thiện tuyệt vời,
gồm đủ cả Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. (Mạnh Tử Công Tôn Sửu thượng
câu 6)
[25]
8. Bồi
dưỡng nhân tâm, cho nhân tâm triển dương tới mức độ tuyệt vời của thiê
tính, khế hợp được với thiên tính, đó chính là công trình tu thân mà
Mạnh Tử chỉ vẽ cho chúng ta... (Mạnh Tử Công Tôn Sửu thượng, 6)
[26]
Những đóng góp
của sách Trung Dung
Xưa nay ai
cũng công nhận rằng Trung Dung là tâm pháp của Nho giáo. Sách bắt đầu
bằng chữ Thiên. Từ đó suy diễn ra Tam Đức (NHÂN, TRÍ, DŨNG), Ngũ Luân
(Quân thần, phụ tử, phu phụ, côn đệ, bằng hữu) Cửu kinh (chín phép trị
nước) Xem Trung Dung chương I,XX). Sau đó lại dùng Cửu kinh, Ngũ luân,
Tam đức như là những bậc thang thần giúp cho con người triển dương, tiến
hóa đến cùng cực tinh hoa (T.D 1)
[27],
đến Trung Dung, Trung Đạo
[28],
đến chỗ kết hợp với Trời mà Trung Dung gọi là Phối Thiên.[29]
Như vậy sách
Trung Dung
cũng kết thúc bằng chữ Thiên, vô thanh, vô
xú.
Sách rất
cao siêu, nhưng cũng khó hiểu. Chính vì thế mà chúng ta cũng nên đặc
biệt để tâm khai thác những điều huyền nhiệm mà Trung Dung tàng
trữ bấy lâu, để đóng góp vào công trình đi tìm con đường Qui nguyên phản
bản...
1. Hai chữ Trung Dung:
Chữ
Trung, theo từ nguyên, là một mũi tên bắn trúng hồng tâm. Hội ý tiên
nho, nhất là Trình Tử và Chu Hi,tôi đã giải hai chữ Trung Dung như sau:
Trung là tâm điểm,
Dung là hằng cửu, bất biến.
Như trên
tôi đã trình bày, trong vòng biến thiên ảo hóa của vũ trụ, vạn hữu chỉ
một tâm điểm bất biến, hằng cửu, ấy là Bản thể tuyệt đối, là Thái cực,
là Đạo, là Trời.
Chính vì
thế mà Kinh Dịch đã vẽ Thái cực ở tâm điểm vòng Dịch, còn các quẻ
tượng trưng cho vạn hữu, hình tướng biến thiên bên ngoài thì vẽ lên vòng
tròn bên ngoài, lên vòng biến dịch bên ngoài.
Tâm điểm
vì ở giữa vòng biến thiên của vạn hữu, nên không hề nghiêng lệch bên
nào. Tâm điểm, vì là cơ cấu, là căn cơ gốc gác muôn loài, nên cũng không
dựa nương vào đâu. Chính vì thế mà Trình Tử mới nói: Trung là
Bất
Thiên, Bất Ỷ.
Muôn
loài, muôn vật biến thiên, ắt phải có một căn do bất biến hằng cửu làm
chủ chốt. Chính vì thế mà Trình Tử giải: DUNG là Bất Dịch. Thế
tức là chỉ với hai chữ TRUNG DUNG, đức Khổng đã vạch ra cho chúng ta cả
một chương trình hành động, cả một con đường giải thóat.
Nghĩa là:
Sống trong muôn ngàn hiện tượng biến
thiên, chúng ta phải tìm cho ra căn cơ bất biến.
Ở đâu có biến thiên, ở đấy có căn cơ làm
chủ chốt.
Ở nơi con người ta, có đày dãy mọi hiện
tượng biến thiên. Như vậy trong con người chúng ta, phaỉ có một căn cơ
bất biến làm chủ chốt.
Mà như trên đã trình bày, chỉ có trời có
Đạo, có Thái cực mới bất biến. Suy ra: trong ta, chắc chắn phải có Đạo,
có Trời, có một nguồn sống siêu nhiên vĩnh cửu làm chủ chốt.
Cái gì còn biến thiên thì còn ở trong vòng
sanh tử. Cái gì bất biến mới thoát ra ngoài vòng biến thiên sanh tử. Thế
nên, nếu con người muốn thoát vòng sinh tử, Phải đạt cho được tới TÂM
ĐIỂM BẤT BIẾN, đạt tới TRUNG DUNG.
Đức Phật cũng đã nói: «Hỡi các tỳ khưu, có
một thực trạng bất sinh, bất thành, bất ỷ, bất tạp, vì nếu không có thực
trạng ấy, thì làm sao giải thoát được cái sinh, thành, ỷ, tạp.»
[30]
Vivekananda cũng đã viết: Chúng ta trước
hết phải đi tìm cho ra một tâm điểm phát sinh ra mọi bình diện sinh hoạt
khác. Khi đã tìm ra được tâm điểm rồi, chúng ta mới mong tìm ra được một
giải pháp. Đó là chương trình của chúng ta. Tâm điểm ấy ở đâu? Thưa nó ở
ngay trong lòng ta. Các hiền triết cổ thời đã tìm sâu mãi vào tâm con
người, cho đến khi khám phá ra được rằng TÂM KHẢM CON NGƯỜI CHÍNH LÀ
TRUNG TÂM VŨ TRỤ.
Tất cả mọi bình diện khác đều xoay quanh
tâm điểm duy nhất ấy, và chỉ từ đó, chúng ta mới tìm ra được giải pháp
chung cho mọi người.»
[31]
Văn Đạo Tử cho rằng: TÂM ĐIỂM chính là
Thiên Đạo.
Vào được tâm điểm của lòng người, tức là
vào được tâm điểm của vòng Dịch, tức là thoát luân hồi sinh tử, tức là
vào được trục pháp luân theo danh từ của Phật giáo.
Ta hãy nghe Văn Đạo tử Tử trình bày: «
Thiên đạo cư trung lập cực, nên vận chuyển muôn loài không sai thất,
cũng như trong bánh xe, các vành xe và tai hoa xe vận chuyển không ngừng
là nhờ trục xe. Nếu ta giữ vững được Trung điểm, tận dụng được Thái Cực,
thì có thể chuyển vận vạn vật và có thể góp phần được với trời đất trong
công trình hóa dục.
Cho nên người quân tử tu nhân đạo để hợp
thiên đạo. Hợp thiên đạo tức là vào được trục của vòng Dịch, thóat ra
ngòai vòng kiểm tỏa của hiện tượng, hỗ trợ muôn vật mà không tơ vương
dính bén muôn vật, xoay chuyển vòng biến Dịch mà chẳng chuyển dịch với
bánh xe biến thiên luân hồi.» [32]
Hoàng đế nói: «Vũ trụ ở trong tay, vạn
hóa sinh trong mình.»
Phật nói: «Thu bể khơi vào trong sợi lông,
đem núi TU DI lồng vào trong hạt cải, đâu phải là thuật lạ. Bất qúa là
các ngài đã nắm được trục của pháp luân. Ôi vi diệu thay, trục của pháp
luân, hỏi mấy ai đã biết? Chẳng rõ được trục mà chỉ biết nói pháp luân,
luôn vận chuyển, thì chóng thì chày cũng bị vận chuyển theo pháp luân,
làm sao thoát vòng sinh tử được?»
Như vậy nếu ta hiểu Trung Dung là Tâm Điểm
Bất Biến, Nếu ta đặt hai chữ Trung Dung vào Tâm điểm vòng tròn, ta sẽ có
ngay một chià khóa thần để mở các chốt then Đạo Giáo, thấu triệt được
huyền cơ vũ trụ và con người. Thực vậy, nếu ta nhận định rằng Tuyệt đối
hằng cửu bất biến ở tâm điểm vòng biến dịch, ta sẽ định ngay được rằng
Tuyệt Đối Hằng Cửu ở ngay tâm điểm, ở ngay Trung Tâm Điểm não bộ ta, vì
đầu ta chính là một hình tròn, vì não bộ ta chứa đựng muôn biến hóa. Lão
Giáo gọi trung tâm não bộ là HUYỀN QUAN KHIẾU, là CỐC THẦN, là NÊ HOÀN.
Phật giáo Tây Tạng với lời chú: Oum Mani Padme Hum đã xác nhận
rằng giữa bông hoa sen nghìn cánh, naõ bộ con người đã có sẵn ngọc châu
viên giác...
Học giả Lilian Silburn, trong tác phẩm
Instant et Cause đã viết: «Tìm ra được chân tâm tương đương với
Brahman Thượng đế, vừa là tâm điểm của lòng mình, vừa là tâm điểm của vũ
trụ, là một khám phá lớn lao của các vị đạo sĩ Bà La Môn, sự khám phá
này đã dẫn tới sự hình thành cuả bộ Áo Nghĩa Thư.»
[33]
2. Những
nét đặc thù của Trung Dung:
A. Con
người với Trời có đồng một bản tính..
Trung
Dung với mấy chữ vắn vỏi:
Thiên mệnh chi vị Tính nơi đầu sách đã
cho chúng ta thấy rằng: Con người muốn bước vào Thiên đạo, muốn phản bản
hoàn nguyên, trước hết phải có một nhận thức nghiêm chỉnh về bản thể
mình, về bản tính mình.Trung Dung cho rằng bản tính con người là Thiên
tính. Nói nôm na Bản tính con người và bản tính Trời là một.
Thế tức là sau những bộ mặt nạ hóa trang
mà sân khấu đời đã bắt ta mang, sau những lớp bùn đất thời gian, ngoại
cảnh, của những con nguời thực tại (Le moi empirique), còn đang luân lạc
trong chốn hồng trần, còn có bộ mặt vô cùng xinh đẹp của con người lý
tưởng (Le moi idéal ) ẩn khuất ở bên trong. Bộ mặt đó, người Á Đông
thường gọi là Bản Lai Diện Mục.
Từ khi tôi khám phá ra được điều quan
trọng này, tôi đã dùng nó như một kim chỉ nam để tìm cho ra đại Đạo
khuất lấp trong những cánh rừng sâu tôn giáo và triết học trên thế giới.
Gần đây, có dịp đọc quyển Lịch Đại Cao
Tăng Cổ Sử, tôi thấy đại sư Đạo Sinh, sống vào thời đại Nam Bắc
triều bên Tàu, đời Lưu Văn Đế (424- 453) Cũng đã có chủ trương y hệt
tôi. Đạo Sinh qủa quyết rằng: Nhà Nho gọi là Thiên Mệnh, thì nhà Phật
gọi là Phật tính, mà Phật tính tức là Thiên tính.
[34]
Bà La Môn cũng cho rằng: con người chân
thực trong chính ta là Atman, là Brahman Thượng dế.Phật giáo nhất là
trong kinh Đại Niết Bàn đã chủ trương rằng: Mọi người đều có Phật
tính.
Thánh Kinh Công giáo cũng có một câu làm
tôi hết sức sung sướng đó là: Thượng đế chính là sự sống của bạn.
[35]
Nếu Thượng đế là sự sống của chúng ta,
thì chắc chắn ngài là bản thể của ta vậy.
Hội nghị Thông thiên học quốc tế họp tại
Salzbourg nước Áo, năm 1966, cũng có những lời tuyên ngôn hết sức nãy
lửa. ví dụ:
- Trong ta có một vô cùng.
[36]
- Giác ngộ tâm linh sẽ mặc khải cho thấy
yếu tố thần linh duy nhất trong tâm thần mọi người.
[37]
- Thời buổi này cần phải nhận chân rằng
trong mọi người có một tàn lửa Thiên Chân, và những khả năng vô tận, vô
biên.
[38]
Tôn giáo
xưa cho rằng Trời và người xa cách nhau, phẩm và chất xa cách nhau.
Thông Thiên ngày nay dạy rằng: Trời Người là Một.
[39]
B.- Nhân tâm thuận tòng Thiên tính, Thiên
lý thế là chân đạo. (Suất tính chi vị đạo).
Theo Trung Dung đạo Trời thật chí
giản chí dị. Muốn theo đạo Trời, muốn theo Thiên lý, con người chỉ cần
lắng nghe tiếng gọi của Lương Tâm. Trung Dung gọi thế là Suất
Tính.
Lương tâm luôn luôn dạy ta làm điều cao
đại minh chính, luôn luôn dạy ta Từ Bi Hỉ Xả, Coi người như mình, trọng
lễ nghĩa, khinh lợi.
Còn tâm tư chúng ta luôn luôn làm những
điều tà ngụy, bất trung, bất chính, ích kỷ, hại nhân, luôn luôn muốn
vọng hành, vọng niệm.
Như vậy thuận tòng thiên lý, tức là gạt bỏ
những điều tà ngụy, để tiến tới công chính, từ bỏ mọi điều ti tiện cục
cằn để vươn lên tới tinh hoa cao đại.
Bà H.P Blavastsky, trong quyển Mật giáo
(Doctrine Secrète) đã viết: Chỉ có nguyên lý tuyệt đối, bất khả tư nghị,
căn nguyên vạn hữu mới đáng có đền thờ và bàn thờ trong khu đất thiêng
liêng và u tịch của long ta. Nguyên lý ấy mình không thấy, bắt không
được, mung lung huyền ảo, nhưng ta vẫn có thể cãm thấy được qua trung
gian tiếng nói thầm lặng của lương tâm. Kẻ nào thờ phượng Nguyên lý
tuyệt đối ấy, phải thờ trong yên lặng và trong sự u tịch thiêng liêng ấy
cuả tâm hồn mình.
[40]
Bà Blavastsky còn viết: «Atman, Đại ngã …
sẽ tỏ quyền năng cho kẻ nào có khả năng nghe được tiếng nói thầm lặng
của lương tâm… Từ thủa ban sơ cho đến thời hiện đại, không một triết gia
chân chính nào mà không mang trong đền đài u tịch của tâm hồn mình chân
lý cao đại và huyền diệu đó. Nếulà trường hợp người được điểm đạo, thì
sự học biết về lương tâm lại trở thành một khoa học thiêng liêng»
[41]
C. Trời, luật trời, Đạo trời chẳng hề rời
xa con người một phút giây.
Đọc câu Đạo dã giả bất khả tu du ly
dã
道 也 者 不 可 須 臾 離 也 nơi
đầu sách Trung Dung tôi đã tìm ra được ba nhận định hết sức quan
trọng của người xưa về đạo giáo.
1. Một là trời chẳng hề xa con người.
2. Hai là
luật trời chẳng hề có ở ngoài con người, mà đã được ghi tạc ngay trong
tâm khảm, thâm tâm con người.
3. Ba là
Chân đạo hay là con đường dẫn người tới Trời đã có sẵn ngay trong tâm
hồn mỗi một người.
Tôi cho
rằng đó là những quan niệm hết sức xác đáng.
Trời chẳng hề xa con người.
Nếu trời là căn cơ gốc gác con người, thì
Trời làm sao mà rời xa con người được?. Chính vì tin rằng Trời chẳng lià
xa mình, nên người quân tử trong đạo Nho luôn luôn e dè kính cẩn, dẫu là
khi ở một mình.
E dè cái mắt không nhìn,
Tai nghe không nổi cho nên hãi hùng.
Càng ẩn náo lại càng hiện rõ,
Càng siêu vi, càng tỏ sáng nhiều,
Nên dù chiếc bóng tịch liêu,
Đã là quân tử chẳng siêu lòng vàng
(Trung Dung chương I)
Luật Trời chẳng lià xa con người.
Chương XII Trung Dung viết:
Đạo luôn gần gũi người đời,
Những ai lập đạo xa rời chúng dân,
Hiếu kỳ lập dị là nhầm.
Kinh Thi viết:
Đẽo cán rìu có liền bên cán mẫu,
Trông lại nhìn cố đấu cho in.
Ngắm đi, ngắm lại liền liền,
Đẽo lui đẽo tới mắt xem chưa vừa,
Nên người quân tử, khi lo giáo hóa,
Sửa trị người sẵn có khuôn người,
Thấy người giác ngộ thời thôi,
Đã chiều cải hóa liệu bài ta ngưng.
4.Con đường từ người dẫn đến Trời đã có
sẵn trong tâm thân con người.
Nhận định này chỉ là một sự suy diễn tự
nhiên của quan niệm Trời chẳng xa người đã đề cập ở nơi trên.Thực vậy
đạo chẳng qua là sự tìm ra được Trời ngự trị trong lòng mình, tìm lại
được bản tính thần minh sang cả cuả mình, bắc được nhịp cầu giữa lòng
mình với Thần Trời trong mình, phạt quang được gai góc, lách lau của
thất tình, lục dục, phá tan được lớp sương mù dày đặc của sự ngu si mê
vọng. Cho nên con đường trở về Thiên quốc, con đường quy nguyên phản bản
Nho giáo, không thể nào tìm thấy được trên muôn vạn nẽo đường của trần
ai ngọai cảnh, của muôm dặm thinh không mà chính là đã có sẵn trong tâm
thần chúng ta.
Chu Hi khi bình chương nhất Trung Dung
viết:
Tử Tư nương ý chân truyền,
Trung Dung hạ bút nói liền duyên do,
Nguồn đạo ấy phát từ Thượng Đế,
Chẳng đổi thay, chẳng thể biến rời,
Hoàn tòan đầy đủ nơi người,
Một giây một phút chẳng rời khỏi ta.
Rồi bàn tiếp chi là cần thiết, lẽ Dưỡng,
Tồn, Tỉnh, Sát v.v. Cuối cùng, tác giả luận bàn,
Sức thiêng biến hóa thánh thần uy
linh.
Những học giả muốn tìm đạo ấy,
Tìm đáy lòng sẽ thấy chẳng sai,
Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,
Căn lành sẵn có đồng thời khuếch sung.
(chương nhất, lời bình của Chu Hi).
Thông Thiên học cũng chủ trương phải tìm
Đạo, tìm Trời ngay trong lòng mình. Ông Joy Mills, trong một bài thuyết
trình tại đại hội Thông thiên quốc tế ở Salzbourg, có trích dẫn một đoạn
Upanishad như sau:
Có một ánh sáng chiếu soi khắp cùng trời
đất, đó là ánh sáng chiếu soi trong lòng chúng ta. Có một nhịp cầu nối
liền thời gian và vĩnh cưủ, và nhịp cầu ấy là Thần con người. Trên cầu
ấy, chẳng có ngày đêm, chẳng có lão tử, chẳng có sầu muộn ưu tư.
Một khi đã tìm thấy nhịp cầu ấy, con người
sẽ nhìn thấy rõ tương lai và sẽ khỏi hết thương tích, bệnh tật. Đối với
ai đã vượt được qua cầu ấy, đêm sẽ trở thành như ngày, vì trong thế giới
thần linh, có một ánh sáng vĩnh cửu.
[42]
Đại hội Thông Thiên ở Salzbourg còn nhận
định rằng: «Người ta thấy được Thượng Đế trong tạo vật Ngài. Ngay trong
lòng mình, con người có thể tìm thấy đời sống Thượng đế. Về phương diện
đạo giáo, sự khám phá này cũng vĩ đại như sự khám phá ra nguyên tử năng.
Nó cho con người quyền lực tinh thần không bờ bến, cũng như nguyên tử
năng đã cho con người một sức mạnh kỳ diệu.»
[43]
C. Những phương pháp tổng quát để tiến tới
Trung Dung, tới tuyệt điểm tinh hoa.
Sau khi đã vạch rõ cho con người thấy rằng
mình có một căn cơ hết sức sang cả, đó là Thiên tính, sau khi đã cho con
người thấy rằng, Trời và định luật Trời, con đường đưa về Trời dã có sẵn
cả trong tâm, Trung Dung đề ra ba phương pháp chính yếu để giúp
con người tiến tới hoàn thiện.
Mở mang trí tuệ để đi đến chỗ đại trí, đại
giác. Đó là TRÍ.
Luôn luôn thực thi những điều hay, để trở
nên hoàn thiện. Đó là NHÂN.
Cố gắng không ngừng để đi đến chỗ tinh vi
cao đại. Đó là DŨNG.
Trung Dung (ch. XX) viết:
Muốn thông thái không ngoài học vấn,
Muốn tu nhân phải gắng công lao,
Muốn nên hùng dũng, anh hào,
Hai câu liêm sỉ ghi vào thâm tâm.
Trí, Nhân, Dũng, tu thân ấy lý,
Biết tu thân ắt trị nổi người,
Trị người hiểu biết khúc nhôi,
Con thuyền thiên hạ âu tài đẩy đưa...
Muốn phát huy những năng lực nội tại,
những đức tính nội tại, con người không cần phải vào thâm sâu cùng cốc,
mà chỉ việc vui sống với mọi hoàn cảnh mình gặp trên bước đường đời (Trung
Dung
XIV), mà chỉ cần kiên gan bền chí, đừng bán đồ nhi phế (Trung
Dung XI).
D. Mục đích của con đường phản bản hoàn
nguyên là PHỐI THIÊN.
Sau khi đã dùi mài học hỏi, suy tư đến mức
khai thông được trí huệ, sau khi đã tha thiết thực thi những điều hay,
điều phải đến mức Nhân Đức vẹn toàn, sau khi đã cố gắng phát huy được
những năng lực tinh thần, để có thể tiến tới mức tinh vi cao đại, đến
chỗ chí cao, chí mỹ, chí thành, chí thiện lúc ấy con người sẽ đạt đích.
Trung Dung gọi sự đắc đạo, đạt đích
là đạt tới Trung Dung. Trung Đạo, là «Thung dung Trung Đạo», là PHỐI
THIÊN, là sống phối kết, hợp nhất với THƯỢNG ĐẾ.
Trung Dung (ch. XXXI) phác họa bậc thánh nhân
ấy như sau:
Chỉ có đấng chí thánh trong trần thế,
Mới có đầy đủ thông minh trí huệ,
Y như thể có Trời ẩn náo, giáng lâm,
Mới khoan dung, hòa nhã, ôn thuần,
Y như thể có dung nhan Trời phất
phưởng,
Phấn phát tự cường, kiên cương, hùng
dũng,
Y như là đã cầm giữ được sức thiêng,
Trang trọng, khiết tinh, trung chính,
triền miên,
Y như thừa hưởng đôi phân kính cẩn,
Nói năng văn vẻ, rỡ ràng, cẩn thận,
Y như là đã chia được phần thông suốt,
tinh vi.
Mênh mang sâu thẳm ứng dụng phải thì
Mênh mang như khung trời bao la vô hạn,
Sâu thẳm như vực, muôn trùng sâu thăm
thẳm,
Thấy bóng Ngài dân một dạ kính tôn,
Nghe lời Ngài dân tin tưởng trọn niềm,
Ngài hành động muôn dân đều hoan lạc.
Nên thanh danh Ngài vang lừng Trung
quốc,
Vượt biên cương lan tới các nước ngoài,
Đâu xe có thể đi, người có thể tới lui,
Đâu có được trời che, và đất chở,
Đâu còn có nhật nguyệt hai vầng tở mở,
Đâu có móc đọng, đâu có sương rơi,
Đâu còn có dòng máu nóng con người.
Ở nơi đo, Ngài vẫn được tôn sùng qúy
báu,
Thế nên gọi là «CÙNG TRỜI PHỐI NGẪU».
Phần đúc kết
Trên đây tôi đã dùng Tứ Thư, Ngũ Kinh phác
họa lại con đường phản bản, hoàn nguyên. Tôi đã đi vào nhiều chi tiết,
viện dẫn nhiều chương cú, để trình bày cặn cho kẽ các khía cạnh, các
giai đọan của con đường đó. Trong khi làm công việc đó, tôi sợ đã làm
tản mạn tâm tư của qúy vị. Để đền bù lại, tôi xin toát lược thực giản dị
lập trường và chủ trương của Nho giáo về vấn đề Qui Nguyên Phản Bản như
sau:
Muốn phản bản hoàn nguyên, phải nhận ra
được rằng mình có Thiên tính, mình là dòng dõi Trời, là những vì thiên
tử, những vì con của Thượng Đế luân lạc xuống cõi hồng trần này, cho nên
phải phấn đấu để phục hồi nguyên vị cũ, trở lại quê hương cũ.
Thứ đến phải nhận định được rằng Trời hay
Đạo chẳng có ở đâu xa, mà đã tiềm ẩn ngay trong lòng con người. Như vậy
liền biết được ngay là muốn tìm Đạo, tìm Trời phải trở về nơi tâm mà tìm
kiếm.
Vì trong ta có Trời, có thiên tính, cho
nên muốn trở về với Trời phải rũ bỏ phàm tâm, nhân tâm để mặc lấy Thiên
tâm, Thiên tính.
Mà nhân tâm là những gì bất toàn, những gì
qui ước, những gì nhân vi nhân tạo, những gì phản ảnh lại hoàn cảnh lịch
sử, điạ dư, chủng tộc, phong hóa, tập quán bên ngòai.
Mà Thiên tính là những gì tòan hảo, chí
công, chí chính, siêu không gian và thời gian, những gì thiên nhiên,
thiên tạo.
Rũ bỏ nhân tâm, phàm tâm. Mặc lấy Thiên
tâm tức là vượt lên trên những gì biến thiên, để đi vào vĩnh cửu, vượt
lên trên sinh tử, để đi vào trường sinh, vượt lên trên những gì ti tiện,
để trở về tinh hoa, cao đại, vượt lên trên khiếm khuyết, bất tòan, để
thực hiện viên mãn, toàn hảo.
Có làm song được công trình này mới mong
hợp nhất được với Thượng Đế, Phối Thiên, Phối mệnh, Thung dung Trung
Đạo, duy Nhất, duy Tinh.
Cách đây hơn hai mươi năm, trong khi soạn
thảo Trung Dung, tôi đã đúc kết lại Tinh hoa đạo Nho bằng ít vần
thơ lục bát. Những vần thơ ấy đồng thời cũng phác họa lại con đường Phản
Bản Hoàn Nguyên của Nho giáo, nay xin đem cống hiến quí vị và cũng là để
tổng kết lại đề tài này:
Luân lạc mãi tới bến bờ xa lắc,
Trong đêm tăm, phiêu dạt biết về đâu,
Lênh đênh sống trên trùng dương thời
khắc,
Chẳng buông neo, dừng lại được ngày
sao?
Biên khu luân lạc từ bao,
Tìm sao cho thấy đường vào Trung Dung,
Đường Trung Dung linh lung ẩn khuất,
Nẻo Bồng Lai gai dấp, lau che, (Mạnh Tử
Tận tâm chương cú hạ)
Bao giờ mới tỉnh giấc mê,
Bao giờ tâm tư mới hướng về tinh vi?
Bao giờ cái thế nguy mới hết,
Biết bao giờ Nhân hiệp với Thiên?
Bao giờ Thiên mệnh sáng lên,
Trời mây khắp chốn ấm êm, hiệp hòa
Gẫm cho kỹ Tính là thiên mệnh, (Trung
Dung I)
Là tinh hoa, là chính đạo Trời,
Vừng trăng minh đức sáng ngời,
Mà mây nhân dục lấp vùi mất trăng.
Nhưng trăng sáng muôn năm vẫn sáng,
Mây dù che, chẳng phạm đến trăng,
Chỉn e trần thế tối tăm,
Con đường phiêu lãng muôn phần gian
lao.
Trời cao cả nhẽ nào chẳng sợ,
Trời chẳng xa, trời ở đáy lòng.
Cho nên nội kính, ngoại cung, (Trung
Dung
I)
Mắt nhìn chẳng thấy, tưởng chừng kề
bên,
Trời tuy thị vô biên, vô tận,
Nhưng mà trời vẫn lẩn trong tâm.
Thật là kỳ ảo khôn cùng,
Không hơi không tiếng vẫn lừng uy danh.
Khuôn phép Trời chí thành chí thiện,
Tiếng của Trời là tiếng lương tâm,
Mới hay trong chốn cát lầm,
Muôn ngàn đã sẵn vô ngần ngọc châu,
Mới hay giữa sông sâu, núi thẳm,
Vẫn có đường bằng phẳng thênh thênh,
Đường Trời rong ruổi mặc tình,
Không xiên, không vẹo, không vênh,
không tà,
Đường Trời nọ bao la thảng đãng,
Không quanh co, không vặn, không xiên,
Đường Trời phẳng lặng êm đềm,
Không hề tráo trở, đảo điên vạy vò,
Đường Trời nọ thẳng vo thẳng tắp,
Vút một lèo tới cực cao minh,
Đó là duy Nhất, duy Tinh, (Kinh Thư, Đại
Vũ Mô)
Đó là Thái cực tinh thành xưa nay.
Cuộc phù thế chớ say danh lợi,
Bả lợi danh phất phới, hão huyền,
Chớ mê những cái đảo điên,
Mà quên mất cái vững bền ngàn thu,
Sông thế sự hãy ưa chèo ngược,
Chèo ngược dòng lên tuốt căn nguyên.
Căn nguyên là chính THANH THIÊN,
Vô biên vô tận triền miên không cùng.
Bỏ phù phiếm tìm tông, tìm tích,
Dương cung thần ngắm đích Thân Tâm,
Bắn vào Trung điểm Tâm Thần,
Ấy là thoát cõi hồng trần lầm than,
Như trăng sáng băng ngàn trần thế,
Rẽ Đẩu Ngưu, đượm vẻ thần tiên.
Ấy là tâm pháp thánh hiền,
Ấy là Trung Đạo tương truyền xưa nay.
Máy tạo hóa phơi bày trước mắt,
Lẽ huyền vi đâu bặt tăm hơi,
Mới hay muôn sự tại người,
Một lòng vàng đá, thì Trời cũng thua.
Hãy học hỏi cho ra gốc ngọn,
Hãy cố công làm trọn mệnh Trời,
Tim kia lạc lõng tả tơi,
Thu về đừng để vãi rơi ngoài
đường, (Mạnh tử, Cáo tử thượng,câu 2)
Tính Trời ấy khuôn vàng thước ngọc.
Phải chắt chiu bao bọc ngày đêm.
Tồn tâm dưỡng tính cho chuyên,
Tơ hào nhân dục, chớ hoen gương
Trời. (Mạnh Tử Tận Tâm thượng I)
Lòng băng tuyết thảnh thơi, thãng đãng,
Sống đơn sơ, kết bạn vô biên,
Rộng dày cùng đất sánh duyên,
Cao minh kết ngãi thanh thiên muôn
nghìn. (Trung Dung XXVI)
Mỗi động tác phải nên gương mẫu,
Mỗi hành vi nên dấu nên khuôn, (Trung
Dung
XXIX)
Lời lời, ngọc nhả châu phun,
Lưu cho hậu thế muôn ngàn dài lâu.
Gẫm đạo lý có sau có trước,
Lẽ Âm Dương có ngược có xuôi.
Xuôi là gió cuốn bụi đời (Thiên Phong
Cấu)
Đẩy đưa vào chốn trần ai, cát lầm
Có thử thách mới phân vàng đá,
Có lầm than mới rõ chuyện đời.
Ngược là sấm chớp tơi bời, (Địa Lôi
Phục)
Tầng sâu bày giải căn trời nội tâm.
Trông tỏ đức chí nhân chí chính,
Biết mục tiêu sẽ định, sẽ an.
Rồi ra suy xét nguồn cơn,
Con đường Phối Mệnh chu tòan tóc tơ.
Vốn hoàn thiện quang hoa mọi nhẽ,
Ấy tính trời muôn vẻ tinh anh,
Quang minh rồi mới tinh thành, (Trung
Dung
XXI)
Ấy nhờ giáo hóa tập tành mà nên.
Đã hoàn thiên tất nhiên thông tuệ,
Thông tuệ rồi ắt sẽ tinh thành.
Việc gì tính trước cũng linh, (Trung
Dung
XX)
Không toan tính trước âu đành dở dang.
Lời xếp trước hoang mang khôn nhẽ,
Việc tính rồi, hồ dễ rối ren,
Hành vi đã sẵn chốt then,
Sẽ không vấp vướng, sẽ nên tinh thành.
Đạo làm người có rành duyên cớ,
Sẽ mênh mang muôn thủa muôn đời..
Hoàn toàn là đạo của Trời, (Trung
Dung XX)
Trở nên hoàn thiện, đạo người xưa nay.
Người hoàn thiện cất tay là trúng,
Chẳng cần suy, cũng đúng chẳng sai,
Thung dung Trung Đạo tháng ngày,
Ấy là vị thánh từ ngay lọt lòng.
Còn những kẻ cố công nên thánh,
Gặp điều lành phải mạnh tay co,
Ra công học hỏi thăm dò,
Học cho uyên bác, hỏi cho tận tường.
Đắn đo suy nghĩ kỹ càng,
Biện minh thấu triệt, mới mang thi
hành.
Đã định học chưa thành chưa bỏ,
Đã hỏi han, chưa tỏ chưa thôi.
Đã suy, suy hết khúc nhôi,
Chưa ra manh mối, chưa rời xét suy.
Biện luận mãi tới khi vỡ lẽ,
Chưa rõ ràng, không thể bỏ qua,
Đã làm làm tới tinh hoa,
Tinh hoa chưa đạt, việc ta còn làm.
Người một chuyến thân tòan thắng lợi,
Ta tốn công dở dói trăm khoanh,
Người làm mười bận đã thành,
Ta làm nghìn thứ ta ganh với người.
Đường lối ấy nếu ai theo được,
Dẫu u mê, sau trước sẽ thông.
Dẫu rằng mềm yếu như không,
Rồi ra cũng sẽ ra lòng sắt son. (Trung
Dung
XX)
Đạo quân tử như in lữ thứ,
Muốn đi xa phải tự chỗ gần.
Đạo người như cuộc đăng san,
Muốn lên tới đỉnh, đầu đàng là
chân. (Trung Dung XV)
Việc trời thực muôn phần huyền ảo,
Thực sâu xa, ẩn náo khôn cùng,
Cho hay đức nhẹ như lông,
Nhưng lông chưa thoát được vòng trọng
khinh, (Trung Dung XXXIII
Đức Trời thực uy linh siêu việt,
Không tiếng tăm trác tuyệt vô cùng.
Cho người cái đạo Trung Dung,
THIÊN NHÂN NHẤT QUÁN, thần thông diệu
huyền.
Khủng cụ rồi, phối thiên phối mệnh.
[44]
(Trung Dung I, XXV, XXXI)
Ấy đầu đuôi, động tĩnh phù trầm.
Nguyên lai, bản mạt, thiển thâm,
Hiển vi tụ tán, xa gần, ngược xuôi.
[45]
Cái tạm bợ bao ngoài vĩnh cửu,
Áo thô sơ che dịu gấm hoa. (Trung Dung XXXIII)
Rồi ra vàng ngọc chói lòa,
Trời người định vị, trung hoà vô biên.
Trên đây tôi đã khai triển Thuyết Thiên
Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể. Nó chỉ gồm có mấy chữ:
Nhất thể tán Vạn Thù,
Vạn Thù qui nhất Thể, hay nói gọn hơn là
Nhất Thể Vạn Thù. Bản thể
thì có Một, Hiện Tượng hay Ứng Dụng bên ngoài thì muôn vàn, Tất cả những
Hiện Tượng, những Ứng Dụng ấy lúc chung cuộc lại trở về Nhất. Thế là
Nguyên Thuỷ phản chung, thế là Qui Nguyên Phản Bản.
Con đường Sinh Hoá của Trời Đất là
con đường Phát Tán, con đường chúng ta Qui Nguyên Phản Bản là con đường
Hội Tụ, Hiệp Hoà.
Quan niệm Nhất thể vạn thù đã đưa đến
những hệ quả sau đây:
*1. Các bậc danh nho như Mạnh Tử,
như Vương Dương Minh đều tin vào thuyết Thiên địa vạn vật nhất thể, tin
rằng mình có thể sống kết hợp với Đạo, với Trời.
Trình Y Xuyên (1033- 1107) nói:
«Dịch
giả, Thiên Nhân Hợp Nhất nhi dĩ hĩ.»
(Dịch chỉ là Người và Trời hợp
nhất mà thôi).
Trương kỳ Quân, tác giả bộ Trung Quốc
ngũ thiên niên sử đã viết: «Dịch chi vi thư quảng đại tất bị, vô
sở bất bao, nhi ngữ kỳ yếu qui, tắc vi minh Thiên Nhân hợp nhất chi đạo.»
(Sách Dịch mênh mông bao quát, nhưng nói cho ngay, chỉ dạy nhẽ
Thiên Nhân hợp nhất mà thôi).
Ngày nay người ta đọc sách Nho, xưng mình
là Nho Học, nhưng ít người hiểu được rằng Tính con người chính là
Thái Cực, thật là vẹn hảo. Con người không biết chuyện đó, chính vì
xã hội đã làm cho họ sai lầm mà thôi.
*2. Hai nữa, người ta không biết
rằng con người có 2 tính: một là Tính Trời hay
Thiên địa chi Tính, hai là tính người, hay Khí Chất chi tính. Tính người
chính là
thất tình, lục dục cần phải gột bỏ. Tính Trời thì quang minh
chính đại, nó là ngọn đuốc Lương Tâm, luôn luôn ở trong con người, để
soi sáng cho con người. Chính vì thế mà Nho Gia sau trứớc chỉ dạy:
Khử nhân dục (Nhân tâm), tồn Thiên Lý
(Thiên Tính hay Thái Cực) mà
thôi.
*3. Ngày nay người ta hay chê mình
là kẻ xấu, kẻ hèn mọn, tội lỗi. Những người có tư tưởng sai lầm như vậy,
dẫu tu suốt đời cũng không sao tiến bộ được. Thực là uổng phí cuộc đời.
Người ta cũng không biết rằng: Tuy vạn
tượng thời biến hóa khôn lường, nhưng Bản thể hay Bản Tính chúng ta thời
trường tồn bất biến. Nên nếu chúng ta muốn trường sinh bất tử phái rũ bỏ
những gì biến thiên, tức là Vọng tâm hay Nhân tâm, mà chắt chiu cái gì
vững bền muôn thủa, đó là Thái Cực hay Thiên Tâm, Thiên tính của chúng
ta.
Dịch kinh nơi quẻ Hằng đã viết:
Thiên
địa chi Đạo hằng cửu nhi dĩ dã. Quan kỳ sở Hằng, Thiên địa vạn
vật chi tình khả kiến hĩ. Đạo Trời thời thường hằng vĩnh cửu.
Hiểu nhẽ đó, sẽ biết tình ý của muôn loài. Tiếc thay nay có ai hiểu
thế nào là Hằng, Biến đâu.
Dịch gọi Hằng cửu đó là Thái Cực. Nó đã
nằm sẵn trong lòng sâu con người. Dịch gọi đó là Điểm Trung Hoàng.
Tìm ra được nó, nhiên hậu mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp.
Văn Ngôn hào Lục Ngũ quẻ Khôn viết:
Hiền Nhân thông lý Trung Hoàng,
Tìm nơi chính vị mà an thân mình.
Đẹp từ tâm khảm xuất sinh,
Làm cho cơ thể xương vinh, mỹ miều.
Phát ra sự nghiệp cao siêu.
Thế là đẹp đẽ đến điều còn chi.
Trung Dung là sách dạy ta tìm về Tâm Điểm
bất biến đó của vũ trụ. Trung Dung gọi đó là Đạo Trung Dung, hay đạo
Trời.
Trung ấy là không nghiêng, không ngửa,
Trung ấy là muôn thuả y nguyên.
Trung là Đạo chính mọi miền.
Dung kia là lý hiển nhiên mọi đời.
Tâm pháp này truyền nơi cửa Khổng,
Ông Tử Tư sợ chóng sai ngoa,
Bút thần tay thảo thiên hoa,
Truyền cho Mạnh tử thành pho sách này.
Sách mới thoạt trình bày một lẽ,
Sau dần dần mới tỏe thành muôn.
Tung ra tản mạn khắp muôn phương trời,
Thu tóm lại, dấu nơi ẩn áo,
Hay sao hay, kỳ ảo khôn cùng.
Đó là thực học chính tông,
Ai say tìm hiểu sẽ thông ý mầu,
Thông ý mầu rồi sau ứng dụng,
Dùng cả đời cũng chẳng hề vơi.
(Trung Dung, Chu Hi chương cú).
*4. Trung Dung chia con
người thành ba phần:
Tính (Thiên tính, Thiên Tâm, Lòng Trời =
Thiên đạo).
Tâm (Nhân tâm, nhân dục, khí
chất chi tính, lòng người =Nhân Đạo).
Xác (vật chất = Vật đạo).
Và như vậy con người cũng có 3 thứ Đạo:
a.- Thiên Đạo, nghĩa là con người phải trở
thành thần, thánh. (Trung Dung XX, XXI, XXV, Dịch, Hệ Từ hạ,X)
b.- Nhân đạo, nghĩa là con người phải ăn ở
cho xứng đáng với danh nghĩa con người.
c.- Vật đạo, nghĩa là con người phải được
no ấm, hẳn hoi khoẻ mạnh. (Trung Dung, chương 20, chương 21,
chương 25, chương 31; Dịch kinh, Hệ Từ hạ, chương X)
Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa cũng chủ trương
như vậy.
Kinh Thư, thiên Đại Vũ Mô, 15
viết:
Nhân tâm duy nguy
人
心
惟
危
Đạo tâm duy vi
道
心
惟
微
Duy tinh duy nhất
惟
精
惟
一
Doãn chấp quyết trung
允
執
厥
中
Dịch:
Lòng của Trời siêu vi, huyền ảo,
Lòng con người điên đảo, ngả nghiêng.
Tinh ròng chuyên nhất ngày đêm,
Ra công, ra sức giữ nguyên lòng Trời.
Lòng Trời thì bất biến,
lòng con người thì biến thiên. Thế là thấy được lẽ Biến, Hằng trong ta
vậy.
Bất kỳ là theo đạo giáo nào, không hiểu
những điều căn bản trên là không biết gì về Đạo (Thái Cực), về duyên do
và cùng đích của Đạo, của con người.
*5. Đạo Khổng đã tìm ra Thiên Đạo
và đã mô tả cái Đạo Phối Thiên, cái Đạo Huyền Đồng (Mysticism) trong
thiên Văn Vương, Đại Nhã, Kinh Thi.
*6. Đạo Khổng, theo Kinh Dịch cũng
mô tả sự Tiến Hoá con người, và lịch sử, qua 2 chiều Tinh Thần và
Vật Chất. Con người từ Trung điểm vòng Dịch đi ra vòng biến dịch ngoại
cảnh, thoạt đầu sẽ đi vào con đường vật chất, qua sáu giai đoạn là Cấu,
Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn. Khôn là giai đoạn Vật Chất cực thịnh. Sau đó
con người đi vào Tinh Thần, tìm hiểu và xây dựng Tinh Thần qua sáu giai
đoạn: Phục, Lâm, Thái, Đại Tráng, Quải, Kiền.
Phục là giai đoạn hồi phục, bỏ Chiều Âm
sang chiều Dương, là lúc con người thấy mình có Thiên Địa chi tâm
(Xem Dịch Kinh, quẻ Phục.) và là lúc con người khoảng 35, 40
tuổi.
Kiền là giai đoạn Tinh Thần
cực thịnh.
Sau đó con người bước vào Giai Đoạn Thái
Cực bất biến, ở Trung Cung, Trung Điểm vòng Dịch.
Chính vì thế mà Thiệu Khang Tiết mới nói:
Vạn vật tòng Trung nhi khởi, tòng Trung nhi chung.
Có đi hết các giai đoạn biến dịch này, ta
mới hiểu được lẽ Trời, ý Trời, hiều được bản tính chí thiện cũa con
người, và mới hiểu được Mệnh Trời, là tiến hóa đến hoàn thiện để trở về
kết hợp với Trời, Cao Minh Phối Thiên.Vì thế mà Dịch mới nói:
Cùng lý, tận Tính dĩ chí ư Mệnh. (Dịch, Thuyết Quái, chương
I) hoặc: Kiền Nguyên dụng cửu: Thiên hạ trị dã. Hay Kiền Nguyên
dụng cửu, nãi kiến Thiên tắc. (Quẻ Kiền, Hào Dụng Cửu):
Kiền Nguyên biến hóa xong rồi,
Bấy giờ thiên hạ nơi nơi trị bình.
Hay:
Kiền nguyên biến hóa xong rồi,
Bấy giờ mới thấy luật Trời hiện ra.
*7.
Con người thực sự có hai
chiều hướng tiến hóa, suy tư: Hướng ngoại (Extroversion, Extrovert), và
Hướng nội (Introversion, introvert). Nho gia gọi Introversion là Phản
cung, hay Phản thân. Nhưng người xưa ít ai biết thế nào là Phản thân. Có
lẽ Chu Hi đã tìm hiểu thuyết Cùng Lý ở ngoài tâm, còn Lục Tượng Sơn và
Vương Dương Minh đã đi vào Tâm mà tìm hiểu thuyết Cùng Lý.
*8. Nho gia đã đề cao Lương Tâm, và
coi Lương Tâm chính là Trời. Tôi cũng nhận xét rằng Lương Tâm chính là
Phật Tính là Bản Lai Diện Mục, là Đạo, là Trời trong ta. Cho nên ăn ở
theo đúng Lương Tâm chính là Chân Đạo. Thật là giãn dị vậy.
*9. Thực ra, con người là một phân
bộ trong thống thể vũ trụ, nên có liên quan mật thiết đến vũ trụ.
Trình Minh Đạo (1032- 1065) viết: «Vạn
vật dữ ngã nhất thể dã.» (Ta và vạn vật đều chung một bản thể.)
Lục Tượng Sơn (1140- 1192) viết: «Việc ở
trong vũ trụ chính là việc trong bổn phận mình; việc ở trong bổn phận
mình, tức là việc ở trong vũ trụ.» (Phan Bội Châu, Khổng học Đăng II,
tr. 715)
Linh Mục Vương Xương Chỉ, trong quyển
Triết Học Luân Lý của Vương Dương Minh đã viết: «Tin rằng vũ trụ này là
một thống thể, trong đó sự thác loạn của một bộ phận có ảnh hưởng đến
toàn bộ vũ trụ, tin rằng con người là tâm điểm vũ trụ, tâm con người là
tâm vũ trụ, đó là tư tưởng hàm tàng trong kinh điển, và đã được các
triết gia thời Tống chủ trương. Cũng như các triết gia Trung Hoa khác,
Vương Dương Minh (1472- 1528) cũng nhắc lại: Con người là tâm điểm vũ
trụ. Vũ trụ và ta là một thống thể.»
[46]
Linh Mục Matteo Ricci (1552- 1610) sang
giảng đạo bên Trung Hoa vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17 đã nhận định
như sau: «Trào lưu tư tưởng mà nhiều người đã theo hiện nay, theo tôi có
lẽ đã vay mượn ở một giáo phái tà thần từ 500 năm nay (Tống Nho). Quan
niệm ấy là: Thiên địa vạn vật nhất thể. Hóa công cùng với trời đất,
người vật, cỏ cây, tứ tượng đều hợp thành một phân bộ. Từ quan niệm nhất
thể ấy, họ rút ra nhiệm vụ bác ái đối với mọi người, và chủ trương mọi
người đều có thể trở nên giống Trời.»
[47]
Một học thuyết cao siêu như vậy, mà một
nhà truyền giáo trứ danh như Ricci lại cho là tà giáo, tà thần, thì thật
là đáng thương cho Ricci vậy.
*10. Mọi người đếu giống nhau về
phương diện bản thể.
Mạnh tử nói: «Phàm những vật đồng loại thì
bản tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân loại, người ta lại nghĩ rằng
bản tính chẳng tương tự? Những bậc thánh nhân với chúng ta đều cùng một
loại...» (Mạnh tử, Cáo tử chương cú thượng,
tiết 7).
*11. Con người có thể tiến tới Đại
thể, có thể hoà đồng với Đại Thể vũ trụ. Đó chính là chủ trương: Cao
minh phối Thiên, Bác hậu phối địa của Trung Dung, (Trung Dung,
XXVI)
Trình tử cũng cho rằng: «Thánh nhân phải
có một tầm kích mênh mông như vũ trụ.» (Thánh nhân hữu Thiên Địa chi
lượng dã.- Uyên Giám loại hàm, nơi chữ Thánh, tr. 4670).
*12. Thế giới là một nhà, người
trong bốn biển đều là anh em.
Trương Hoành Cừ (1020- 1077) làm bài Tây
Minh tóm tắt đại khái nhân sinh quan mình như sau: «Lấy thế giới làm một
nhà, Trời đất làm cha mẹ, nhân loại làm anh em, vạn vật làm đồng loại
của mình. Vì xem thế giới là một nhà, trời đất là cha mẹ, nên người ta
phải giữ cho tròn bổn phận làm người, vì xem nhân loại đều là anh em,
vạn vật đều là đồng loại, nên người ta phải rộng lòng nhân ái.»
Lễ Ký nơi thiên Lễ Vận đã đề ra
một thế giới đại đồng.
Kinh Dịch, nơi quẻ Đồng Nhân, cũng đã đưa
ra một viễn tượng đại đồng mai hậu.
Thế mới hay đức Khổng là vị thánh nhân.
Ngài chẳng những dạy con người phải tổ chức một đời sống quốc gia xã hội
cho hoàn hảo, để mọi người sống trong an bình, hạnh phúc, tương thân,
tương ái, mà còn truyền dạy đạo Trời, hay đạo Trung Dung, một thứ Đạo
huyền đồng, mà Kinh Thi đã trình bày trong Đại Nhã, mà Luận
Ngữ đã khen là «sáng mà nghe biết, chiều chết cũng cam» (Luận
Ngữ
IV, 8).
Tôn chỉ đạo ấy là:
a- Trong Tâm ta còn có Thần Trời, nghĩa là
trong Nhân Tâm còn có Đạo tâm.
b- Con người có bổn phận
dùng đời mình để siêu xuất phàm tâm, phối hợp với Thiên Tâm.
Mục đích của công phu tu
luyện của cuộc đời đạo hạnh chân chính là sống phối kết với Thượng Đế.
Tất cả tôn chỉ ấy đã được cô đọng trong
mấy câu khẩu quyết mà xưa vua Nghiêu đã truyền cho vua Thuấn:
Nhân tâm duy nguy
人
心
惟
危
Đạo tâm duy vi
道
心
惟
微
Duy tinh duy nhất
惟
精
惟
一
Doãn chấp quyết trung
允
執
厥
中
(Kinh Thư, Đại Vũ Mô, 15)
Lòng của Trời siêu vi huyền ảo,
Lòng con người điên đảo, ngả nghiêng.
Tinh ròng, chuyên nhất ngày đêm,
Ra công, ra sức giữ nguyên lòng Trời.
*13. Trong đạo Nho có mấy chữ hết sức khó
hiểu: Đó là chữ CÁCH VẬT, và chữ THÀNH.
Danh Nho xưa nay như Chu Hi, Vương Dương
Minh dịch mỗi người một cách. Rất là khó hiểu.
Tôi dịch: CÁCH VẬT là KHUÔN TRỜI. Trong
tiếng Việt có chữ Cốt Cách trong Tự Tình Khúc của Cao Bá Nhạ có
câu:
Bình dẫu phá, còn lề cốt cách.
Câu sách Đại Học: «Trí tri
tại cách vật. Vật cách nhi hậu tri chí» tôi dịch như sau:
Dày công học vấn sẽ hay Khuôn Trời
Hay Khuôn Trời ắt thôi thấu triệt.
Chữ THÀNH xưa nay dịch là
Thành Thật.
Tôi thấy không đúng, và tôi
dịch THÀNH là Hoàn Thiện.
Cho nên câu Trung Dung:
Thành giả, Thiên chi đạo dã, Thành chi gỉa nhân chi đạo dã (Trung Dung
XX), tôi dịch là:
Hoàn toàn là Đạo của Trời,
Trở nên hoàn thiện đạo người xưa nay.
Dịch đúng câu văn trở nên
linh động và trong sáng hơn nhiều.
Như vậy tôi đã dùng Thuyết
Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể, Nhất Tán Vạn, Vạn qui Nhất để trìng bày
Đạo Khổng. Lối trình bày của tôi còn vụng về, nhưng mong quí vị thấy
được Lẽ Nhất Quán của trời đất khi tôi trình bày Phật, Lão, Khổng, và
cho chúng ta thấy rằng rõ ràng là chúng ta có một con đường về với Chân
Tâm, với Đạo, với Trời. Đó là con đường Hướng Nội, con đường đi vào Tâm
Linh, từ Vọng Tâm lên tới Chân Tâm (Phật), từ Tâm lên tới Đạo (Lão), từ
Nhân Tâm lên tới Thiên Tâm (Khổng). Con người sau trước cũng tiến tới
Chân Thiện Mỹ, vì đó là cùng đích nhân loài. Đó là định luật Tiến Hoá
vậy.
SỰ BẢN ĐỊA HOÁ NHO HỌC TẠI VIỆT NAM
(Trích
sách Con Đường Tam Giáo Việt Nam của Lê Anh Dũng, Nxb Tp HCM, 1999, từ tr.
2 đến tr. 7)
Nho giáo du nhập vào Việt Nam trong thời
Bắc Thuộc qua ba thời kỳ như sau:
+ 111 tcn- 39: Các đời Tây Hán và Đông Hán
(Bắc Thuộc lần thứ I);
+ 43- 544 các đời Đông Hán, Tam Quốc,Tấn,
Nam Bắc Triều. (Bắc thuộc lần thứ 2)
+ 608- 939 các đời Tùy, Đường, Ngũ Quí.
(Bắc Thuộc lần thứ 3, 4, 5)
Mười thế kỷ đầu Công Nguyên, Nho học Việt
Nam chưa thịnh, chưa hình thành tầng lớp nho sĩ nắm vai trò quan trọng
trong xã hội. Thành phần trí thức ưu tú bấy giờ là những nhà tu, đặc
biệt là những cao tăng. Thông qua việc học chữ Nho để đọc kinh Phật, các
sư tiếp thu luôn Nho học. Thế nên khi nước vừa được độc lập, kể từ Ngô
(939- 965), Đinh (968- 979), Lê (980- 1009), trí thức ra giúp triều đình
là các đạo sỉ và thiền sư.
Nho học V.N. phát triển từ thế kỷ XI, sang
đời Nguyễn thì suy. Nho học mở đường xuất thân cho kẻ sĩ thông qua khoa
cử, nhồ đó thúc đẩy văn học phát triển, văn hóa được nâng cao. Không ít
tiên Nho V.N. đã đi sâu vào Triết Nho. Nhưng chiến tranh liên miên, sách
vở bị cướp đốt quá nhiều, tư tưởng học thuật của Tiên Nho hầu như không
còn lưu lại gì cho đời sau nghiên cứu. Nên nói đến Nho Giáo V.N., cái
nổi bật hình như không phải là tư tưởng triết học mà là vân chương khoa
cử, và vai trò chính trị của sĩ phu trong lịch sử. (Con Đường Tam Giáo
Việt Nam, Lê anh Dũng, thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr. 2). Nói thế
có nghĩa là Nho gia Việt Nam không có ai là triết gia hay tư tưởng gia
lỗi lạc nào, mà chỉ có vân gia hay chính trị gia mà thôi.
I. NHO HỌC VIỆT NAM QUA CÁC
THỜI ĐẠI
Đời Lý (1010- 1225)
Nho học mới hưng phát. Vua Lý Thánh Tông
cho lập Văn miếu, làm tượng thờ Chu Công, Khổng Tử và bảy mươi hai tiên
hiền (1070)
Vua Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên tên
là Tam Trường (1075), mở Quốc Tử Giám (1076), lập Hàn Lâm Viện (1086),
tuyển Mạc Thiên Tích làm hàn lâm học sĩ. Danh Nho triều Lý có Lý đạo
Thành, Trương Bá Ngọc, Tô Hiến Thành.
Đời Trần (1225- 1400)
Vua Trần Thái Tông mở khoa thi
Thái học sinh (1232); khoa tam giáo (1247) và mở khoa tam khôi (1247)
tuyển trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa; mở quốc học viện (1253) giảng
tứ thư, ngũ kinh. Vua Trần Duệ Tông dổi khoa thi Thái học sinh thành
tiến sĩ (1374).
Đời Trần Nghệ Tông, Hồ quý Ly soạn sách
Minh Đạo (1302), dịch thiên Vô dật ở kinh Thư(1394) dạy thái
tử (sau lên ngôi là Thuận Tông), dịch kinh Thi dạy nội cung
(1396).
Đời Thuận Tông, Hồ Qúy Ly làm Thái Sư, nắm
quyền phụ chính, caỉ cách thi cử, ấn định lương bổng của các quan dạy
học ở địa phương.
Văn học đời Trần rất thịnh, nhờ khoa cử
thúc đẩy. Danh Nho có Mạc Đỉnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn (viết Giới Hiên
toàn tập), Trương Hán Siêu, Lê Lập, Phạm Sư Mạnh (viết Hiệp
Thạch tập), Chu An (viết Tứ Thư thuyết ước, Tiều Ẩn
thi), Hàn Thuyên...
Đời Hồ (1400- 1407), Hậu Trần (1407-
1413), Minh thuộc (1414- 1427)
Hồ Qúy Ly thay nhà Trần, lập nên nhà Hồ.
Nước loạn, quân Minh xâm lăng, cướp sách vở đưa về Kim Lăng; Những gì
không đem được thì đốt, thiệt hại không kể xiết. Nhà Minh đưa Tống Nho
vào Việt Nam.
Đời
Hậu Lê (14281788)
Nho
học rất được chú trọng, được tôn là quốc học. Khoa cử thúc đẩy,
hình thành tầng lớp nho sĩ trí thức đông đảo. Kinh đô có Quốc tử giám,
Thái học viện. Vua Lê Thánh tông chia nước làm mười ba đạo, hầu hết các
đạo ở đồng bằng đều lập trường công, ấn định quy chế thi cử. Năm 1463 có
chừng 1400 người thi Hội ở Thăng Long; năm 1475: khoảng 3000 người. Từ
triều Lê, người thi đậu rất vẻ vang: có lễ xướng danh, lễ vinh quy, lễ
khắc tên tiến sĩ vào bia đá ở Văn miếu.
Danh
Nho đời Lê có Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Bùi Cầm Hổ, Nguyễn Thiên Tích,
Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đỗ, Lương Thế Vinh, Đỗ Nhuận, ThÂn Nhân Trung,
Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh,
Nguyễn Dữ, Giáp Hải, Nguyễn Mậu Nghi, Phạm Công Trứ, Lê Anh Tuấn, Nguyễn
Công Hãng, Phạm Đình Trọng, Lê Quý Đôn, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân,
Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên...
Đời Tây Sơn (1788- 1802)
Sau
khi đánh bại quân Thanh giữa năm Kỷ dậu (1879), vua Quang Trung lập Sùng
chính viện, cử La Sơn Phu tử Nguyễn Thiệp làm viện trưởng, với trọng
trách chấn chỉnh lại Nho học Việt Nam. La Sơn Phu tử dịch xong các sách
Tiểu học, Tứ thư và Ngũ kinh ra chữ Nôm, chưa kịp cải cách
thì vua Quang Trung mất.
Đời Nguyễn (18021945)
Nền
học thuật gắn liền khoa cử ngày càng suy. Thực dân Pháp xâm chiếm đất
nước. Cái học theo phương Tây khởi sự chen vào. Nền Nho học cử nghiệp cổ
truyền dần dần mai một, chấm dứt năm 1915 ở miền Bắc, rồi 1918 ở miền
Trung.
II. CÁC TÁC PHẨM TRIẾT HỌC CỦA NHO GIA
VIỆT NAM
Nhà nho có danh đời nào cũng xuất hiện,
tên tuổi còn ghi lại nhiều. Ngoài công lao kinh bang tế thế, tiên nho
Việt Nam còn giúp vào việc giáo hóa, trứ tác thơ văn nhiều loại. Riêng
về mặt triết học, cũng rất phong phú, không những phô diễn đạo lý cổ
truyền Khổng Mạnh, Trình Chu mà còn bày tỏ ít nhiều quan điểm riêng của
người Việt, thể hiện hoặc tinh thần độc lập hoặc ý thức đối kháng với tư
tưởng Trung Hoa. Tiếc thay, sách vở đã bị thất tán, tiêu hủy sau bao thế
kỷ binh lửa.
Văn tịch chí trong
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú và Tìm hiểu kho
sách Hán- Nôm của Trần Văn Giáp là hai trong những tài liệu quý
hiếm, kể ra được một phần nào sách vở còn giữ lại hay còn ghi nhận được,
nhờ đó cũng giúp đời sau có cái nhìn khái lược về tư tưởng triết học của
nhà nho Việt Nam đời trước.
Căn
cứ hai tài liệu ấy, qua một số tác phẩm mang tính triết học, giáo dục
của người Việt, có thể dẫn lại một ít nhan đề tiêu biểu như sau:
1.
Tứ thư thuyết ước, mười quyển, Chu An (?1370) đời Trần soạn, nay
không còn.
2.
Chu dịch quốc âm giải nghĩa, hai quyển, cũng gọi Chu dịch quốc âm
ca [quyết], Đặng Thái Phương [hay Bàng] (1674?) đời Hậu Lê soạn xong
trước năm Quý hợi (1743). Ông dùng thơ lục bát giải nghĩa từng hào (diễn
ca); như quẻ Càn, hào sơ cửu Tiềm long vật dụng (rồng ẩn náu chớ
nên dùng) diễn ca là:
Sơ
cửu hào nghĩa tiềm long,
Bé
còn ở dưới mà dùng làm chi.
3.
Tứ thư ngũ kinh toản yếu, mười lăm quyển, Nguyễn Huy Oánh (17131798)
đời Hậu Lê soạn.
4.
Tính lý toản yếu, hai quyển, Nguyễn Huy Oánh soạn. Quyển này và
quyển trên nhằm tóm tắt các sách Tứ thư, Ngũ kinh, Tính lý, tiện
lợi cho nho sinh chuẩn bị thi cử.
5.
Thánh mô hiền phạm lục, mười hai quyển, Lê Quý Đôn (17261784) đời
Hậu Lê soạn.
Ông
trích lục nguyên văn các lời nói của thánh hiền, xếp loại, chia thành
mười hai đề mục, ghi rõ xuất xứ từng câu đã trích trong Dịch, Thi,
Thư, Xuân thu Tả truyện, Lễ ký, Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Gia ngữ,
Hiếu kinh, Mạnh tử, Chu tử, Quốc sách, Quốc ngữ, Sử truyện, Tiên nho
cách ngôn...
6.
Thư kinh diễn nghĩa, ba quyển, Lê Quý Đôn soạn.
7.
Dịch kinh phu thuyết, năm quyển, Lê Quý Đôn soạn.
8.
Âm chất văn chú, hai quyển, Lê Quý Đôn soạn.
9.
Vân đài loại ngữ, bốn quyển, Lê Quý Đôn soạn.
10.
Chu huấn toản yếu, năm quyển, do Phạm Nguyễn Du (1739- 1787) đời
Hậu Lê soạn.
Mô
phỏng theo sách Cận tư lục của Chu Hy và Lữ Tổ Khiêm đời Tống,
lấy toàn văn của Chu Hy chia thành loại, xếp thành tiết mục, hơn sáu
trăm điều.
11.
Xuân thu quản kiến, mười hai quyển do Ngô Thời Nhiệm
(17461803) đời Hậu Lê soạn.
12.
Nhân thế tu tri, tám quyển, do Cao Xuân Dục (18421923) đời Nguyễn
soạn.
Nho
giáo Việt Nam không phải chỉ là trích cú tầm chương, khoa cử, phú thi
xướng họa. Có một luồng tư tưởng của người Việt, nó hòa hợp đạo Nho với
Phật, Lão và văn hóa bản địa Việt Nam. Hiện nay, mọi việc nghiên cứu lại
Nho giáo Việt Nam đều còn phải khởi sự, mà khó khăn lớn nhất vẫn chính
là sự thất lạc tác phẩm của tiên nho qua các triều đại.
Đạo
Cao đài xuất hiện ở miền Nam Việt Nam vào đầu thế kỷ XX với lễ nhạc, y
phục, và tiêu ngữ Nho tông chuyển thế (lấy tông chỉ đạo Nho để
sửa đời loạn thành trị); phải chăng, trong một chừng mức nào đó có thể
coi Cao đài như một canh tân Nho giáo trong thời đại mới?
CHÚ THÍCH
[3] Nghịch
nhi thành tiên, thuận khứ sinh nhân, sinh vật.
逆
而
成
仙,
順
去
生
人,
生
物.
Đạo Nguyên tinh vi ca, q.hạ,
tr. 9b. ― Xem Trung Dung Tân khảo của tác giả,
tr. 251.
Dịch
theo. Tống
Nguyên Học Án,
q. 48, tr. 19 (Hối
Ông học án)
[27] Thị
cố quân tử tôn đức tính, nhi đạo vấn học, trí quảng đại nhi tận tinh
vi, cực cao minh nhi đạo Trung Dung. ― Trung Dung
XXVII.
|