TƯ
TƯỞNG LÃO HỌC &
SỰ BẢN ĐỊA HOÁ TẠI VIỆT NAM
Nhân tử
Nguyễn Văn Thọ
Xem bài liên quan:
Tư tưởng Nho học |
Tư tưởng Phật học
Xưa nay, có rất nhiều người
thường cho rằng các đạo giáo Á Đông, các triết thuyết Á Đông hết sức là
mơ hồ, huyền ảo. Khảo về các học thuyết Á Đông nhiều người cảm thấy như
mình lạc vào một mê đồ trận, hay vào một khu rừng rậm giữa đêm tăm,
không còn biết đầu đuôi, phương hướng ra sao. Cho nên muốn khảo sát các
đạo giáo Đông phương, ta cần phải nắm vững ít nhiều tư tưởng then chốt
của Tam Giáo...
1. Đầu tiên có Nhất Thể
Trước
hết các đạo giáo Đông Phương đều xác tín rằng có một thực thể tuyệt đối,
một Bản Thể duy nhất, uyên nguyên, vô hình vô ảnh, nhưng lại linh động,
biến hóa vô cùng. Bản Thể ấy, Lão Giáo gọi là ĐẠO.
ĐẠO
vì là Bản Thể của vũ trụ, tuyệt đối, vô biên tế nên không thể dùng danh
hiệu để tuyên xưng, không thể dùng ngôn từ để mô tả.
Đạo
có 2 thế: Thế tiềm ẩn, và thế hiển dương.
Trước khi sinh ra vũ trụ,
Đạo ở thế tiềm ẩn. Sau khi sinh ra vũ trụ, Đạo ở thế hiển dương. Vũ trụ
này xét về phương diện Bản Thể thì hư tĩnh, vi diệu; xét về phương diện
hình tướng, thì có giới hạn, có hình danh, sắc tướng.
Muốn
hiểu rõ vũ trụ, thì phải bao quát cả hai mặt:
― Bản
thể (Diệu), Hằng.
― Hình tướng (Khiếu), Biến của nó.
Đạo
gia gọi đó là Diệu Khiếu Tề Quan.
Các ý
tưởng trên đã được Lão Tử nói lên nơi chương
I, Đạo Đức Kinh:
Hóa Công hồ dễ đặt tên,
Khuôn Thiêng hồ dễ mà đem luận bàn.
Không tên, sáng tạo thế gian,
Có tên, là mẹ muôn vàn thụ sinh.
Tịch nhiên cho thấy uy linh,
Hiển dương cho thấy công trình vân vi.
Hai phương diện, một hóa nhi,
Huyền linh khôn xiết, huyền vi khôn
lường,
Đó là Chúng diệu chi môn,
Cửa thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi.
Đạo
khi chưa sinh hóa ra vũ trụ còn được gọi là:
Hư,
Hư Vô, Hồng Mông, Hỗn Độn, Hư Không, Đạo, Vô Cực v.v...Hư Vô, Hư Không
không phải là Hư Ảo mà là Thực Thể Bất Khả Tư Nghị, vô biên tế của vũ
trụ.
Vì
thế, Lão Tử nói: Thiên Hạ vạn vật sinh ư Hữu, Hữu sinh ư Vô (ĐĐK,
chương 41).
Trang
Tử cũng nói: Đầu trước hết có Vô, không hiện hữu, không tên tuổi.
(Trang Tử, Nam Hoa Kinh, Thiên Địa). Hai chữ Vô Cực được Lão Tử
đề cập nơi chương 28, Đạo Đức Kinh.
Các danh từ Không, hay Hư Vô cũng
được các Đạo Gia thường dùng.
Sách
Xướng Đạo Chân Ngôn viết:
Vạn vật bắt đầu từ Không. Thái Cực là Không. Không sinh ra Nhất, Nhất sinh ra Vạn, Vạn trở về
Không. Không là Thủy Tổ muôn loài. Học giả cần biết Chân Không, cần phân
biệt Linh Không với Ngoan Không.
[1]
Xướng Đạo Chân Ngôn
còn
gọi Hư Vô là Vô Cực, là Đơn, là Đạo, là Bản Thể của Trời Đất. Sách viết:
«Đơn là Bản Thể của vạn vật. Đơn là Đạo, Đạo là Bản Thể của Hư Vô. Hư
Vô không thể đặt tên, nên Thánh Nhân tạm gọi là Đạo. Hư sinh Nhất, Nhất
sinh Vạn, Vạn hoàn Nhất, Nhất hoàn Hư.»
[2]
Sách
viết thêm: «Đạo gia gọi là Hư, Phật gia gọi là Không. Hư Không nghe
biết, nhìn biết mọi sự... Cho nên khi một người suy nghĩ, người cùng nhà
không hay biết, mà Hư Không vô lượng đã biết, đã hay...Vì thế Nho Gia
thận độc, úy không (cẩn thận khi ở một mình, sợ cái Không).»
[3]
Đạo
sinh ra vũ trụ bằng sự hiển dương phóng phát, tức là bằng Đức[4]
và cũng bằng sự phân liệt chia phôi.
Bản Thể ấy sinh xuất ra vũ
trụ hiện tượng, hữu hình, hữu tướng này. Đó là thuyết THIÊN ĐỊA VẠN VẬT
NHẤT THỂ.
2. Nhất Thể biến vạn
thể
Bản thể duy nhất vô sinh, vô
diệt, vô thủy vô chung ấy là căn nguyên sinh xuất ra vũ trụ hữu hình,
hữu sinh, hữu diệt, hữu thủy, hữu chung này; nó mang muôn ngàn danh
hiệu. Dưới đây chỉ đan cử ít nhiều danh hiệu để rọi sáng vào ít nhiều
tính cách của Bản Thể uyên nguyên ấy.
3. Danh hiệu của Nhất
Thể
Bản Thể ấy trước hết được
gọi là NHẤT vì cũng như số Một sinh ra mọi con số khác, Bản Thể
ấy cũng sinh mọi hiện tượng, mọi sinh linh.
Bản Thể ấy cũng còn được gọi
là Trung, vì nó lồng trong mọi hiện tượng, mọi sinh linh, để làm
Chân Tâm, làm Khu Nữu, làm Cốt Lõi, nâng đỡ giữ gìn vạn sự, vạn loài.
Trung này vừa vô định
tại, vô phương sở, vì bao trùm vũ trụ, vì là bản thể vũ trụ; vừa hữu
định tại, hữu phương sở, vì nằm trong lòng sâu muôn loài, muôn vật, từ
tinh tú, nhật nguyệt, đến vi tử, vi trần.
* Phật
giáo gọi Bản Thể ấy là:
Tâm Địa vì sinh xuất vạn
loài.
Bồ
đề vì đó là sở đắc của
chư Phật.
Pháp Giới vì dung nhiếp
vạn tượng.
Niết Bàn vì tịch nhiên
thường lạc.
Bất lậu vì không tì ố,
bợn nhơ.
Chân Như vì vô vọng, bất
biến.
Phật Tính vì siêu xuất
thị phi
Viên giác vì phá sạch
quần mê.
Như Lai vì hàm nhiếp vạn
linh.
Mật nghiêm quốc vì siêu
việt, huyền bí.
Bản Lai diện mục vì là
bộ mặt thật của con người muôn thủa.
Kim Cương vì là Bản Thể
bất diệt, trường tồn, vĩnh cửu nơi con người.
* Lão
giáo gọi Bản Thể đó là:
Đạo
vì là đường đi, nước bước của nhân quần.
Tạo hóa chi nguyên vì là
căn cơ sinh hóa.
Tiên thiên chủ nhân vì
sẽ tạo dựng ra trời đất, vạn hữu,
Vạn tượng chủ tể vì sinh
xuất mọi hiện tượng.
Huyền tẫn chi môn
vì bao quát âm Dương (Huyền = Dương; Tẫn = âm).
Tổ
Khiếu vì là nơi phát
xuất muôn loài.
Cốc Thần vì ở sẵn ngay
trong đầu não con người.
Chân Nhất Xứ vì Bản Thể
ấy duy nhất.
Trung hoàng cung vì là
Tâm điểm vạn hữu.
Mậu Kỷ môn vì là Tâm
Điểm vạn hữu.
Chân Thoå vì là Tâm Điểm
vạn hữu.
Huỳnh đình vì là Tâm
Điểm vạn hữu.
Qui Trung vì là tâm điểm
vạn hữu.
Ngưng kết chi sơû vì có
Đắc Nhất thì luyện đơn mới thành.
Qui căn khiếu, Phục Mệnh quan
vì đó là cùng đích muôn loài.
Huyền quan Khiếu vì là
cửa sinh xuất muôn loài v.v...
* Khổng
giáo gọi Bản Thể đó là:
Vô Cực. Thái Cực. Nhất. Trung
Và
Dịch Kinh cũng chỉ triển khai mấy quan niệm đó...
Nhất Thể đó khi thì được
đạo Lão coi như là Vô Ngã và được hài danh bằng những danh từ như
Đạo, Hư Vô, Hư, Vô, Vô Cực, Đơn, Tiên Thiên Nhất Khí, Thái Hòa Nguyên
Khí, Hạo Thiên chi khí v. v... Lão Tử, Trang Tử theo chủ trương này.
Đó
cũng chính là chủ trương của Phật, của các đại hiền triết Hy lạp cổ thời
như Pythagoras, Héraclitus, Parmenides, Plato, Anaximander v. v...
Đó là
quan niệm Nhất Nguyên Vô Ngã theo danh từ Triết Học ngày nay.
Cũng
Nhất Thể ấy, khi thì được đạo Lão coi như là
Hữu Ngã và
được gọi là Thái Thượng Lão Quân, Nguyên Thủy Thiên Tôn, Ngọc Hoàng
Thượng Đế.
Đó là
Quan niệm Nhất Nguyên Hữu Ngã tương đương với quan niệm Đại Nhật
Như Lai trong Phật Giáo, và Thượng Đế trong các đạo giáo.
Đạo Lão có khi còn dung
thông 2 quan niệm trên làm một và gọi Bản Thể vũ trụ là Tiên Thiên Nhất
Khí, Thái Thượng Lão Quân.
4. Tâm điểm và vòng
tròn
Nó tượng trưng cho Nhất Thể
vạn thù. Quan niệm Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể, Nhất thể tán vạn
thù, vạn thù qui Nhất Thể còn được Dịch Kinh và các đạo gia, đạo sĩ xưa
biểu hiệu tượng trưng bằng Tâm Điểm và Vòng Tròn.
Tâm
điểm tượng trưng cho Bản Thể, căn nguyên, gốc gác, cùng đích muôn loài.
Vòng
tròn bên ngoài tượng trưng cho hiện tượng, cho luân lưu biến hóa. Trong
quyển Huỳnh Đình Nội Cảnh, do Tử Hà, Hàm Hư Tử chú, nơi tr. 4a,
có một câu hết sức ý vị:
Nhất
Thần chính vị nhi trung lập,
Vạn Thần triều củng nhi
hoàn trần.
Huỳnh
Đình chi thể dụng bị hĩ.
Nghĩa
là:
Một Thần chính vị nơi Trung Điểm,
Vạn thần chầu chực thành vòng quanh
Thể và dụng của Huỳnh Đình đầy đủ trong
hai câu đó.
5. Nhất thể, vạn thù
ở hai thế giới đối đỉnh
Từ
hình vẽ TÂM ĐIỂM và vòng tròn chúng ta dễ dàng suy diễn ra được rằng: Vũ
trụ này gồm có hai phần:
a.- Một
thế giới của Bản Thể, của Thực Thể, lý tưởng siêu việt, thế giới của
Chân, Thiện, Mỹ, vĩnh cửu trường tồn. Đó là thế giới khinh thanh,
bao la, tiềm ẩn, đồng đẳng, vô phân biệt. Đó là Chân Như Môn theo danh
từ Phật Giáo, đó là Vô Vi, là Diệu, theo danh từ Lão Giáo, là Thể theo
Nho Giáo.
b.- Một thế giới của hiện tượng, của giác quan, của thiên nhiên, của
những gì phù du, biến ảo, những gì trọng trọc, những gì chất chưởng,
những gì hữu hạn, những gì bị chi phối bởi sự duyên. Ở nơi con người nó
bao quát hết cả tâm tư, trí não giác quan, hình hài ta, tóm lại tất cả
cái gì là vọng tâm, vọng ngã, cái gì là Tứ Đại Giả hợp, theo Phật giáo.
Đó cũng chính là Sinh
Diệt Môn theo danh từ Phật giáo, là Hữu Vi, là Khiếu theo danh từ Lão
giáo, là Dụng theo Khổng giáo.
Phàm nhân thì sống phù phiếm, lênh đênh chìm nổi trên cái thế giới hiện tượng
ấy, chỉ biết
những gì là sắc tướng, chỉ thích những gì là phù hoa, chỉ mê những gì là
hào nhoáng bên ngoài; lạc lõng trong muôn ngàn sai biệt; bị ngoại cảnh
chi phối, thất tình lục dục đẩy đưa, từ ngữ tư tưởng ám nhãn, manh tâm,
thu hẹp con người vô hạn của mình vào trong gông cùm của không gian thời
gian, hình hài sắc tướng hữu hạn.
Thánh nhân trái lại đã xuyên qua được bức màn hiện tượng ấy để vào thế
giới chân tâm, vô biên vĩnh cửu, thế giới bản thể vĩnh cửu, trường tồn:
xuyên qua được tâm thức, để vào tới cõi Hư Vô, Chân thể, đồng đẳng với
Thái Hư.
Chính
vì thế mà sách Tham Đồng Khế có câu:
Chân
nhân tiềm thâm uyên,
Phù du
thủ qui trung
Tạm dịch:
Chân nhân sống rất thâm trầm,
Phởn phơ khinh khoát, ôm cầm Khuôn thiêng.
(Lý
Lạc Cầu, Tiên Học diệu tuyển, tr. 86)
Tính Mệnh Khuê Chỉ có
câu:
Ly
chủng chủng biên,
Doãn
chấp quyết trung
Tạm
dịch:
Lìa xa hết mọi vòng ngoài,
Trung Tâm giữ vững chẳng rời tấc gang.
6. Nhất thể vạn thù
với hai chiều thuận nghịch.
Tâm
điểm và vòng tròn còn giúp ta nhìn được hai chiều thuận nghịch, biến hóa
của trời đất và của con người.
Ở nơi
trời đất, thì chiều đi từ Bản Thể đi ra hiện tượng, đi từ Vô đến Hữu,
chiều từ Tâm ra Biên, chiều từ Nhất sinh Vạn, là chiều Thuận, là
chiều sinh hóa ra Vạn Hữu.
Đó là
chiều Ly Tâm và đồng thời cũng là chiều đi xuống, chiều thoái hóa, từ
Khinh Thanh ra dần, xuống dần đến Trọng Trọc, từ Phác Giản ra dần, xuống
dần đến Tần Phiền.
Ở nơi con người, thì chiều
Thuận chính là chiều Ly Tâm, là chiều Phóng Ngoại, Hướng Ngoại, từ Thần
ra dần đến Tâm Tư, Ý Thức, Hình Hài, Ngoại Cảnh.
Theo
Tính Mệnh Khuê Chỉ thì ở nơi con người chiều Thuận sẽ được phác
họa như sau:
TÍNH
➔ TÂM
➔ Ý
➔ TÌNH
➔ VỌNG (MÊ VỌNG).
(Tính
Mệnh Khuê Chỉ, q. Hanh tr. 8)
Ở nơi
trời đất thì chiều biến hóa từ Biên trở về Tâm Điểm, chiều từ Vạn qui
hoàn về Nhất, là Chiều
Nghịch, là chiều Thăng Hoa sinh Thánh sinh Thần. Đó là chiều Đi Vào, Chiều Hướng Tâm, đồng thời cũng là
Chiều Đi Lên, Chiều Tiến Hóa từ Trọng Trọc trở lại dần tới Khinh Thanh,
từ Tần Phiền trở lần về tới Phác Giản.
Ở nơi con người thì Chiều
Nghịch đó chính là Chiều Hướng Tâm, là Chiều Hồi Hướng, là Chiều Hướng
Nội, chiều từ Hình Hài quay về với Thiên Tính, với Thần Linh, với Đạo
Tâm, Chân Tâm nội tại.
Theo
Tính Mệnh Khuê Chỉ, thì ở nơi con người, chiều Nghịch sẽ được
phác họa như sau:
VỌNG (MÊ VỌNG) ➔ TÌNH ➔ Ý ➔ TÂM
➔ TÍNH.
(Tính Mệnh Khuê
Chỉ, Thuận Nghịch Tam Quan Đồ, q. Nguyên tr. 13a).
Chiều
Nghịch này mới là chiều quan trọng.
Cuối
cùng, mọi sự lại trở lại Hư Vô.
Vòng
tuần hoàn, biến dịch của vũ trụ, được Trang Tử toát lược bằng một câu: «Vạn
vật giai xuất ư cơ, giai nhập ư cơ.» Vạn vật đều xuất ở Cơ ra, rồi
lại đều trở về Cơ. (Nam Hoa Kinh, Chí Lạc).
Đạo Đức Kinh
viết:
Phù vật vân vân, các qui kỳ căn, qui căn viết tĩnh, tĩnh viết
phục mệnh, phục mệnh viết thường. (ĐĐK, chương XVI).
Dịch:
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra cũng phải lai hoàn bản nguyên.
Hoàn bản nguyên an nhiên phục mệnh,
Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng.
Ở nơi
vòng DỊCH, thì chiều Thuận là chiều Quan Nguyệt Quật
theo từ ngữ
của Thiệu Khang Tiết, từ quẻ CẤU đến quẻ KHÔN.
Còn
chiều Nghịch là chiều Kiến Thiên Căn theo Thiệu Khang Tiết, từ
quẻ PHỤC đến quẻ KIỀN, rồi vào TRUNG CUNG THÁI CỰC. Thế là Quân tử HOÀNG
TRUNG THÔNG LÝ, CHÍNH VỊ CƯ THỂ.
Dịch chủ trương Chiều Nghịch mới là
chiều quan trọng, và Thánh Hiền xưa đã định nghĩa Dịch là Nghịch số.
(Dịch
Kinh, Thuyết quái,
chương 3)
Liệt
Tử viết trong Xung Hư Chân Kinh:
Hình thanh, vị, sắc đều do Vô Vi mà sinh ra.
Hình,
thanh, vị, sắc khi còn, khi mất, khi có, khi không. Vô vi không bao giờ
có cùng.
Hình,
thanh, vị, sắc hình hiện ra bên ngoài, mà Vô Vi thì không bao giờ hình
hiện.
Tất
cả hình, thanh, sắc, tướng đều là chức năng của Vô Vi.
Vô Vi
có thể Âm, có thể Dương, có thể mềm, có thể cứng, có thể vắn, có thể
dài, có thể tròn, có thể vuông, có thể làm cho sống, có thể khiến cho
chết, có thể nóng, có thể lạnh, có thể nổi, có thể chìm, có thể là Cung,
có thể là Thương, có thể ẩn, có thể hiện, có thể đen, có thể vàng, có
thể ngọt, có thể đắng, có thể tanh, có thể thơm. Tưởng không biết, không
hay, mà cái gì cũng biết, cũng hay.
Liệt
Tử còn viết: Xưa Thánh Nhân lấy Âm Dương bao quát trời đất, mà hữu hình
thời sinh ra từ vô hình, nên trời đất dần dà mới có. Cho nên nói: Có
Thái Dịch, có Thái Sơ, có Thái Thủy, có Thái Tố.
Thái Dịch là giai
đoạn chưa có Khí.
Thái Sơ là giai đoạn
Khí bắt đầu có.
Thái Thủy là giai
đoạn Hình bắt đầu có.
Thái Tố là giai đoạn
Chất bắt đầu có.
Khí,
Hình, Chất có đủ, nhưng chưa chia lìa nhau. Cho nên gọi là Hồn Luân. Hồn
Luân là khi vạn vật còn trà trộn, chưa phân ly... Nhìn không thấy, nghe
không ra, theo không được nên gọi là Dịch. Dịch không giới hạn, không
bến bờ. Dịch biến thành Nhất, Nhất biến thành Thất, Thất biến thành Cửu.
Cửu là biến hóa đến cùng cực. Thế rồi lại trở về Nhất.[5]
Sách Linh Bảo Tất
Pháp có một đoạn tương tự như vậy, mà tôi đã chuyển thành thơ như
sau:
Tự Đạo phân chia số mới thành,
Ngũ Hành hình tượng: Đạo nha manh.
Năm phương vũ trụ: Thần phân liệt,
Chất sắc năm màu: đạo tán sinh.
Số từ Vô Số xuất sinh,
Trở về Vô Số mới thành vãng lai.
Tượng từ Vô Tượng an bài,
Trở về Vô Tướng trong ngoài ấm êm.
Vị hoàn Vô Vị mới nên,
Chất hoàn Vô Chất, tinh tuyền trước sau.
Chớ chia Đạo Thể nhiệm màu,
Số kia bám víu vào đâu sinh thành.
Muốn trừ cho hết tượng hình,
Ngừng cơ biến hóa, mối manh tiêu liền.
Vị ngôi muốn hết dưới trên,
Thời đừng phân biệt bản nguyên làm gì.
Đạo không phát tán, chia ly,
Thời thôi vật chất biến đi từ đời.
Đạo là Vô Số, Vô Ngôi,
Vô Hình, Vô Chất, chia phôi nhẽ nào.
Đạo Trời vi diệu biết bao...
[6]
7. Con đường trở về
Nhất Thể phải là con đường qui tâm hướng nội
Hiểu
được hai chiều tiến hóa ngược xuôi ấy, ta sẽ thấy ngay:
*Đi
ra Ngoại Cảnh là đi Ra Đời... Bất kể ngoại cảnh ấy là đền đài miếu mạo,
Thần Phật hay chi chi nữa.
*Đi
vào nội Tâm mới là đi Vào Đạo.
Có
vậy, ta mới hiểu lời lẽ sau đây của Tính Mệnh Khuê Chỉ:
Muốn thoát Luân Hồi, phải
thể hợp với Chí Đạo, muốn thể hợp với Chí Đạo, tất phải quán chiếu bản
tâm, muốn quán chiếu bản tâm, tất phải nhắm mắt hồi quang, nhìn vào hư
không, đem ánh sáng Tuệ Quang chiếu diệu vào nơi Thất Tình chưa nhen
nhúm, nơi mà Bản Thể chưa bị Bát Thức làm ô nhiễm; ngoài thì tuyệt hết
chư duyên, trong thì tuyệt hết chư Vọng, hợp Nhãn quang, ngưng Nhĩ vận,
điều Tị tức, khóa Thiệt khí, tứ chi bất động, để cho Ngũ Thức của tai,
mắt, mũi, lưỡi, thân quay trở về gốc gác, như vậy tinh, thần, hồn,
phách, ý sẽ an vị: suất cả 12 giờ trong ngày, mắt luôn nội quan quán
chiếu nhìn vào Khiếu ấy, tai trở ngược lại lắng nghe Khiếu ấy, đầu lưỡi
thường phong bế Khiếu ấy, vận dụng, thi vi, niệm niệm không rời khỏi
Khiếu ấy... Khiếu ấy chính là Bản Thể Thần Linh của con người.
Đó là
Bản Thể tuyệt đối mà chúng ta đã đề cập tới trong suốt cả chương này.
Thái
Thượng nói: Ta từ vô lượng kiếp quan tâm đắc đạo, và tới được Hư Vô. (Thái
Thượng viết:
Ngô tòng vô lượng kiếp, quan tâm đắc
đạo nãi chí Hư Vô.)
(Tính Mệnh Khuê Chỉ, Hanh, tr. 3a).
Hiểu
được Bản Thể là hiểu được Căn Nguyên, Cùng Đích vũ trụ và con người.
Hiểu được hai chiều Thuận,
Nghịch nói trên là hiểu được nhẽ biến dịch tuần hoàn của vũ trụ, vạn hữu
và của con người.
8. Chung qui, Hiểu
chữ Nhất là hiểu được tinh hoa đạo giáo Á Đông nói chung, Lão Giáo nói
riêng
Dù
đứng trên lập trường Vô Ngã hay Hữu Ngã mà nhìn vào Nhất Thể, dù gọi
Nhất Thể đó là Khí, là Thể, là Thần, là Lão, là Thiên, thì khái niệm cơ
bản vẫn là:
Nhất
thể đó linh minh, huyền diệu, có khả năng sinh xuất biến hóa ra vạn sự
vạn hình.
Nhất
Thể đó có thể hóa thành Tam Thể, Vạn Thể.
Nhất
Khí đó có thể hóa thành Tam Khí, Vạn Khí.
Nhất
Thần đó có thể hóa thành Tam Thần, Vạn Thần.
Nhất
Lão đó có thể hóa thành Tam Lão, Vạn Lão.
Nhất
Thiên đó có thể hóa thành Tam Thiên, Vạn Thiên.
Thế
tức là hiểu Lẽ Một, sẽ hiểu được Căn Cơ, Gốc Gác của muôn loài, muôn
vật, và có thể đi đến một kết luận hết sức triết học và khoa học sau
đây: «Thiên, Địa, Nhân, Vật Nhất Tính, Đồng Thể.» (Tính Mệnh
Khuê Chỉ, Nguyên, tr. 6a)
Suy
ngược lại sẽ có:
Nếu
Nhất Thần hóa Chúng Thần, thì Chúng Thần sẽ qui Nhất Thần; Nhất khí hóa
Vạn Khí thì Vạn Khí cũng qui Nhất Khí.
Nếu
trong con người có Chúng Thần, thì cũng có Nguyên Thần, có Nhất Thần.
Nếu
trong con người có Vạn Khí, Ngũ Khí, Tam Khí, thì ắøt cũng có Chân
Nguyên Nhất Khí hay Nguyên Khí.
Vì
hiểu lẽ Một cho nên người đạo sĩ:
Chọn cái Tinh Hoa, bỏ cái Bác Tạp.
Chọn cái Giản dị, bỏ cái Tần Phiền.
Chọn
Chân Tâm mà bỏ Thất Tình, Lục dục, Tam Thi, Tứ Đại, Âm Dương đối đãi.
Vì hiểu lẽ Một cho nên người
đạo sĩ biết mình là Tiên Thiên Nhất Khí hóa thân, nghĩa là có đồng bản
tính với Thượng Thần trong trời đất.
Vì
biết lẽ Một cho nên hiểu rằng Chân Thần trong mình và Chân Thần trời đất
là Một. Mình đây chẳng qua là Hóa Thân của Chân Thần đó mà mình chẳng
hay.
Họa
sĩ Wyzewa đã viết từ năm 1893:
Cái mà ta gọi là Thực Tại chẳng qua chỉ là hình ảnh của Bản Thể thầm kín
nơi ta, phóng phát ra hư cảnh bên ngoài mà thôi.
[7]
Tính Mệnh Khuê Chỉ viết:
Vì
thế nói: Thánh Nhân tẩy rửa tâm hồn, trở về náu ẩn trong nơi thầm kín.
Trong đó vốn đã có Bản Thể uyên nguyên cùng với Thái Hư hỗn thành nhất
khối. Vì thế nói: Thánh Nhân đồng thể với Thái Hư.
[8]
Lão Giáo vì thế chủ trương
Thủ Trung Bão Nhất, giữ Trung ôm Nhất.
Khổng giáo vì thế chủ trương: Ngô Đạo Nhất dĩ quán chi,
Đạo ta
dùng chữ Nhất bao quát tất cả.
Tính Mệnh Khuê Chỉ có
chép: «Khi Hoàng Đế lên núi Nga Mi, gặp Thiên Chân Hoàng Nhân ở Ngọc
Đường và hỏi về cái đạo Chân Nhân. Hoàng Nhân đáp: Đó là cái đạo quí
trọng nhất của Đạo Gia. Kinh của Đạo này, Thượng đế giấu trong 5 thành
núi Côn Lôn (đầu não con người), cất trong hòm ngọc ( Trong sọ người),
viết vào thẻ vàng, phong bằng bùn tím (Nê Hoàn), đóng ấn bằng chữ Trung
(Trung Tâm đầu não con người).
Nhất đó ở Thái Uyên Bắc Cực (đầu), trước có Minh Đường (Trán), sau có
Ngọc Trẩm (ót), trên là Hoa Cái (Đỉnh Đầu), dưới là Giáng Cung...»
[9]
Với những lời lẽ mập mờ đó,
Ta thấy ngay rằng Hoàng Nhân đã muốn nói như sau:
Muốn tìm Trời, tìm Đạo, tìm Nhất, tìm Trung, phải tìm nơi Trung Điểm đầu
não con người.
Trước
đó vài dòng Tính Mệnh Khuê Chỉ đã khéo léo đề cập tới Nê Hoàn
Cung và trích dẫn Kinh Huỳnh Đình:
Nê
Hoàn Cửu Chân giai hữu phòng,
Phương
Viên Nhất Thốn xứ thử trung.
Đồng
phục tử y, phi la thường,
Đãn tư
nhất bộ thọ vô cùng.
Dịch:
Nê Hoàn Cửu Chân đều có phòng,
Vuông Tròn Một Tấc tại Não Trung.
Áo tía, quần là đều rỡ ràng,
Tâm tồn Cửu Chân, thọ vô cương.
(Huỳnh
Đình Kinh chương 7 và Tính Mệnh Khuê Chỉ q. Lợi tr. 9a).
Nhập Dược Kính
viết:
Nê Hoàn nhất khiếu đạt Thiên Môn,
Trực thượng Hư Hoàng Ngọc Đế Tôn.
Thử thị Chân Nhân lai vãng lộ,
Thời thời khóa hạc, khứ triều nguyên.
(Nhập
Dược Kính, tr. 10b)
Nê Hoàn một khiếu thấu cửa Trời,
Ngọc Hoàng Thượng Đế ấy tòa ngôi.
Thánh hiền lui tới, duy đường ấy,
Cưỡi hạc băng chừng thẳng tới nơi.
Viết
đến đây, tôi liên tưởng đến lời chú của Phật Giáo Tây Tạng: Um Mani
Padme Hum, ôi Ngọc Châu Viên Giác nằm tại Liên Hoa Tâm, mà Liên Hoa Tâm
theo lời bình giải của các đạo sư Tây Tạng, thì chính là Trung Tâm Đầu
Não con người.
Tôi
mở đầu đoạn này bằng Bản Thể Uyên Nguyên của vũ trụ và của con người, kế
đến bàn về hai chữ Trung và chữ Nhất, cuối cùng kết thúc bằng chữ Nhất
và đem chữ Nhất ấy vào Trung Tâm Đầu Não con người, vào Nê hoàn Cung,
nơi mà từ vô lượng kiếp Đức Thái Thượng đã dạy đạo cho chúng ta, đúng
như lời kinh Huỳnh Đình: Thị tích Thái Thượng cáo ngã giaû... (Huỳnh
đình Kinh chương 17), thiết tưởng cũng đã phát quang được gai góc và
để lộ ra con đường Đại Đạo...
VŨ TRỤ THÁM VI (TÌM HIỂU
HUYỀN CƠ VŨ TRỤ)
Người xưa chỉ dùng Thần (tuệ
giác = illumination, intuition), Trí (raisonnement), Giác quan để quan
sát, suy tư và trực giác về vũ trụ, để tìm cho ra những điều vi ẩn của
vũ trụ.
Lão
giáo cũng như các Đạo khác ở Đông Phương xác tín rằng có một Thượng Đế
Tuyệt Đối, một Bản Thể Duy Nhất, uyên nguyên, vô hình, vô ảnh, nhưng lại
linh động, biến hoá vô cùng, đã sinh xuất ra vũ trụ hiện tượng hữu hình,
hữu tướng này. Đó là Thuyết Thiên Địa Vạn Vật đồng nhất thể.
Bản
Thể vô sinh, vô diệt, vô thuỷ, vô chung này, đạo Lão đã hài danh bằng
nhiều danh hiệu, đại khái là:
a.
Khi chưa có Trời Đất, thì Đạo hay Bản Thể tuyệt đối còn ở trong thế tiềm
ẩn, chưa hiển dương, nên được gọi bằng những danh từ như: Hư Vô, Hư
Không, Hồng Mông, Hỗn Độn, Vô Cực, Vô Vi, hoặc được tượng trưng bằng con
số 1, hay bằng vòng tròn không có tâm điểm. Tất cả đều nói lên sự viên
dung, toàn mãn, hoàn hảo, đồng đẳng tuyệt đối, không tịch tuyệt đối, hư
tĩnh tuyệt đối.
b.
Khi bắt đầu hiển dương, thì gọi là Đạo, là Thái Cực, là Tổ Khiếu, là Cốc
Thần, là Huyền Quan Khiếu, hay Huyền Tẫn chi môn, là 5, là 15, và được
tượng trưng bằng vòng tròn có chấm ở giữa, hay bằng đồ hình Thái Cực mà
ta vẫn thường thấy.
c. Khi đã có Trời đất, thì
Bản Thể ấy tiềm ẩn dưới các lớp lang hiện tượng, và được gọi là Trung,
là Đạo, là Tổ Khiếu, là Cốc Thần v.v... hay được tượng trưng bằng vòng
Dịch với:
- Thái Cực ở giữa, tượng
trưng cho Bản Thể duy nhất.
- Các
hào quải bên ngoài tượng trưng cho vạn hữu, vạn tượng luân lưu biến hoá.
Ta vẽ lại, trình bày lại 3
quan điểm trên thành sơ đồ sau:
Tiên
Thiên (Chưa hiển dương):
Đạo, Nhất, Hỗn Độn, Hư Vô, Hồng Mông, Thường, Hằng, Căn Nguyên, Vô vi,
Tiên Thiên, Trường Sinh Bất tử.
Thuỷ
Chung. Tổ
Khiếu. Đạo, Thái Cực, Huyền Tẫn, Huyền Quan, Qui Căn Khiếu, Phục
Mệnh Quan.
Hậu
Thiên (Đã hiển dương): Vạn Hữu, Vạn Tượng, Dị Biệt, Tạp Thù, Biến
thiên, Ảo hoá, Lưu Mạt, Hũu Vi, Hậu Thiên, Sinh Diệt, Phù Sinh.
Nhờ
những đồ hình và những quan niệm khái quát trên, ta hiểu được một điều
rất trọng đại này là:
Vũ
Trụ hữu hình này sở dĩ có là do sự phóng phát, tán phân của một thực thể
duy nhất.
Thuyết
Phóng Phát của hiền, thánh muôn phương khác với Thuyết Tạo Dựng của các
Đạo Giáo Công Truyền Tây Phương (Công Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo) như
sau:
Thuyết Phóng Phát (Emanation)
1. Vũ Trụ Hữu Hình này là những phân
thể của một Toàn Thể.
2.
Vạn hữu đồng căn, dị dạng, nhất thể
vạn thù.
3. Thượng Đế tiềm ẩn trong lòng sâu
vạn hữu (Immanent)
4.
Chung cuộc là Hoà Hài, Hợp Nhất,
Siêu Thăng, Hoà Giải.
5.
Lịch sử vũ trụ chuyển hoá 2 chiều,
vãng lai, thuận nghịch, phản phục, thành một chu kỳ.
Thuyết Sáng Tạo (Creationism).
1.
Vũ trụ Hữu Hình này là do quyền
năng của Thượng Đế sáng tạo từ không.
2. Vạn hữu nhất nhất đều có bản thể
riêng biệt.
3. Thượng Đế siêu việt, tách rời khỏi
vạn hữu. (Transcendent).
4. Chung cuộc là Tan vỡ, kinh hoàng,
là Tận Thế.
5. Lịch sử vũ trụ và con người chuyển
biến một chiều, theo đường thẳng.
Dựa vào Thuyết Thiên Địa Vạn
Vật Đồng Nhất Thể của Lão Giáo, ta suy ra:
1. Vạn Hữu đồng căn, dị mạt. Tính Mệnh
Khuê Chỉ viết: Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể.
[10](Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Nguyên, tr. 6a).
Người
xưa cũng nói:
Thiên, Nhân nhất Lý.
Ngã Vật đồng nguyên
2.Vạn
vật hữu hình biến hoá có chu kỳ, theo 2 chiều tán tụ.
-Chiều
Tán:
Chiều
phân hoá, giáng bản, qui mạt (Đi từ gốc tới ngọn).
Chiều giáng (từ Căn Nguyên
Thái Cực xuống vạn vật, quần sinh, hào quái), chiều đi ra (từ nội tâm ra
ngoại cảnh), chiều thuận (thuận theo dòng đời, thuận theo dục vọng),
chiều ly tâm (từ hợp nhất ra phát tán chi ly.
-
Chiều Tụ:
Chiều
hoà hợp, qui nguyên, phản bản, thăng, lai, nghịch, hướng tâm.
Hai
chiều biến hoá thuận nghịch nói trên là 2 chiều biến hoá từ vô tướng ra
hữu tướng, rồi lại từ hữu tướng trở về vô tướng.
Đạo đức Kinh và Kinh
Dịch đều đề cao chiều Nghịch hay chiều Phục.
Dịch Kinh viết: Số
vãng giả thuận, tri lai giả nghịch. Thị cố Dịch nghịch số dã. (Dịch
kinh, Thuyết quái, chương 3, tiết 2)
Dịch:
Tìm ra quá vãng là thường,
Tương lai tiên đoán tỏ ràng mới cao.
Dịch kinh có số ngược chiều,
Ngược chiều thời thế khinh phiêu về
nguồn.
Đạo Đức Kinh nơi chương
16 viết: «Phù vật vân vân, các qui kỳ căn, qui căn viết tĩnh,
phục mệnh viết trường.»
Dịch:
Muôn loài sinh hoá đa đoan,
Rồi ta cũng phải lai hoàn bản nguyên,
Hoàn bản nguyên, an nhiên phục mệnh,
Phục mệnh rồi, trường vĩnh vô cùng.
Chương 29 viết:
«Thường đức bất thắc, phục qui ư vô cực.»
Chương 14 viết: «Phục
qui ư vô cực.»
3.
Vạn hữu vì là sự hiển dương của Đạo, của Bản Thể tuyệt đối, nên rất có
giá trị.
4.
Vạn hữu vì là phân thể của một đại thể, nên không có vật nào, người nào
toàn mãn, mà phải dựa vào nhau, cái nọ bổ sung lẫn cái kia.
5. Mọi sự thay đổi trong vũ
trụ đều có ảnh hưởng chẳng ít, thì nhiều, đến chung quanh.
Liệt
tử đã viết trong Xung Hư Chân Kinh, chương 3, đoạn C: «Nhất
thể chi doanh hư, tiêu tức giai thông ư Thiên Địa, ứng ư vạn loại.»
一
體
之
盈
虛
消
息
皆
通
於
天
地,
應
於
萬
類.
Dịch: Mỗi một sự thay đổi, đầy
vơi, tăng giảm nơi sự vật, đều thông với trời đất, ứng với muôn vật.
Người
xưa còn nói:
Lạc hồng bất thị vô tình vật,
Hoá tác xuân nê, cánh bộ hoa
Dịch:
Hồng rơi chẳng phải vô tình,
Hoá thành bùn lại nuôi cành hoa xuân.
Nếu
ta đồng ý dùng Tâm điểm và vòng tròn để tượng trưng cho Bản Thể và Hiện
Tượng, ta sẽ thấy vũ trụ này gồm 2 phần:
a.
Một Thế giới của Bản Thể, của Thực Thể, lý tưởng, siêu việt, thế giới
của Chân, Thiện, Mỹ, vĩnh cửu, trường tồn (Tâm Điểm). Đó là thế giới
khinh thanh, bao la và đồng đẳng, vô phân biệt. Đạo Lão gọi đó là Đạo,
là Tiên Thiên, là Vô Vi, là Hư, là Diệu.
b. Một Thế giới của Hiện
Tượng, của giác quan, của Biến Thiên, của những gì phù du, biến ảo,
những gì trọng trọc, những gì chất chưởng, những gì hữu hạn, những gì bị
chi phối bởi sự duyên. Đạo Lão gọi đó là Hậu Thiên, là Hữu Vi, là Khiếu
(Vòng tròn bên ngoài).
Người học Đạo, hiểu Đạo phải biết nhìn thấy cả hai mặt Biến, Hằng, Hữu
Hạn và Vô Hạn, của một Bản Thể, một Thực Thể duy nhất. Có vậy, mới gọi
được là Diệu, Khiếu Tề Quan.
Người học Đạo cũng còn phải biết nhìn thấy Đạo Thể vô biên tế xuyên qua
các lớp lang hiện tượng, các bức màn hình, thanh, niệm, dục.
Thế
mới hay: «Đắc Nhất vạn sự tất»
得
一
萬
事
畢.
(Trang Tử, Nam Hoa Kinh, ch. Thiên Địa: Thông Nhất, nhi vạn sự
tất.)
Trên
đây đưa ra 5 vấn đề rất quan trọng:
-
Thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể.
-
Thuyết Vạn Vật tương ứng, tương thừa, tương giao, tương tiếp.
-
Thuyết Vạn Vật biến dịch, tuần hoàn.
-
Thuyết Phóng Phát, Tán Phân (Emanation and division) thành vũ Trụ.
-
Thuyết Thượng Đế ẩn tàng trong lòng sâu vạn hữu (God Immanent). Có như
vậy,Thượng Đế mới ở khắp mọi nơi và thông biết mọi sự.
NHÂN SINH PHÁT DIỆU
(VI DIỆU CỦA CUỘC ĐỜI)
Từ trước đến nay, người ta thường học con
người dưới những khía cạnh phiến diện, đa đoan, nên càng học càng lìa xa
Chân, Diện, Mục con người, càng sao lãng cái Tinh Hoa Chí Bảo nơi con
người.
Cho nên, muốn học về con người cho thấu
đáo, cho có cơ sở triết học, khoa học vững chắc, ta phải dựa vào:
- Thuyết Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể.
- Thuyết Nhất Thể tán vạn thù, vạn thù
qui nhất thể.
- Thuyết Đạo nội tại, Thái Cực nội tại,
Thượng đế nội tại.
[11]
1. Nơi con người có 2 phần Chân, Giả,
Biến, Hằng.
Trước hết, nếu ta chấp nhận thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể, mà
Nhất Thể đó ta đã biết là Đạo, là Thái Cực, là Thượng Đế, thì dĩ nhiên
trong ta phải có phần Thiên, có Thái Cực, có Thượng Đế.
Như vậy, nhận định sơ bộ về con người đã
cho thấy rằng: Trong ta có 2 phần:
- Một phần vĩnh cửu, bất biến, bất sinh,
bất diệt. Đó là phần Thiên.
- Một phần Biến Thiên, ảo hoá. Đó là
phần Nhân.
a. Phần Thiên, phần vĩnh cửu, bất
biến: Đạo Lão gọi phần Vĩnh Cửu, Bất Biến đó là: Đạo, Cốc Thần, Thái
Cực, Thiên, Đạo Tâm, Thiên Tâm, Thiên Địa chi tâm, Chủ Nhân Ông, Đơn
v.v...
Châm thạch tử viết: Thiên Tâm giả, Bản
Thể dã, Chủ Nhân Ông dã. 天 心 者 本 體 也, 主
人翁 也.[12]
Vì biết mình có Đạo bất biến, vĩnh cửu ẩn
tàng bên trong, nên Trang Tử mới nói:
«Thiên Địa dữ ngã tịnh sinh, 天 地 與 我 並 生
Nhi vạn vật dữ ngã vi nhất.» 而 萬 物 與 我 為 一[13]
Dịch:
Ta và Trời đất cùng sinh,
Ta và muôn vật sự tình chẳng hai.
Từ Viên Tiên Sư viết:
Đương thời vị hữu tinh hà đẩu,
當
時
未
有
星
河
斗
Tiên hữu Ngô, đương hậu hữu thiên. 先 有 吾 當 後 有 天
[14]
Dịch:
Trước khi Thiên Hán, quần tinh có,
Trước
có ta, sau mới có Trời.
Và:
Ngã thể bản đồng Thiên địa lão,
我
體
本
同
天
地
老
Tu Di sơn đảo, tính do tồn. 須 彌 山 倒 性 猶 存[15]
Dịch:
Tính ta vốn thọ cùng trời đất,
Tu di sơn đảo, tính do tồn.
b. Phần Nhân, phần biến thiên, ảo
hoá nơi con người: gồm Nhục thân (xác) với lục căn (Nhãn, Nhĩ, Tị,
Thiệt, Thân, Ý), Nhân Tâm (Hồn), với Thất Tình (hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc,
dục).
Chia con người thành 2 phần biến, hằng như vậy, chẳng những hiểu được
tinh hoa Đạo Lão, mà còn hiểu được các Đạo Giáo Á Đông, các Mật giáo Âu
Châu.
Âm Phù Kinh viết:
Thiên tính nhân dã,
天
性
人
也
Nhân Tâm cơ dã.
人
心
機
也
Lập Thiên chi đạo
立
天
之
道
Dĩ định nhân dã
以
定
人
也
Dịch:
Thiên Tính là người,
Nhân Tâm là máy.
Lập ra Thiên Đạo,
Để định con người
Sách Tiên Học Tập Cẩm của Cung
Tùng Tiên, có đoạn như sau:
«Cái Thân ảo hoá là Nhục Thân (Xác).
Cái Tâm ảo hoá là Nhân Tâm.
Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý đều do ảo
thân mà ra.
Mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, muốn
đều do Nhân Tâm mà ra.
Lục căn (Ảo Thân) mỗi mỗi đều đủ để làm
hại sinh mệnh.
Thất tình, vọng niệm (Nhân Tâm) mỗi mỗi
đều có thể đưa đến cõi chết.
Còn như cái Thân chân chính đó là Pháp Thân.
Cái Tâm Chân Chính đó là Thiên Tâm.
Ngũ tính nhân duyên (tức là Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín), nơi Pháp Thân đều là những mầm mống giúp ta thành
Đạo.
Ngũ Ban chí Bảo (tức là Nguyên Tinh,
Nguyên Khí, Nguyên Thần, Nguyên Tánh, Nguyên Tình nơi Thiên Tâm), đều là
vật liệu giúp ta luyện đơn.
Đem dùng những chất liệu ấy mà tu
luyện, sẽ khởi tử, hoàn sinh, cải lão, hoàn đồng.
Vì
con người không biết mình có Pháp Thân và Thiên Tâm, nên Pháp Thân mai
một, Ảo Thân dụng sự, Thiên Tâm thoái vị, Nhân Tâm đương quyền.
Thiên Tâm bất cấu, bất tịnh, chí hư, chí
linh, cảm nhi toại thông, đó là nơi nương tựa của Tính.»
[16]
Có người hỏi Doãn Chân Nhân về Lý Thái
Cực. Chân Nhân đáp: «Thái Cực là Thiên Tâm nơi ta. Thích
thị gọi là Viên Giác, Đạo gọi là Kim Đơn, Nho gọi là Thái Cực.
Gọi là Vô Cực rồi Thái Cực, có nghĩa là
Siêu Việt tuyệt đối. Con người khi chưa bẩm sinh, thoạt kỳ thuỷ có điểm
linh quang ấy, để làm chủ hình hài sau này, đó chính là Thái Cực.
Trước khi cha mẹ chưa sinh ra ta, cũng một
điểm Thái Cực đó, vì chưa thuộc về hình hài, nên gọi là Vô Cực.
Muốn biết Bản Lai Chân Diện Mục,
Một vầng sáng láng lúc chưa sinh...»
[17]
Phàm nhân thì sống phù phiếm, lênh
đênh, chìm nổi, trên cái thế giới hiện tượng ấy, chỉ biết những gì là
sắc tướng, chỉ thích những gì là phù hoa, chỉ chuộng những gì là phù
phiếm bên ngoài, lạc lõng trong muôn sai ngàn biệt, bị ngoại cảnh chi
phối, thất tình lục dục đẩy đưa; bị từ ngữ, tư tưởng ám nhãn, manh tâm;
thu hẹp con người vô hạn của mình vào trong gông cùm của không gian,
thời gian, hình hài, sắc tướng hữu hạn.
Thánh nhân
trái lại, xuyên qua
được bức màn hiện tượng ấy, vào tới được thế giới Chân Tâm vô biên, vĩnh
cửu, thế giới của vĩnh cửu, trường tồn; xuyên qua được tâm thức để vào
tới Hư Vô, Chân Thể, đồng đẳng với Thái Hư.
Chính vì vậy mà sách Tham Đồng Khế
có câu:
Thánh Nhân tiềm thâm uyên
聖
人
潛
深
淵
Phù du thủ qui trung 浮 游 守 規 中.
[18]
Dịch:
Chân Nhân sống rất thâm trầm,
Nhởn nhơ, khinh khoát, ôm cầm khuôn
thiêng.
Tính Mệnh Khuê Chỉ có câu:
Ly chủng chủng biên,
離
種
種
邊
Doãn chấp quyết Trung. 允 執 厥 中
[19]
Dịch:
Lìa xa hết mọi vòng ngoài,
Trong Tâm giữ vững, chẳng rời tấc gang.
Để hiểu rõ con người, ta lập đồ bản sau:
Thái Cực
|
Thần |
Tiên Thiên
nhất khí |
Chân, Vô vi, Tính, Vô Dục,
Tuyệt đối, Bất sinh, Bất tử. |
Âm Dương |
Hồn/ Phách |
Khí (Chân Khí)
Phách (tinh) |
Vọng,
Hữu Vi
Hữu Tướng Mệnh
Sinh tử`
Luân Hồi. |
Tứ Tượng
Ngũ Hành |
Lục Phủ (Xác)
Ngũ tạng (Xác) |
Ngũ Vị
Tinh Hoa ngũ
cốc |
Vọng, Hữu Vi, Sinh, Tử, Luân
Hồi. |
Nhìn vào đồ bản trên, ta thấy con người có
3 phần. Thần, Hồn, Xác. Thần thời Bất biến. Đó là phần Thiên. Đó là
Thái Cực trong ta. Còn Hồn, Xác là phần biến thiên, luân hồi, sinh tử.
Chúng ta hay Lão Tử, hay Trang Tử, Liệt Tử
hay chư Tiên trong Đạo Lão, cũng đều có một Thái Cực, một Thần, một Đạo
như nhau nơi căn cốt. Mọi người khác nhau là từ ở các tầng lớp biến
thiên nơi hồn phách, trí não, lục phủ, ngũ tạng bên ngoài.
Chúng ta khác với Lão, Trang, chẳng những vì tâm hồn, thể phách khác
nhau, mà còn khác hơn nữa là vì Lão, Trang thời biết trở về khế hợp với
Đạo, với Thái Cực nơi tâm, biết:
Phục qui ư Vô Cực.
(ĐĐK, tr.
28)
Phối Thiên (ĐĐK, tr. 68)
Hưu hồ Thiên Quân
(yên nghỉ trong
Trời) (Nam Hoa Kinh, ch. 2, C).
Đắc kỳ hoàn trung
(vào được trung
điểm vũ trụ) (Nam Hoa Kinh, ch. 2, C).
Còn chúng ta thì cứ luẩn quẩn nơi các vòng
sinh, tử, hiện tượng, ái, ố bên ngoài, vì thế không thoát được sự hấp
dẫn của vạn hữu (Attraction Universelle, Attraction électro-magnétique),
và vì thế không thể băng mình tới cõi siêu việt được...
Đã biết trong ta có Đạo, làm sao tìm cho
ra, làm sao mà kiểm chứng?
1. Người xưa cho rằng: Muốn tìm cho ra
Đạo, ra Thái Cực trong con người, phải trở về Nguyên Thuỷ, Gốc Gác, vì
thế nên phải tìm Đạo khi con người thoạt sinh thân, thụ khí.
Tử
Dương Ông viết:
«Khuyến quân cùng thủ sinh thân xứ.»
勸
君
窮
守
生
身
處.
Lại viết:
Cùng thủ sinh thân thụ khí sơ,
窮
守
生
身
受
氣
初
Hạo quái thiên cơ câu tiết tận
皓 怪 天 機 俱 洩 盡
[20]
Trương Cảnh Hoà có thơ:
Hỗn nguyên nhất khí thị Tiên Thiên:
混
元
一
氣
是
先
天
Nội diện hư vô, lý tự nhiên.
內
面
虛
無
理
自
然
Nhược hướng vị sinh tiền kiến đắc,
若
向
未
生
前
見
得
Minh tri tất thị Đại La Tiên.
明 知 必 是 太 羅 仙
[21]
Dịch:
Hỗn Nguyên nhất khí ấy Tiên Thiên,
Tịnh tĩnh, hư vô, khớp tự nhiên.
Từ trước sinh ra, tìm mới thấy,
Hiểu thông nhẽ ấy, chính Chân Tiên.
2. Người xưa chỉ thêm rằng khi ta đã sinh
ra, thì Đạo ở nơi sinh xuất ra mọi niệm lự. Người xưa gọi thế là
«Niệm
Đầu Động Xứ»
Trần Nê Hoàn nói: «Niệm đầu động xứ vi
Huyền Tẫn».
[22]
3. Dẫu sao, thì Trời, thì Đạo cũng ở trong
ta. Trang Tử viết: «Thiên tại nội, Nhân tại ngoại.»
[23]
Sách Thượng Phẩm Đơn Pháp Tiết Yếu
cũng quyết rằng Đơn, hay Đạo, hay Huyền Quan Khiếu, hay Tổ Khiếu chắc
chắn là ở trong ta:
Tại Nhân thân trung
在
人
身
中
Mạc hướng ngoại cầu.
莫
向
外
求
và viện dẫn Kim Đơn Tứ Bách Tự cũa
Trương Tử Dương:
Thử khiếu phi phàm khiếu,
此
竅
非
凡
竅
Càn Khôn cộng hiệp thành
乾
坤
共
合 成
[24]
4. Tống tiên sinh trong bài Giải Mê Ca
cho biết:
«Đạo đã ở sẵn trong Nê Hoàn nơi óc não con
người (Nê Hoàn, Niết Bàn, Tâm):
Đạo bất viễn, tại Nê Hoàn. 道 不 遠, 在 泥 丸
[25]
5. Để giản dị hoá, và phổ thông hoá, cách thấy Đạo, thấy Trời, tôi cho
rằng: Lương Tâm là Tiếng Trời. Lương Tâm là Đạo, là Trời.
Nghe được tiếng Lương Tâm là nghe được
tiếng của Đạo, của Trời, là chứng minh được rằng trong Thân có Đạo, có
Trời.
Lương Tâm thời hằng cửu, bất biến, Đông
Tây, kim cổ ai cũng như ai, mà chỉ có Thái Cực, có Trời trong ta mới
hằng cửu, bất biến, nên chắc chắn Lương Tâm là Thiên Tâm.
Còn Nhân Tâm thời biến thiên, nên chắc
chắn đó là Vọng Tâm, là Tư Tâm.
Đạo Học Từ Điển bình về Lương Tâm
như sau:
«Đó là Thiên Tâm chi Tâm, bổn lai chi
linh tính. Ai ai cũng đều có đủ, lương tâm nào cũng hoàn mỹ, viên thành.
Nho nói: Không nghĩ sái quấy, tức là nhận được tiêu chuẩn hoàn thiện của
Lương Tâm. Thích nói: Ly nhất thiết vọng tâm tức kiến Như Lai.
Như Lai tức Lương Tâm vậy.Đạo nói: Trừ nhất thiết phiền não, sẽ được tâm
thanh tịnh.»
Nói đến Lương Tâm, không thể nào không
nhắc tới một danh nho thời Minh là Vương Dương Minh (1472-1528) với Học
Thuyết về Lương Tri của Ông. Trong phần phụ lục, sẽ sao lại những bài
thơ bất hủ của Ông về Lương Tri, Lương Tâm.
6. Hai chiều Thuận, Nghịch nơi con người.
Nếu ở trong vũ trụ có 2 chiều tiến thoái,
thuận nghịch, vãng lai, thì ở nơi con người cũng có 2 chiều tiến thoái
thuận, nghịch đó.
Tưởng cũng nên nhắc lại:
Chiều Thuận là chiều từ Bản Thể sinh xuất
ra hiện tượng.
Chiều Nghịch là chiều từ Hiện Tượng, vạn
hữu quay trở về Bản Thể.
Theo Tính Mệnh Khuê Chỉ thì ở nơi
con người, chiều Thuận được phác hoạ như sau:
TÍNH - TÂM - Ý - TÌNH - VỌNG (Mê Vọng).
Và chiều Nghịch:
VỌNG - TÌNH - Ý - TÂM - TÍNH. (Bản Thể).
[26]
Nhiều sách khác cho rằng: Chiều Thuận là
chiều Thần sinh Khí, Khí sinh Tinh.
Chiều Nghịch là chiều Tinh hoá khí, Khí
hoá Thần, Thần hoàn Hư, phục qui Vô Cực.
Cũng nên ghi nhận rằng: Trong chiều Thuận
thời Thần Tán, Khí Sơ
神
散
氣
疏.
Trong chiều Nghịch thì Thần
Ngưng. Khí Tụ 神 凝 氣 聚
[27]
Chiều Thuận sinh nhân, sinh vật.
Chiều Nghịch sinh Tiên, sinh Thần, Thánh,
Phật.
Tiên học từ điển định nghĩa:
Thuận là từ Vô nhập Hữu, Nghịch là từ Hữu
nhập Vô, và đưa ra những câu:
Thuận sinh nhân, Nghịch sinh đơn
(Trương Tam Phong).
Thuận vi Phàm, Nghịch vi Tiên, chỉ tại
trung gian điên đảo điên. (Vô Căn Thụ).
Thuận tắc sinh Phàm, Nghịch tắc sinh
thánh.
Thị tắc sinh Nhân, sinh Đơn, lý vô nhị
trí dã.
Nói cho rõ hơn, chiều Thuận là chiều
hướng ngoại, đi ra ngoại cảnh. Chiều Nghịch là chiều hướng nội, đi vào
nội tâm.
- Đi ra ngoại cảnh là đi vào Đời, bất kể
ngoại cảnh ấy là đền đài, miếu mạo, Thần, Phật, chi chi đi nữa.
- Đi vào nội tâm, mới là vào Đạo, mới là
đi Đạo.
Có vậy mới hiểu được lời đức Thái Thượng:
«Ta từ vô lượng kiếp quan tâm đắc Đạo, và tới được Hư Vô.»
[28]
Tính Mệnh Khuê Chỉ viết: «Muốn thoát luân hồi, phải thể hợp với
Chí Đạo, muốn thể hợp với Chí Đạo, tất phải quán chiếu Bản Tâm. Muốn
quán chiếu Bản Tâm, tất phải dắm mắt hồi quang,nhìn vào Hư Không, đem
ánh sáng Tuệ Quang chiếu diệu vào nơi mà Thất Tình chưa nhen nhúm, nơi
mà Bản Thể chưa bị Bát Thức làm ô nhiễm, ngoài thì tuyệt hết chư duyên,
trong thì tuyệt hết chư vọng. Hợp nhãn quang, ngưng nhĩ vận, điều tỵ
tức, khoá thiệt khí. Tứ chi bất động để cho ngũ thức của tai, mắt, mũi,
lưỡi, thân quay về gốc gác, như vậy tinh, thần, hồn, phách, ý sẽ yên vị,
suốt cả 12 giờ trong ngày, mắt luôn nội quan, quán chiếu, nhìn vào Khiếu
ấy; tai trở ngược lại lắng nghe Khiếu ấy; đầu lưỡi thường phong bế Khiếu
ấy. Vận dụng, thi vi, niệm niệm không rời Khiếu ấy.»
[29]
7. Tìm Đạo nơi Nhất niệm bất sinh.
Như vậy, đã biết Đạo ở nơi đâu, ta sẽ tìm
được Đạo.
Người xưa biết rằng Đạo ở «niệm đầu động
xứ», nên đã nói:
Nhất niệm bất sinh, toàn thể hiện,
一
念
不
生
全
體
現
Lục căn tài động, bị vân già.
六
根
栽
動
被
雲 遮
[30]
Dịch:
Một niệm chưa sinh toàn thể hiện,
Lục
căn vừa động bị mây che.
Tùng Giang, Vương Cảnh Dương Duy Nhất nói:
Yếu tri Tính Mệnh an thân xứ,
要
知
性
命
安
身
處
Ý vị manh thời hợp Thái Hoà.
意
未
萌
時
合太 和
[31]
Dịch:
Biết nơi Tính Mệnh sinh thân xứ,
Lúc ý chưa sinh, hợp Thái Hoà.
Lại nói:
Dục niệm vị trừ, không học Đạo,
Tham tâm bất đoạn, mạc cầu Tiên.
[32]
Dịch:
Dục niệm chưa trừ, không học Đạo (học Đạo
uổng công),
Tham tâm chưa tuyệt, uổng cầu Tiên.
Tiêu Dao Đại Sư viết:
«Nếu mà một niệm không sinh tức thoát
sinh tử. Tới được một nơi một niệm không sinh, là thấy được Bản Lai Diện
Mục.»
[33]
Hoài Nam Tử viết: «Thanh tĩnh vô vi, nhập
ư Thiên môn».
[34]
Chúng ta kết luận đoạn này bằng 2 bài thơ tứ tuyệt:
Học Đạo, tu cùng Thiên Địa Tâm,
學
道
須
窮
天
地 心
Hãn văn thế thượng, hữu tri âm.
罕
聞
世
上
有
知
音
Đô duyên thử lý nan khinh tiết,
都
緣
此
理
難
輕
洩
Tận hướng bàng hề, khúc kính tầm.
盡
向
旁
兮
曲
徑 尋
[35]
Dịch:
Học Đạo phải rành Thiên Địa Tâm,
Ít nghe trần thế có tri âm,
Toàn vì nhẽ ấy, không khinh tiết,
Đường tà, nẻo vạy, mới đâm sầm.
Duy Giác Thiền Sư viết:
Khuyến quân học Đạo, mạc tham cầu,
勸
君
學
道
莫
貪
求
Vạn sự vô tâm, Đạo hợp đầu,
萬
事
無
心
道
合
頭
Vô tâm thuỷ thể Vô Tâm Đạo,
無
心
始
體
無
心
道
Thể đắc Vô Tâm Đạo dã hưu.
體
得
無
心
道
也 休
[36]
Dịch:
Khuyên ai học Đạo chớ tham cầu,
Vạn sự vô tâm, hiệp Đạo mầu.
Vô Tâm khế hợp Vô Tâm Đạo,
Khế hợp Vô Tâm, Đạo mới cao.
Chỗ cao siêu nhất của Đạo Lão là dạy con
người Phối Thiên. Lão Tử trong chương 68 Đạo Đức Kinh đã viết:
Phối Thiên là cực điểm của người xưa.
Các đạo sĩ lớn xưa nay cũng coi mình là
Vô Cực, là Thái Cực, là Trời.
Đạo học cầu chân, chương X, viết:
Hướng tiền, thần tụ, đồng Vô Cực,
Kim tán, trần ai mãn thế đồ.
Dục qui Chính Vị Hoàng Trung Lý,
Nê hoàn vạn vựng kíp hồi qui.
Dịch:
Khi xưa Thần Tụ, đồng Vô Cực,
Nay tán:Trần ai mãn thế đồ.
Muốn về Nguyên Vị Hoàng Trung Lý,
Nê Hoàn vạn vựng kíp hồi qui.
Lão giáo chủ trương rằng khi ta chưa sinh
ra, thì là Trời, là Thuần Kiền. Nhưng khi ta đã sinh ra, thì chúng ta
biến thành Ly. Mà quẻ Ly là quẻ Kiền bị thay ruột bằng một hào Âm. (Ngã
sinh chi tiền, Thiên vi chủ, Ngã sinh chi hậu, Tâm vi chủ). Nên tất
cả công trình tu luyện là phải biết dùng Hào Dương của quẻ Khảm để biếân
Ly, thành Kiền. Đó là Khầu quyết Dĩ Khảm Điền Ly, biến Ly thành Kiền.
Nam Hoa Kinh viết:
Thiên tại
nội, Nhân tại ngoại. (Nam Hoa Kinh, chương XVII, Thu Thuỷ,
cuối đoạn A) (Trời ở trong, người ở ngoài)..
Vì trong ta có Trời, nên tu luyện cốt là
bỏ được cái Lốt Người, mà giữ nguyên được cái Cốt Trời.
Đạo Lão gọi thế là Tâm Tử Thần Hoạt,
Tâm con người có chết đi, thì Thần bên trong mới sống động.
Trang Tử gọi thế là Dữ Thần vi Nhất.
Nên Một với Thần (Nam Hoa Kinh, Khắc Ý, cuối phần B).
Các vị Đạo Sĩ xưa đi theo hai con đường:
1. Một là Đạo Học của Lão Tử,
Liệt Tử, Trang Tử v.v.. v với chủ trương Thanh Tĩnh, Vô Vi, Thủ Trung
Bão Nhất. Đạo Đức Kinh chương LXII viết:
Đạo là bí quyết muôn loài,
Là châu, là báu của người hiền lương.
Đạo còn là chốn dựa nương,
Cho người bạc đức có đường dung thân.
Lời hay, ý đẹp gian trần,
Đều do nguồn đạo tinh thuần phát ra.
Mấy đời những kẻ gian tà,
Mong nhờ lượng cả khỏi ra thân tàn.
Cho nên đã tiếng vua quan,
Phải đâu rỡn ngọc, đùa vàng trêu ngươi.
Phải đâu tứ mã rong chơi,
Vua quan cốt để Tiến Trời vào thân.
Người xưa chuộng Đạo muôn phần,
Vì khi Đắc Đạo luỵ trần tiêu tan,
Đạo là vật báu thế gian,
2. Hai là
Tiên Học, đặt cho
mình mục tiêu phản lão, hoàn đồng, trường sinh bất lão.
Nguỵ bá Dương (thế kỷ 2) tác giả bộ Tham
Đồng Khế, là người đã xây nền tảng Tiên Học. Nhưng Tiên Học hay Nội Đơn
(Esoterical Alchemy) hưng thịnh từ thời nhà Hán.
Đó là chủ trương, từ thời nhà Hán, của Hán
Chung Ly, của Lữ Đồng Tân (798-) cho tới các vị tổ Tiên Học sau này như
Lưu Thao, Trương Bá Đoan (984-1082), Tiết Đạo Quang, Trần Nam, Bạch Ngọc
Thiềm (Nam Tông), Vương Trùng Dương (1112-1170) với bảy đệ tử là
Khưu Xử Cơ (1148-1227), Lưu Xử Huyền, Đàm Xử Đoan (1123-1185), Mã Ngọc
(1123-1183), Hách Đại Thông (1140-1212), Vương Xử Nhất (1142-1217), và
Tôn Bất Nhị (1119-1182); (Bắc
Tông); Lục Tiềm Hư (1520-1606) (Đông
Phái); Lý Hàm Hư (đời Thanh) (Tây
Phái); Lý Đạo Thuần (đời
Nguyên) (Trung
Phái) với những hậu duệ trứ danh như Doãn Chân
Nhân sư đệ, Huỳnh Nguyên Cát, Lưu Nhất Minh v.v...
Phái
Tiên Học đóng góp rất nhiều cho tư tưởng nhân loại:
* Chẳng hạn họ đã tìm ra được rằng:
Nê
Hoàn Cung trong trung tâm đầu não con người chính là Bản Thể con
người, chính là Căn Nguyên và Cùng Đích con người. Họ gọi đó là Thiên
Đường, là Thiên Tâm, là Bồng Lai v.v... (xem Chú Thích 17 của chương
này) )
* Họ chủ trương
Tính Mệnh Song Tu. Mà Tính là Thái Cực là Tuyệt đối. Mệnh là Âm Dương, là Tương Đối. Chân
Mạch Tử cho rằng: Thần là Tính, Tức (Khí, Hơi) là Mệnh (Tiên Học,
tr. 35). Ngộ Chân Trực Chỉ viết: Tính là Pháp Thân thượng sự,
Mệnh là Ảo Thân thượng sự. Tính là Vô Vi chi đạo, Mệnh là Hữu Vi chi đạo
(Ngộ Chân trục chỉ, tr. 1).
* Họ dạy con người phải biết thở qua 2
Mạch Nhâm Đốc. Như vậy con người có 2 cách thở. Một là Thở bằng Mũi mà
người xưa gọi là Phàm
Tức, và Thở qua 2 Mạch Nhâm Đốc mà người
xưa gọi là Chân
Tức. Khi biết thở bằng Chân Tức, thì thở bằng mũi
sẽ đình. Huỳnh Nguyên Kiết gọi thế là Phàm Tức đình nhi Chân Tức
hiện.
Tôi đã bỏ ra nhiều thì giờ
để luyện tập
lối thở qua hai Mạch Nhâm Đốc, và kiểm chứng được rằng người xưa nói
thật không ngoa. Có điều là lối luyện tập trên rất là nguy hiểm, và rất
khó luyện, vì không có thày truyền. Cho nên từ khi sang Mỹ tôi đã bỏ
không còn luyện tập như xưa nữa, vì sợ sẽ Thọ Cùng
Thiên Địa nhất ngu phu (là một kẻ ngu phu sống lâu cùng trời đất).
* Họ
biết rằng 2 mạch Nhâm Đốc là một vòng Từ Tuyến đứt quãng, nên lúc thở
qua Nhâm Đốc, phải biết Khoá Lưỡi (Để) và Khép Chặt Hậu Môn (Toát).
Tiên
gia có khẩu quyết: Hậu Thăng tiền Giáng Định Nhất Chu
(Trước
xuống sau lên, định một vòng). Mạch Đốc là
Thăng là
Tiến
Dương
Hoả, Mạch Nhâm là
Giáng, là
Thoái Âm Phù.
*Thiết
tưởng nên nói thêm về 2 Mạch Nhâm Đốc và Nê Hoàn Cung trong con người.
Ở ngoài vũ trụ thì Vòng Hoàng Đạo là vòng
Đại Chu Thiên. Quần tinh đều xoay quanh vòng Hoàng Đạo này. Tâm Điểm bất
biến của vũ trụ là sao Bắc Thần hay nói đúng hơn là khoảng không cách
sao Bắc Thần 1 độ. Nhà Thiên Văn Tổ Hằng Chi (430-501) đã khám phá ra
chuyện này.
Còn trong con người thì 2 Mạch Nhâm Đốc là
Vòng Tiểu Chu Thiên, còn Nê Hoàn
Cung hay Tổ
Khiếu là
Trung Cung
Thái Cực trên đầu.
Huyệt Vĩ Lư là quẻ
Phục,
Huyệt
Bá Hội là quẻ
Kiền. Huyệt
Thừa Tương, chỗ
lõm dưới môi dưới là quẻ Cấu, Huyệt Hội Âm là quẻ
Khôn. Thần
dẫn Khí qua tủy sống lên Nê Hoàn
(Thần Tức tương y),
rồi lại từ Nê Hoàn chuyển qua Thừa Tương xuống Hội Âm. Cứ như vậy hoài.
Khi Thần khí lên tới Nê Hoàn, thì con người có thể ngưng thở (Định
Tức). Đó là đi vào Đại Định (samadhi). Đại Định tức là Thai tức
(respiration embryonnaire). Xưa có những người nhập định được cả giờ hay
nhiều giờ; người xưa tính giờ bằng thắp tàn mấy nén nhang. (Xem Thái
Thanh Trung Hoàng Chân Kinh, tr. 7a, Pháp Quyết Minh Chỉ, tr.
10b, quyển 4. Tiên Thiên Chính Lý Trục Luận, tr. 33a, Đạo
Nguyên Tinh Vi Ca quyển thượng,tr. 15a, Sao Kiểu Động Chương,
quyển Hạ, tr. 8a, Pháp Quyết Minh Chỉ, q. 5, tr. 17a, q. 8, tr.
15a, q. 9, tr. 6a, Tiên học diệu tuyển tr. 345 v.v...).
Tuy nhiên nhiều đạo gia thường lấy Hạ Đơn
Điền (huyệt Khí Hải phía dưới Rốn) làm nơi thu thần, định khí. (Xin đọc
Tính Mệnh Khuê Chỉ). Tôi không bàn thêm.
Như vậy Đạo Lão đã tìm thấy Trời, thấy
Đạo, thấy Thái Cực trong Tâm, và tìm ra cách phối Thiên, ngay
trong con người. Tôi không muốn đi sâu thêm vào vấn đề phức tạp này.
Cách hô hấp đặc biệt của Đạo Lão trên đây
đã trở thành môn Khí Công, hay Nội Công của Trung Hoa (Xin đọc bộ Phương
Xuân Dương, Trung Quốc Khí Công Đại Thành Tập, Cát Lâm Khoa Học
Kỹ Thuật xuất bản xã).
*Tiên Gia còn đề cao
Mạch Âm Kiều.
Các sách Tiên Học còn gọi nó là Qui Căn Khiếu, Phục Mệnh Quan, Sinh Tử
Lộ hay Sinh Tử Khiếu, Hư Nguy Huyệt, Tẫn Môn, Tử Lộ v.v...
Âm Kiều cắt 2 mạch Nhâm Đốc nơi khỏang
giữa Hội Âm (Nhâm Mạch) và
Trường Cường, Vĩ Lư (Đốc Mạch).
Âm Kiều dưới thông tới gót chân, trên thông tới Tình Minh (mắt).
Nó giải thích được câu của Trang Tử trong
Nam Hoa Kinh, Đại Tông Sư: Thánh Nhân chi tức dĩ
chủng (Thánh
Nhân thở bằng gót chân.).
Tôi giải thích thêm vế Nhâm Đốc và Âm Kiều
như sau:
Huyệt Hội
Âm của Mạch Nhâm là
quẻ
Khôn. Huyệt Vĩ
Lư của Mạch Đốc là quẻ
Phục. Âm
Kiều cắt chính giữa 2 mạch Nhâm Đốc nên gọi là Sinh Tử Lộ, Phục Mệnh
Quan, vì đó là nơi mà con người thoát vòng Sinh Tử (tượng trưng bằng
Mạch Nhâm), và được Trời gọi về, sau khi đã làm trọn Mệnh Trời, và trở
về được với Căn Trời (Qui Căn Khiếu). Sau đó con người sẽ vào được Cửa
Trời (Vĩ Lư). Vĩ Lư chính là cái Cổng Trời, Đạo Bà
La Môn cũng gọi Vĩ Lư là Cửa Trời (Brahma’s Gate) (Xem Hồ Phu Thâm, Trung Hoa Đạo
giáo Đại Từ Điển tr. 1173, 1174, 1175).
* Tiên gia sáng lập ra Đơn Đạo
Dưới khía cạnh Triết Học, Đơn Đạo chung
qui là tất cả những công trình suy tư, tìm hiểu về Bản Thể Chân Thực của
con người, cũng như tất cả các phương pháp các giai trình để thực hiện
Bản Thể ấy. Đơn đạo chẳng qua là những áp dụng của Dịch vào
phương pháp tu trì.
Theo Dịch, thì Bản Thể vũ trụ là
Thái Cực duy Nhất, duy Tinh. Thái Cực này đã sinh xuất ra vũ trụ và con
người, bằng cách phóng phát, tán phân (Émanation), và vẫn luôn luôn tiềm
ẩn trong lòng sâu con người.
Suy tư tìm kiếm cốt là tìm ra Căn Bản ấy.
Tu luyện cốt là để trở về với Căn Bản ấy.
Trường sinh bất tử chính là khế hợp với
Căn Bản ấy.
Nếu Thái Cực đã phóng phát ra con người và
ra quần sinh vũ trụ, thì con đường về với Thái Cực là con đường nội tâm,
phương pháp tu luyện để trở về với Thái Cực là phương pháp Thu Nhiếp,
Ngưng Tụ, Hoà Hài. Con đường Nội Tâm chính là chiều nghịch của vòng
Dịch. Nếu Thái Cực đã tiềm ẩn đáy lòng, thì Trường Sinh Dược, mục đích
của khoa Luyện Đan cũng đã sẵn có ở nơi Thân, Tâm con người.
Dưới khía cạnh Đạo Giáo, thì Đơn Đạo
chính là công trình để tìm cho ra Thượng Đế tiềm ẩn đáy lòng.
Mục đích tối hậu của Đơn Đạo chính là đi
đến chỗ hợp nhất với Thiên Tâm, với Thượng đế.
Tất
cả các phương pháp tu luyện chung qui là sửa sang cho Tâm Thần trở nên
xứng đáng với Toà Ngôi của Thượng Đế chí tôn.
Sau đây, xin bàn qua về khoa Luyện Đơn
của Đạo Lão.
1. Trước hết, ta tìm hiểu về chữ Đơn
丹
- Chữ Đơn, đầu tượng Nhật, chân tượng
Nguyệt.
Chấm ở giữa là Thử Châu (Thái Cực)
Nét ngang là « Được».
Trước thời Hán, thì gọi là Đạo
道,
sau thời Hán thì gọi là Đơn 丹
[37]
Thế nghĩa là: Đơn chính là Thái
Cực, bao quát Âm Dương, đã tiềm ẩn sẵn trong lòng mọi người, và thu gọn
lại ở thế cực tiểu, như hạt vừng (Thử) theo từ ngữ Trương Tam Phong. Tu
Đơn Đạo cốt là để đắc Thái Cực, đắc Đạo, vì Đơn chính là Đạo, là Thái
Cực vậy.
Đơn chính là Độc Nhất. Chỉ có Đạo là Độc
Nhất Vô Nhị, cho nên gọi là Đơn.
Trời được Một thời trong xanh, đất được
Một thời đầy đặn, người được Một thời Trường Sinh.
[38]
Định nghĩa này cho thấy: Muốn trường sinh
phải Đắc Đơn, Đắc Đạo, Đắc Nhất.
- Kết Đơn chi Đạo chỉ là Nhất mà
thôi. Mà Nhất chẳng qua chỉ là Hư mà thôi.
[39]
Định nghĩa này đưa ta trở về với Hư với Vô Cực.
Định nghĩa này còn cho thấy Đơn là Thái
Cực tiềm ẩn trong thân.
- Tâm là Đơn, Đơn là Tâm.
[40]
- Đơn là Đạo, Đạo là Đơn.
[41]
- Đơn là Bản Thể, là gốc gác của Trời
đất, vạn vật.
Cái gì là Gốc của
Trời đất, vạn vật? Đó là Đơn, là Đạo. Nó Hư Vô
không thể đặt tên, nên tạm gọi là Đạo. Hư sinh Một, Một sinh Vạn, Vạn
qui Nhất, Nhất qui Hư.
[42]
Định nghĩa này lại càng cho thấy: Đơn là
Thái Cực và sách Đại Động chân kinh cũng cho rằng:
Muốn tìm gốc gác phải tìm nơi Thái Cực.[43]
Xướng Đạo Chân Ngôn còn cho rằng:
khi con người bừng tỉnh, nhận ra được Thái Cực nơi Tâm, tức là nhìn thấy
Bản Lai Diện Mục của mình, thấu triệt được Căn Nguyên của mình.
[44]
Những danh từ như:
-Cùng thủ sinh thân, thụ khí sơ.
[45]
-Thử mễ bảo Châu.
[46]
- Nhất lạp Kim Đơn.
[47]
- Nhất lạp túc
[48]
đều là những danh từ để chỉ Thái Cực tiềm
ẩn nơi Tâm.
- Kim Đơn: Kim là Pháp Thân bất hoại. Đơn
là Thực Tướng Viên Mãn.
[49]
Định nghĩa này cho thấy:
Đơn của Lão
Giáo tức là Pháp Thân của Phật Giáo.
- Đơn Đạo dạy con người con đường Hoàn
Phản, Phản Bản, Hoàn Nguyên. Chính vì thế mà người xưa định nghĩa:
Thất phản là Phản Bản.
Cửu Hoàn là Hoàn Nguyên.[50]
2. Muốn phản bản hoàn nguyên phải đi
theo chiều nghịch. chiều hướng nội.
-Muốn phản bản, hoàn nguyên phải đi theo
chiều nghịch, chiều qui tâm, hướng nội.
«Thuận sinh nhân, nghịch sinh Đơn.»
(Trương Tam Phong).
«Thuận vi phàm, nghịch vi tiên.»
[51]
« Phải hồi tâm, mới có thể hướng
Đạo.
[52]
Tôn Bất Nhị viết:
Thuận kỳ cơ, để hành nhân đạo.
[53]
Nghịch kỳ cơ, để hành Tiên Đạo.
[54]
Sinh cơ ngoại phát, gọi là Thuận.
[55]
Sinh cơ nội liễm, gọi là Nghịch.
[56]
Tiên Học Diệu Tuyển viết: «Kim
đơn Đại Đạo từ Hữu Vi nhập Vô Vi, tức là Liễu Mệnh (lo cho thân thể
khang cường) (Nguyễn Văn Thọ), kiêm Liễu Tính (tu tâm, luyện Thần )
(Nguyễn Văn Thọ), có như vậy Thần Hình mới song toàn, viên mãn.»
[57]
Xướng Đạo Chân Ngôn
viết:
«Tâm nội quan tâm, mịch bản tâm,
Tâm tâm câu tuyệt, kiến Thiên Tâm.
Chân Tâm minh triệt, thông tam giới,
Ngoại đạo, thiên ma bất cảm sâm.»
[58]
Dịch:
Rong ruổi trong tâm, kiếm bản tâm,
Phàm tâm diệt tích, kiến Chân Tâm.
Chân Tâm minh triệt, thông tam giới,
Ngoại đạo, thiên ma chẳng dám sâm.
«Xưa nay, thánh hiền cầu Đạo, đều không
hướng ngoại tìm cầu. Chỉ tĩnh định mà cầu ở nơi nhất tâm...trong đó có
đủ mọi sự.»
[59]
Tôn Bất Nhị còn gọi công trình đi từ Hậu
Thiên trở về Tiên Thiên là Cửu Chuyển hoàn đơn, hay Phản Hoàn, Nghịch
Chuyển.
[60]
Kim Đơn Đại Đạo trọng tại Nghịch
Chuyển Tạo Hoá, cho nên nếu Tạo Hoá phát tán đi từ Nhất ra Vạn, để sinh
hóa ra vạn hữu, thì Tu Đơn phải đi từ Vạn trở về Nhất, phải thu nhiếp,
hòa hài, tập hợp để trở về với Thái Cực Tiên Thiên.
[61]
Trương Bá Đoan cũng lý luận tương tự như vậy. Ông viết: «Nhận rằng Đạo từ Hư Vô sinh xuất vạn
vật, theo chiều Thuận, còn Tu Nội Đơn thời đi ngược lại: Phải trở về Hư
Vô, phải hợp nhất với Đạo.
Luyện Đơn diệu dụng, theo Kiền Khôn,
Kiền Khôn vận chuyển, sinh Ngũ Hành.
Ngũ Hành thuận chuyển sinh sống chết,
Ngũ Hành nghịch chuyển hoá Kim Đơn.»
[62]
3. Phải thu nhiếp tất cả về Một.
- Thu nhiếp Ngũ Khí, Ngũ Hành
(Tinh, Thần, Hồn, Phách, Ý) trở về Thái Cực.
Người xưa gọi thế là Toàn Thốc Ngũ Hành
hay Ngũ Khí Triều Nguyên.
-
Thu nhiếp Tứ Tượng (tinh thần,
hồn, phách) về với Thái Cực. Người xưa gọi thế là: Tứ Tổ qui gia.
- Thu Nhiếp Tam Tài
về cùng Thái
Cực (Tinh, khí Thần). Tam Hoa qui đỉnh.
- Thu Nhiếp Lưỡng Nghi
về cùng Thái
Cực (Lưỡng Nghi đây là Thần Khí). Và tới đây, thì các danh từ trở nên vô
cùng hùng hậu, bởi vì thay vì dùng 2 chữ Thần Khí, thì người ta nói Long
Hổ: Anh Nhi, Xá Nữ; Kim Ô, Ngọc Thố; Diên, Hống; Hắc Qui, Xích Xà; Khảm
Ly; Thủy Hỏa; Âm Dương; Kim tinh, Mộc dịch; Mã Ngưu; Thần Thủy, Hoa Trì
v.v...
4. Thu Nhiếp tất cả về Thái Cực, Trung
Cung.
- Muốn thu nhiếp, phải thu nhiếp về một
nơi nào. Nguyên tắc là thu nhiếp về Trung Cung, Thái Cực. Lúc ấy, Trung
Cung Thái Cực được gọi là Huỳnh Bà Xá, Trung Cung, Trung Hoàng, Mậu Kỷ
Môn, Phục Mệnh quan v.v...
Nhưng trên thực tế là thu nhiếp về 1 Đơn
Điền nào đó trong con người (hoặc Thượng, Trung, Hạ). Nhưng chung qui,
thường là thu nhiếp về Thượng Đơn Điền hay Nê Hoàn Cung.
Tính Mệnh Khuê Chỉ tóm tắt bằng câu sau:
«Tứ Tượng, Ngũ Hành toàn thốc ư nhất đỉnh. Hồn hữu linh ư Thiên Cốc, Lý
Ngũ Khí ư Nê Hoàn.»
[63]
Nếu ta dùng quan niệm Đạo Giáo mà tìm hiểu
khoa Luyện Đơn, ta sẽ thấy một chiều hướng thứ 2, với những nét chính yếu
sau đây:
Trong tâm ta có Đạo, có Trời, mà ta chẳng
biết, chẳng hay. Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Hanh, tr. 11a có
thơ:
Tá vấn Chân Nhân hà xứ lai?
Tòng tiền nguyên chỉ tại Linh Đài.
Tích niên, vân vụ, thâm già tế,
Kim nhật tương phùng, đạo nhỡn khai.
Dịch:
Chân Nhân ướm hỏi tới từ đâu?
Tâm khảm tiềm tàng sẵn đáy sâu.
Thủa trước Linh Đài vân vụ phủ,
Ngày nay gặp gỡ hết xa nhau.
Như vậy, con người phải tu tâm, luyện kỷ,
định tĩnh, thanh hư, để mong thấy Đạo, thấy Trời hiện ra trong tâm khảm
mình.
Tam Mao Chân Quân có thơ:
Linh Đài trạm trạm tự băng hồ,
Chỉ hưá Nguyên Thần lý diện cư.
Nhược hướng thử trung lưu nhất vật,
Khởi năng chứng Đạo, hợp Hư Vô.
Dịch:
Tâm linh vằng vặc tự băng hồ,
Chỉ khứng Nguyên Thần lý diện cư.
Nếu để vật chi vương vấn đó,
Làm sao chứng Đạo, hợp Hư Vô.
5.Thế nào là Đơn thành.
Đây là một vấn đề có thể làm chúng ta điên
đầu. Tiên hiền cho rằng sẽ luyện thành Nhất lạp
Thử Châu, hay
luyện thành Thánh Thai. Tôi suy tư về vấn đề này rất nhiều, và thấy nếu
hiểu theo nghĩa đen thì không ổn vì luyện đơn là trở thành Thái Cực, mà
Thái Cực thì vô hình tượng, vô thanh, vô xú, nên chúng ta phải hiểu theo
nghĩa bóng.
Tôi giải vấn đề như sau:
Đạo Lão chũ trương con người có 3 phần,
là:
Tinh (Xác).
Khí (Hồn)
Thân (Thần)
Có Xác thì chúng ta phải làm ăn, và
phải luyện xác cho khoẻ mạnh.
Có Hồn, thì chúng ta phải làm người,
và phải luyện hồn cho thành một con người xứng đáng với danh vị con
người.
Có Thần nên phải làm Thần, Phật, Thánh,
Tiên.
Cho nên đơn thành là khi con
người bỏ được lốt người, mà mặc lấy cốt Tiên, cốt Trời. Biết mình chính
là Tiên, là Phật tại thế.
Sách Thái Thượng Bảo Phiệt viết:
«Văn Đạo Tử một hôm gặp một đạo sĩ, liền
mời vào nhà đãi đằng, xong mới hỏi đâu là Huyền Môn Diệu Chỉ. Đạo Sĩ
đáp:
Tâm tức thị Đạo,
Đạo tức thị Tâm.
Tâm dữ Đạo ly,
Tắc tạo Lục Đạo Tam Đồ,
Tâm dữ đạo hợp,
Tắc tạo Bồng Lai Tam Đảo.
[64]
Dịch:
Tâm là Đạo, Đạo là Tâm,
Bỏ Tâm tìm Đạo, hỏi tầm đâu ra.
Tâm kia và Đạo lìa xa,
Thì là Lục Đạo, Tam Đồ chẳng sai.
Tâm Kia mà hợp Đạo Trời,
Bồng Lai, Tam Đảo tức thời hiện ra.
Cuối sách Tính Mệnh Khuê Chỉ có một
bức tranh, với bài thơ sau của Mã Ngữ:
Tụng Kinh, Trai Giới tổng giai không,
Hà tất tham thiền, uổng phí công.
Kham tiếu danh sơn bôn tẩu khách,
Bất tri Phật tại kỷ tâm trung.
Dịch:
Tụng Kinh, Trai giới thảy đều không,
Khỏi phải tham thiền uổng phí công.
Nực cười thiên hạ tìm trong núi,
Chẳng hay rằng Phật tại tâm trung.
Nhất lạp xan hề, Thiên Địa thọ,
Tử sinh, sinh tử bất tương can.
[65]
Nuốt hạt Kim Đơn, thọ vô cùng,
Từ nay sinh tử đã thoát vòng,
NHỮNG BIẾN THÁI CỦA
ĐẠO LÃO QUA CÁC THỜI ĐẠI
Như chúng ta đã thấy, Đạo Lão theo đà thời
gian đã khoác nhiều bộ mặt khác nhau:
-
Biến thái thứ 1 là từ một triết thuyết,
một nghệ thuật
sống, một đạo huyền đồng siêu việt, dành cho một ít ẩn sĩ siêu phàm,
đạo Lão đã trở thành một tôn
giáo ẩn sâu vào lòng quần chúng với
những tín ngưỡng, những phù chú ma thuật, những đền miếu, những lễ nghi
thờ phụng.
Đạo, hay Nguyên lý tối cao lúc ban đầu
dần dần được hình dung hóa, nhân cách hóa thành Thái Nhất, Nguyên Thủy
Thiên Tôn hay Ngọc Hoàng Thượng đế. Lão Tử được suy tôn thành Thái
Thượng Lão Quân và được tôn sùng như là hiện thân của Thượng đế từ đời
nhà Hán.
Đó là công trình của các vua nhà Hán như
Hán Văn Đế (179-156) Hán Vũ Đế (140-86) các vua nhà Đường như Đường Cao
Tổ, Lý Uyên (620-627), Đường Huyền Tông (713-756), Hiến Tông (806-820),
Mục Tông (821-825), Vũ Tông (841-847), các vua nhà Tống như Tống Chân
Tông (998-1023), Tống Huy Tông (1101-1126), các vị Thiên sư, cái vị đạo
sĩ như Trương Đạo Lăng, Trương Giác, Trương Lỗ, Trương Tu, Trịnh Tư
Viễn, Khấu Khiêm Chi, Bão Phác Tử v.v… Về phương diện Đạo giáo, Đạo Lão
đã đặt nặng vấn đề giao tiếp với thần tiên, cầu trường sinh bất tử.
-
Biến thái thứ 2 của Đạo Lão là bùa chú, phù thủy môn, hô
phong, hoán võ, hô thần, trừ quỉ v.v
Đó là những bí thuật của các thầy
phù thủy pháp môn, mà ngày nay rất ít người biết được.
-
Biến thái thứ 3 của Đạo Lão là các phương thuật dưỡng
hình, dưỡng sinh với thủ thuật, công phu như:
. Đạo dẫn, ma sát.
. Võ công như Bát Đoạn Cẩm, Lục Đoạn Cẩm,
Thập Nhị Đoạn Cẩm, Thái cực quyền.
. Khí công tức là vận khí điều tức.
. Tĩnh công tức là đặt nặng vấn đề giữ yên
tâm thần, định hồn phách.
-
Biến thái thứ 4 là đi tìm các phương dược để bổ dưỡng thân
tâm.
Chính vì thế mà đã có một số đạo sĩ đã trở
thành những y sư danh tiếng như Đào Hoằng Cảnh (452-536), Cát Hồng
(281-340), Tôn Tư Mạc (581-682) v.v.
-
Biến thái thứ 5 của đạo lão là chủ trương sống thoát vòng
cương tỏa của xã hội, sống tùy ý, tùy thích. Đó là chủ trương của Trúc
Lâm Thất Hiền thời Tam quốc gồm các nhân vật như Nguyễn Tịch, Kê Khang,
Lưu Linh, Nguyễn Hàm, Sơn Đạo, Hướng Tú, Vương Nhung…
-
Biến thái thứ 6 của đạo Lão là luyện nội đan để cầu trường
sinh bất tử mà người chủ xướng là Ngụy Bá Dương thời Hán (thế kỷ 2), tác
giả bộ Tham Đồng Khế.
Phương pháp luyện nội đơn này chẳng qua là
vận khí, điều tức, tập trung tâm thần để đi đến chỗ xuất thần huyền hóa.
Cho nên, tuy dùng những thuật ngữ đặc biệt, nhưng bộ mặt thực của khoa
luyện nội đơn cũng chỉ là tu luyện tâm thần để đi đến chỗ phối kết với
Trời với Đạo, mà ta đã đề cập đến rất nhiều ở bên trên.
-
Biến thái thứ 7 của đạo Lão là những phương thuật luyện
ngoại đơn, gồm tất cả các phương thức làm cho thân xác trở nên khinh
phiêu bất tử.
Từ thế kỷ thứ 4 trước Tây lịch, Tống Vô Kỵ
học trò Tiện Môn Tử Cao đã có chủ trương rằng con người có thể thoát xác
để trường sinh. Rồi tiếp đến có Bão Phác Tử một người đã dùng cả đời để
luyện thuốc trường sinh. Công cuộc cầu trường sinh này gồm:
- Phương pháp Tịch cốc để cho cơ thể trở
nên nhẹ nhàng, tinh khiết.
-
Hấp thụ khí âm dương tinh hoa của trời đất. Tắm ánh sáng mặt trời để hấp
thụ khí dương. Uống sương móc hứng giữa thinh không lúc ban đêm để hấp
thụ tinh hoa của khí Âm.
-
Dùng những loại kim thạch, tinh hoa của âm dương để luyện thành kim đơn
mà uống.
Người xưa cho rằng Lưu Hoàng (Soufre) và
Vàng là tinh hoa của Dương. Những chất liệu trên không thể dùng thẳng
được nên cần phải chuyển biến tinh luyện.
Muốn ăn Lưu Hoàng người ta dùng Đơn Sa hay
Chu Sa hay Thần Sa (Cinabre) tức là một hợp chất gồm Thủy ngân và Lưu
Hoàng (S2Hg).
Muốn điều chế vàng nhân tạo người ta dùng
Chì có pha bạc hay Thạch tín (Plomb argentifère hay arsénifère). Điều
chế chất chì này người ta được Hùng hoàng (Sulfure d’arsenic rouge) hay
Thư Hoàng (Sulfure d’arsenic jaune) mà người ta coi như là vàng nhân
tạo.
Đơn Sa, Chu Sa, Thần Sa và Hùng Hoàng, Thư
Hoàng sau này được coi là linh đơn, hay ít nữa là được coi là những chất
liệu chính dùng để chế linh đơn.
Đọc những thành phần các chất liệu dùng để
luyện linh đơn như thấy trong bài Bát quỳnh đơn[66]
hay Cửu chuyển hoàn đơn,[67]
ta thấy chúng toàn là những loại kim thạch tối độc cho cơ thể con người.
Hậu quả là các vua chúa đã uống qua linh đơn đều trở nên điên cuồng hay
chết non ví dụ:
+ Ai Đế nhà Đông Tấn (361-366)
+ Đường Hiến Tông (805-820)
+ Đường Mục Tông (820-824)
+ Đường Vũ Tông (840-847)
Vị tiên ông chuyên luyện thuốc trường sinh
là Cát Hồng Bão Phác tử cũng chỉ hưởng thọ có 61 tuổi.
Sau khi thấy các linh đơn rất là nguy
hiểm, các vua chúa đã có những phản ứng khác nhau như sau:
1. Ra lệnh hành quyết hết các thầy luyện
đan như đời vua Đường Y Tông (860).
2. Nhận thuốc trường sinh, nhưng chỉ sẽ
uống lúc hấp hối như vua Văn Tuyên Đế nhà Bắc Tề (550-559).
3. Bắt các tử tội phải thí nghiệm thuốc
trường sinh như trường hợp vua nước Ngụy là Đạo Vũ Đế đã làm năm 400.
Nhà văn hào Tô Đông Pha được biếu thuốc
trường sinh, đã viết thư cho bạn như sau: «Mới đây đệ có nhận được
một ít chu sa thần dược màu tuyệt đẹp, nhưng đệ không đủ can đảm dùng
linh đan ấy.» (Xem Trần Văn Tích, Tư tưởng Lão Trang trong Y thuật
Đông phương, tr. 141).
NHỮNG ĐIỀU CHÚNG TA
CÓ THỂ HỌC NƠI LÃO TRANG
Những trình bày và nhận xét trên đã cho
chúng ta thấy:
+ Phương pháp luyện ngoại đơn đã hoàn toàn
thất bại.
+ Chủ trương xác thân con người có thể nhờ
dược liệu, nhờ công phu tu luyện mà trở nên bất tử được chỉ là một ảo
vọng, vì hễ là hợp chất, tạp chất thời trước sau cũng phải ly tan. Mà Á
Đông vẫn cho thân này là Tứ đại giả hợp thì làm sao mà trường cửu được
cho cam?
+ Những chuyện con người có thể bạch nhật
thăng thiên cũng là những chuyện huyền thoại hoang đường.
+ Những ma thuật phù chú sẽ dần dần đưa
dân chúng vào một thế giới nghi kỵ lẫn nhau, và sợ hãi lẫn nhau. Đời xưa
khi vua Hán Vũ Đế lâm bệnh, triều đình đã giết trước sau cả vạn người vì
nghi là đã trù ếm vua.
+ Chủ trương con người có thể tịch cốc để
cho xác thân trở nên phiêu bồng bất tử cũng đi ngược lại với định luật
thiên nhiên.
* Còn như nói rằng con người cần phải
dưỡng sinh, cần phải phòng bệnh, ăn ở cho sạch sẽ, ăn uống cho có tiết
độ, lao tác sống động cho có chừng mực, đừng quá lao tâm lao lực, giữ
cho lòng mình ung dung thoải mái, hồn nhiên khinh khoát, để sống cho
khỏe mạnh, để sống cho trọn tuổi đời thì là những bài học hết sức là
khôn ngoan và hữu lý, rất đáng cho chúng ta theo.
* Quan niệm vui sống, vui chết là một quan
niệm hết sức là hào sảng. Thái độ này sẽ làm cho chúng ta sống bình thản
hồn nhiên hết mọi lo âu, sợ hãi.
* Lão Trang lại còn chủ trương sống theo
thiên nhiên, rũ bỏ nhân tạo. Đó là một chủ trương hết sức đẹp đẽ, cao
siêu, nếu hiểu và áp dụng cho đúng đắn, nhất là vào thời buổi văn minh
này, con người đang bị đủ mọi thứ gông cùm ngoại cảnh, lý thuyết, xã
hội, tập quán, chính trị, văn minh vật chất buộc ràng, những bậc thức
giả cũng nên rũ bỏ bớt những gì nhân vi, nhân tạo, rũ bỏ những gì giả
tạo, bôi bác mà sống một cuộc sống đơn thuần, thành khẩn, an nhiên.
* Lão Trang có cái đẹp là từ thời Tuỳ,
Đường đến nay nhất là từ Vương Trùng Dương và các đệ tử (đời Tống) đều
nhất luật chủ trương Tam Giáo Đồng Nguyên, Tam Giáo Hợp Nhất. Đời Minh
Gia Khánh 1562, Lâm Triệu Ân soạn quyển Tam Giáo Hội Biên cũng
theo chiều hướng đó. Đời Minh Vĩnh Lạc có người soạn quyển Tam Giáo
Nguyên Lưu Sưu Thần Đại Toàn, vẽ 181 hình Thánh, Tiên, Phật v.v..
(Xem Ho àPhu Thâm,Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Trung Quốc Xã
Hội Khoa Học xuất bản xã, 1995, các trang 1768, 468, 421.)
* Cao siêu nhất là lời kêu gọi của Lão
Trang khuyên ta tìm về với Thiên Chân, trở về với Đạo với Trời.
Thiết tưởng chúng ta nên nghe theo lời kêu
gọi đó mà rũ bỏ bớt những kiến thức đa đoan phù phiếm của tiểu trí để mà
có cái nhìn bao quát của những bậc đại trí, đại huệ, thấy rằng mình hồn
dung liên kết với Đạo, với Trời với vũ trụ vạn hữu, để mà sống cho khinh
phiêu siêu thoát, tẩy rửa tâm tư cho sạch những tà tâm tà niệm, trở nên
thuần nhất, tinh toàn, dữ Đạo hợp chân, dữ Thiên tương phối ….
Tôi nghĩ bàn về Đạo Lão như vậy, đã quá
nhiều. Người xưa có câu:
Nhất ngôn bán cú tiện thông huyền,
Hà dụng đơn kinh thiên vạn biên.
Thông Huyền một chữ cũng thông,
Đơn kinh lọ phải thuộc lòng ngàn
pho
[68]
KHÁI LƯỢC VỀ LÃO GIÁO
VIỆT NAM
(Trích
sách Con Đường Tam Giáo Việt Nam của Lê Anh Dũng, Nxb Tp HCM, 1999, từ tr.
11 đến tr. 18)
Cái
học Lão Trang trong sáu, bảy thế kỷ trước công nguyên ở Trung Quốc (thời
Xuân thu Chiến quốc) là một học thuật tư tưởng.
Các đạo gia không chủ trương những điều huyền bí, trước cảnh thiên hạ
đại loạn họ chọn cuộc sống ẩn dật, di dưỡng thiên chân. Từ thế kỷ I,
thời Đông Hán (Hậu Hán), với Trương Đạo Lăng
張
道
陵,
cái học Lão Trang biến thành một tôn giáo, gọi là Đạo giáo, Lão giáo.
Đạo
giáo phát triển muôn vẻ. Các đạo sĩ (phương sĩ
方
士)
chuyên tâm vào bùa chú (phù chú
符
咒
hay phù lục
符
籙
), luyện đan. Họ được gọi là phái thần tiên đan đỉnh
神
仙
丹
鼎
và phù lục. Toàn bộ kinh điển Đạo giáo rất phức tạp, gồm 5.485 quyển,
gọi chung là Đạo tạng
道
藏,
gồm Chính Đạo tạng, Tục Đạo tạng. Đạo giáo có nhiều môn phái, rất
phức tạp, một số phái chủ yếu:
-
Phái Chính nhất (Thiên sư đạo), phát triển mạnh ở phương Nam, tôn
Trương Đạo Lăng làm Thiên sư; con cháu họ Trương đời đời làm thủ lãnh.
Các đạo sĩ không xuất gia, gọi là hỏa cư đạo sĩ.
-
Phái Toàn chân, xuất hiện thời Liêu Kim, phát triển rộng ở phương
Bắc, có cả đạo sĩ và đạo cô, đều xuất gia, gọi là mao sơn đạo sĩ.
Có
thể Lão giáo du nhập Việt Nam khoảng thế kỷ II, bấy giờ đã mang màu sắc
Đạo giáo. Nguyên vì ở Trung Quốc, sau khi Hán Linh đế mất (năm 189), xã
hội đại loạn, người Hán chạy sang Giao Châu lánh nạn rất đông, trong đó
có nhiều đạo sĩ tịch cốc (nhịn ăn), luyện pháp trường sinh.
Quan
lại Trung Quốc sang đô hộ nước Nam hầu như đều sính phương thuật. Theo
Đại Việt sử ký toàn thư
大
越
史
記
全
書,
quyển 3, Thái thú Sĩ
Nhiếp lâm bịnh, chết đã ba ngày, lại được một đạo nhân là Đổng Phụng đến
cho thuốc cải tử hoàn sinh. Lại chép việc Thứ sử Trương Tân (sang Giao
Châu từ năm 201) hay đội khăn đỏ, đọc kinh sách Đạo giáo. Đời Đường, năm
865, Cao Biền sang nước Nam đàn áp các cuộc khởi nghĩa của dân Việt. Cao
là một thuật sĩ có hạng, chuyên về phong thủy 嗣水,
ráo riết tìm phá long mạch, trấn yểm các nơi anh linh tú khí của nước
Nam, cốt ý cho nước Nam không còn sinh ra nhân tài, anh hùng hào kiệt,
sẽ phải lệ thuộc dưới ách đô hộ của phương Bắc đời đời.
Đạo
Lão Việt Nam cũng khá phức tạp, vừa mang màu sắc Đạo giáo, vừa chịu ảnh
hưởng các Đạo gia, và đồng thời cũng kết hợp với Thần đạo
神
道
của người Việt; vì thế, đạo Lão ở Việt Nam có nhiều khuynh hướng.
I. CÁC KHUYNH HƯỚNG TIÊU BIỂU CỦA LÃO GIÁO
VIỆT NAM
1. Khuynh hướng phù chú và bạo động
Bùa
chú trong một thời gian dài có ảnh hưởng trong các sinh hoạt xã hội.
Chẳng hạn, cọp được coi là loài thú tính dương, nên có thể khu
trừ tà ma (tính âm), do đó nhiều nhà dán bùa vẽ hình cọp trước
cửa để che chở gia đình, và lá bùa ấy có tên trừ tà trị bệnh, trấn
trạch bình an.
Đạo
giáo có sức lôi cuốn nông dân vào các hội bí mật, hoặc để tương trợ nhau
chống lại cường hào ác bá, hoặc để mưu đồ quốc gia đại sự. Đời Trần Phế
đế, ở lộ Bắc Giang có Nguyễn Bổ, năm 1379 xưng vương, hiệu Đường lang Tử
y. Đời Hồ có Trần Đức Huy cũng dùng phương thuật thu hút đông người
theo, bị Hồ Quý Ly dẹp năm 1403. Thời kháng Pháp có đạo sĩ Trần Cao Vân
(1866-1916), tên thật là Trần Công Thọ, hiệu Hồng Việt, quê làng Tư Phủ,
phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Miền Nam có Thiên địa hội
天
地
會
lôi cuốn hàng ngàn người. Có Phan Phát Sanh (Phan Xích Long) xưng hoàng
đế, nổi lên đánh Pháp (cuối tháng 3.1913); nghĩa quân đeo bùa, mang giáo
mác, gậy gộc, bất chấp súng đạn của giặc. Còn rất nhiều những phong trào
như thế khắp cả nước, như Mạc Đình Phúc (miền Bắc), Võ Trứ (miền Trung),
Nguyễn Hữu Trí (miền Nam)...
2. Khuynh hướng phong thủy và sấm ký
Khoa
phong thủy (địa lý) ở nước Nam và việc tiên tri loan truyền sấm ký rất
được quần chúng ưa thích. Đời Trần?Hồ ở lộ Tân Hưng có Trần Quốc Kiệt
làm quan chức an phủ sứ, soạn Hình thế địa mạch ca. Đời Mạc
có Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), hiệu Bạch Vân Cư sĩ
白
雲
居
士,
đời gọi Trạng Trình, nổi tiếng vì nhiều tiên tri ký bí. Đời vua Lê chúa
Trịnh ở làng Tả Ao, tỉnh Nghệ An, có Nguyễn Đức Huyên vang danh nhờ khoa
địa lý. Đời Tây Sơn ở huyện La Sơn, tỉnh Hà Đông có Nguyễn Thiếp (La Sơn
Phu tử) cũng nổi tiếng về phong thủy.
Sấm
ký cũng được nhiều cao tăng sử dụng. Làng Cổ Pháp, tỉnh Bắc Ninh, trong
phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi có nhiều nhân vật lừng lẫy: sư Định Không (thế kỷ
VIII, đời thứ tám); sư La Quý An (852-939, đời thứ mười); sư Vạn Hạnh
(thế kỷ XI, đới thứ mười hai)...
3. Khuynh hướng trường sinh bí thuật
Vua
Trần Dụ tông (1341-1369) cầu đạo trường sinh với đạo sĩ Huyền Vân tu ở
núi Niết (núi Phụng Hoàng), huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đời Trần
Thuận tông (1388-1398) có quan tri huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, tên Từ
Thức, người Hóa Châu. Đời Trần?Hồ ở xã Cổ Định, huyện Nông Cống, tỉnh
Thanh Hóa, có Trần Tu vào ẩn tu ở núi Nưa (Na Sơn). Đời vua Lê chúa
Trịnh ở huyện Đông Thành có Phạm Viên...
Triều
Lê Cảnh hưng có Nguyễn Hoãn, làng Lan Khê, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh
Hóa, làm quan Lại bộ thượng thư, Viện quốc công, Quốc sư Quốc lão. Gia
phả họ Nguyễn, mục Tiên khảo đạo tu lục cho biết ông tu tiên từ
năm ba mươi ba tuổi (Ất sửu 1745), đọc Đạo đức kinh. Năm bốn mươi
bốn tuổi lập tĩnh thất để tu luyện ngay trong nhà. Năm bốn mươi tám tuổi
thờ thần Ngũ Nhạc. Sau lại xây thêm tháp mười hai tầng để luyện khí âm
dương... Vì cuồng vọng, ông về sau đi lạc sang tà đạo. Mất năm 1792, thọ
tám mươi tuổi.
4. Phương hướng thanh tĩnh, nhàn lạc
Triết
lý vô vi thanh tĩnh của Lão-Trang ảnh hưởng giới Nho sĩ rất nhiều, tạo
cho con người xu hướng ẩn dật, ưa thích gần thiên nhiên, tìm cái thú
nhàn lạc bên chén rượu cuộc cờ, tiêu dao với ngón đàn, vần thơ, hay nét
thư họa... Xu hướng này thích hợp khi con người không gặp thời, hoặc khi
đã chán cuộc đời phồn tạp. Vì thế, Nho sĩ Việt Nam thời xưa luôn luôn
trang bị cho bản thân tư tưởng xuất xử. Gặp thời hay, được thi thố tài
năng thì xuất
出,
tham gia việc nước. Lúc bất đắc chí, khi tuổi già hay chán quan trường
thì xin bỏ về điền dã; đó là xử
處.
Đời
Trần, Nguyễn Phi Khanh viết:
Bách niên phù thế nhân giai mộng,
Bán nhật thâu nhàn ngã diệc tiên.
(Cuộc
đời nổi trôi trăm năm kiếp người như giấc mộng, Ăn trộm được cái nhàn
nửa ngày thì ta cũng là tiên).
Đời
Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:
Nhưng trong mọi việc đà ngoài hết,
Được một ngày là tiên một ngày.
Hay
là:
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp,
Nhìn xem thế sự tựa chiêm bao.
Đời
Lê-Mạc, có Nguyễn Hãng, quê xã Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, trấn Sơn Tây,
thi đậu hương cống nhưng không làm quan, về ẩn tu ở xã Đại Đồng, phủ Yên
Bình, tỉnh Tuyên Quang. Ông lấy hiệu Nại Hiên. Triều Lê (khi trung hưng)
phong tặng là Thảo Mao Dật sĩ. Ông sáng tác những bài phú như Đại
Đồng phong cảnh phú, Tam Ngung động phú, Tịch cư ninh thể phú...
Những bài này ca ngợi thú ở ẩn non cao.
Đời
Tây Sơn, có Phan Huy Ích (1750-1822), quê ở Nghệ An, lấy hiệu Bảo chân
Đạo nhân. Năm 1796 ông dựng nhà tại kinh thành Thăng Long, đặt tên là
Bảo chân quán. Trong bài ký do ông sáng tác để nói về Bảo chân quán, ông
bày tỏ mục đích là để sớm hôm quanh quẩn ở đó, khi dựa bao lơn uống trà,
khi đến dòng sông buông câu, khi khảy đàn nhắp rượu, khi ngâm vịnh tùy
hứng... Đời Nguyễn có Nguyễn Công Trứ (1778-1858), người xã Uy Viễn,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh là một con người độc đáo, tiêu biểu chi
lối sống xuất xử vẹn toàn của nhà Nho. Ông từng tự hào:
Tri túc, tiện túc; đãi túc, hà thời túc?
Tri nhàn, tiện nhàn; đãi nhàn, hà thời
nhàn?
Cầm kỳ thi tửu với giang san,
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế?
Khuynh hướng thanh tĩnh, nhàn lạc còn thấy được qua thú chơi cây kiểng
và hòn non bộ. Người ta chơi một gốc cây sù sì, nho nhỏ, uốn cành sửa lá
theo ý riêng, hoặc bày vài hòn đá con con, chông chênh trên một bể nước
cạn. Thêm vào vài nhánh lá, chiếc cầu, con thuyền, lác đác một hai tượng
sành tí xíu hình lão tiều, ông câu, hay đôi bạn đang đánh cờ... Đó là cả
một thế giới riêng của con người đem thu nhỏ lại từ hình ảnh thật của
thiên nhiên bao la. Chơi cây kiểng và hòn non bộ từ lâu đời vẫn được coi
như thú tiêu khiển thanh tao, giúp con người di dưỡng tánh tình. Nó được
xếp hạng không kém bốn thú tài tử cầm, kỳ, thi, họa. Người sành chơi,
khi đứng trước một chậu kiểng đẹp, một hòn non bộ khéo đắp, có thể dễ mê
mẫn tâm hồn, đắm mình trong sức tưởng tượng phong phú, và quên cả thực
tại phồn tạp bên ngoài.
II. LÃO GIÁO KẾT HỢP VỚI THẦN ĐẠO VIỆT NAM
Từ
lâu đời, người Việt có một đức tin sâu sắc vào sự trường cữu của anh
linh những công thần, hào kiệt. Lúc sống, làm rường cột chống đỡ sơn hà
xã tắc, cứu dân giúp nước. Khi thác, trở thành thần thánh, hiển hích, âm
phò mặc trợ cho đồng bào. Thần đạo Việt Nam giản dị như vậy, và đó cũng
là một truyền thống yêu nước và lòng kính trọng nghìn đời của dân tộc
đối với các vị anh hùng, những bậc kỳ tài của đất nước. Cái đình làng,
tục thờ thành hoàng, đền thờ hay lăng, miếu các danh tướng lương thần
đều là nét tín ngưỡng Thần đạo của người Việt.
Đạo
Lão cũng như đạo Phật đã khéo dung hợp, hòa nhập với những tín ngưỡng cổ
truyền trong lòng xã hội Việt Nam. Đế quốc phong kiến phương Bắc đã thất
bại khi tìm cách dập tắt tín ngưỡng bản địa này của người Việt. Trong
lúc nước mất chủ quyền, chính tín ngưỡng Thần đạo đã nuôi dưỡng ý thức
quốc gia, khơi lòng yêu nước, để khi thời cơ đến thì gây phong trào khởi
nghĩa, đánh đuổi ngoại xâm.
Trong
toàn bộ lịch sử lâu dài vừa đấu tranh giữ nước vừa ra sức dựng nước, dân
tộc Việt Nam đã chiến đấu bất khuất, không phải chỉ với phương tiện vật
chất hữu hình, mà còn có cả sức mạnh vô hình là đức tin mãnh liệt vào
khí thiêng sông núi, tin rằng có biết bao thế hệ anh linh tiền nhân dân
tộc đang cùng đứng chung chiến tuyến với chính nghĩa của dân tộc để bảo
vệ sự độc lập, thống nhất, trường tồn của Việt Nam.
Chính
Thần đạo Việt Nam cũng thể hiện tình yêu nước Việt Nam. Người Việt theo
đạo Lão nhưng vẫn không hề mất bản sắc của mình. Do đó, bên cạnh các vị
thần tiên của đạo Lão theo kinh điển Trung Quốc truyền sang, dân Việt
vẫn thờ chung các vị thần của người Việt. Thí dụ, Thông thánh quán ở
vùng Bạch Hạc (Việt Trì) đã thờ thần sông Tam Giang là vị phúc thần của
địa phương. Các đạo quán khác thờ thần núi Tản Viên (núi này ở tỉnh Sơn
Tây), gồm ba ngọn cao ngất, nên cũng gọi là núi Ba Vì), thờ thần sông Tô
Lịch, Lý Ông Trọng... Từ đời Trần, đức Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn
được thờ ở Vạn Kiếp, Chí Linh, rồi lan truyền nhiều nơi. Đời Hậu Lê, có
đền thờ bà chúa Liễu Hạnh. Các nữ thần khác cũng được dân gian thờ phụng
khắp trong nước.
III. MỘT SỐ ĐẠO QUÁN NỔI TIẾNG
1. Thông thánh quán
Ở
vùng Bạch Hạc (Việt Trì), dựng khoảng năm 650-655, đến thế kỷ XIV thì
không còn.
2. Thái thanh cung
Cung
được dựng ở kinh thành Thăng Long, bên trái. Bên phải là chùa Vạn tuế.
Vua Lý Thái tổ (1010-1028) cho cất cung và chùa này khi mới dời đô về
Thăng Long.
3. Trấn vũ quán
Cũng
được xây dựng lúc vua Lý Thái tổ vừa dời đô về Thăng Long (1010), hiện
nay nằm ở góc đường Quan Thánh và đường Thanh Niên, khu phố Ba Đình, Hà
Nội. Quán thờ đức Huyền thiên Trấn vũ để hộ trì mặt phía bắc của thành
Thăng Long. Quán này còn được gọi là đền Trấn vũ hay Chân vũ. Đời vua Lê
Hy tông (1676-1704), tượng đức Trấn vũ được đúc bằng đồng đen cao 3,96
mét, nặng 4 tấn. Năm 1893, lại xây thêm một bệ đá cho tượng. Bệ này cao
1,20 mét.
4. Ngọc thanh quán
Quán
nằm trên núi Đại Lai (Thanh Hóa). Năm 1398, Hồ Quý Ly mưu việc dứt ngôi
nhà Trần, ép vua Trần Thuận tông (1388-1398) thoái vị, và cưỡng bách vua
về tu tiên ở quán này.
5. Nghinh tiên quán (hay Vọng tiên quán)
Nguyên vua Lê Thánh tông chơi Hồ Tây, gặp một thiếu nữ xinh đẹp, xướng
họa thơ rất ưng ý nên vua Lê rước lên xe đưa về cung. Khi đến cửa Đại
Hưng thành Thăng Long (nay là cửa Nam Hà Nội), thiếu nữ bay lên trời,
biến mất. Vua cho cất tại cửa Đại Hưng lầu Vọng tiên để kỷ niệm, sau
chốn này thành quán Vọng tiên hay Nghinh tiên nằm ở phố Hàng Bông, Hà
Nội.
6. Tiên tích tự
Vua
Lê Hiển tông chơi hồ Kim Âu phía nam thành Thăng Long gặp hai cô tiên,
nên cho cất Tiên tích tự ở đấy làm kỷ niệm. Hồ Kim Âu nay ở vị trí nhà
ga đường sắt Hà Nội.
7. Đền Ngọc sơn
Đền
nằm trên một gò đất nổi lên ở phía bắc hồ Hoàn Kiếm. Thoạt đầu nơi đây
thờ đức Quan thánh Đế quân, sau trùng tu lại, thờ Phật, gọi là chùa Ngọc
sơn. Năm 1841, biến thành đền thờ đức Văn xương Đế quân. Về sau lại thờ
thêm đức Lữ tổ và đức Trần Hưng đạo.
8. Bảo chân quán
Do
Phạm Huy Ích cất tại Thăng Long năm 1796.
IV. THƯỢNG SƯ NỘI ĐẠO
Đây
là một đạo trường lớn của đạo Lão ở Việt Nam thời xưa. Đời Hậu Lê, Trần
Toàn là người làng Yên Đông, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh
Hóa. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê (thời gian 1527-1529), ông
từ quan về quê tu hành, đắc đạo, được Thiên đình phong chức Thượng sư,
lo trừ tà khử quái suốt hai vùng châu Hoan (Thanh Hóa) và châu Ái (Nghệ
An). Thượng sư đến làng Từ Minh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa mở đạo
trường. Vua Lê Thần tông (1619-1662) ban cho trường tên là Nội đạo
trường. Lúc Thượng sư thoát xác, Vua lại truy phong là Phục ma Thượng
đẳng Phúc thần và cho lập đền thờ.
Thượng sư có ba con trai là Nhật Quang, Nguyệt Quang, và Ngọc Quang, đều
tinh thông đạo pháp của Thượng sư truyền dạy. Ba vị nổi danh lừng lẫy,
đời xưng tán, gọi là Tam thánh Nội đạo. Sau khi Thượng sư về Trời, Ngọc
Quang kế tục đạo nghiệp của cha, lãnh phần điều khiển Nội đạo trường.
Triều
đình đã công nhận đạo trường này. Nó có uy thế rất lớn. Chi nhánh của
Nội đạo trường xuất hiện khắp nơi, nào là làng Từ Quang (tức Từ Minh
trước kia, huyện Hoằng Hóa), là làng Yên Đông (huyện Quảng Xương), đều ở
tỉnh Thanh Hóa; hoặc ở tỉnh Nghệ An, ở hạt Huệ Lai, tỉnh Hưng Yên; hay ở
Nhật Tảo (tỉnh Hải Dương), ở làng Giảng Võ (gần Hà Nội)...
Về
sau, Nội đạo trường thờ cả bà chúa Liễu Hạnh, đức Trần Hưng đạo, đức Phù
đổng Thiên vương, thần núi Tản Viên, thần Bạch Mã...
V. THI LÃO HỌC
Triều
Lý Cao tông (1195) và triều Trần Thái tông (1247) đều mở khoa thi Tam
giáo. Riêng về nội dung thi Lão giáo, Nguyễn Đổng chi đã sưu tầm được
một đề thi và một bài trả lời các câu hỏi ra trong đề đó. Nghiên cứu tài
liệu này, có thể hiểu được phần nào sự học Lão của người Việt đời trước.
Sau đây là bài thi:
1. PHÁP MÔN LÀ GÌ?
Mọi pháp quy tôn, muôn đời chẳng đổi, muôn thánh ngàn thần, một môn đồng
hội, ấy gọi là pháp môn vậy.
2. PHÙ THỦY LÀ GÌ?
Khí âm khí dương hỗn hợp mà thành ra
thiêng, dùng nước đại bi phun cho ma sợ, ấy gọi là phù thủy vậy.
3. PHÁP MÔN LẤY AI LÀM THÁNH?
Pháp môn do Thái thượng Lão quân lập ra cho nên tôn Ngài làm Thánh.
4. PHÙ THỦY LẤY AI LÀM THẦY?
Phù thủy do Chân vũ Tiên sinh lập ra cho nên tôn Ngài làm Thầy.
5. TỨ THÁNH, TỨ GIÁC, TỨ TUNG, TỨ DUY LÀ Ý
THẾ NÀO?
Thiên bồng, Thiên du, Bảo đức, Hắc sát gọi là Tứ thánh. Càn, Khôn, Tốn,
Cấn gọi là Tứ giác. Thiên hoa, Địa hoa, Lão hạc, Đồng trụ gọi là Tứ
tung. Tí, Ngọ, Mão, Dậu gọi là Tứ duy.
6. TAM GIỚI, TAM THANH, TAM ĐỘNG, TAM TY
LÀ THẾ NÀO?
Dục giới, sắc giới, vô sắc giới ấy là Tam giới. Ngọc thanh, Thượng
thanh, Thái thanh, ấy là Tam thanh. Động chân, Động huyền, Động vi ấy là
Tam động. Lôi đình, Linh bảo, Thái huyền ấy là Tam ty.
7. ÔN, HOÀNG, DỊCH, LỆ SINH VÀO BUỔI NÀO?
Vua Hoàng Đế có bốn người con bất tài tên là, Ôn, Hoàng, Dịch, Lệ sinh
vào đời Chuyên Húc.
8. TỐN, LY, KHÔN, ĐOÀI SINH ĐƯỢC MẤY CON?
Tốn sinh ra được bốn con là Đông, Tây, Nam, Bắc. Ly sinh được chín con
từ Nhất bạch, Nhị hắc đến Bát bạch, Cửu tử. Khôn sinh ra sáu con tức là
Thái âm, Lục khí. Đoài sinh ra bảy con tức là Bắc đẩu Thất tinh. Ấy là
Tốn, Ly, Khôn, Đoài có hai mươi sáu con vậy.
9. HÀNH MÃN TAM THIÊN SỐ, THỜI ĐƯƠNG TỨ
VẠN NIÊN LÀ GÌ?
Số Trời thành 1.000, số đất thành 1.000,
số người thành 1.000, ấy là hành mãn tam thiên số. Từ Thái dịch đến Thái
sơ là 10.000 năm, từ Thái sơ đến Thái thủy 10.000 năm, từ Thái thủy đến
Thái tố 10.000 năm, từ Thái tố đến Thái cực 10.000 năm. Ấy là thời đương
tứ vạn niên.
10. ĐẠO CẠO LONG HỔ PHỤC, ĐỨC TRỌNG QUỶ
THẦN KINH CHỈ VỀ THẦY NÀO?
Đạo chí cao không thể vượt qua được, mà
rồng là dương tinh, cọp là âm tinh đều phục đạo cao. Đức chí hậu không
thể vượt qua được, mà quỷ là khí tán, thần là khí tinh đều sợ đức trọng.
Ấy là Đạo cao long hổ phục, đức trọng quỷ thần kinh, chính là chỉ sư Phổ
Am vậy.
11. PHÉP BẮT TÀ TRÓI QUỶ DÙNG LINH PHÙ
NÀO? ĐỌC THẦN CHÚ NÀO?
Nếu được đàn tràng cho chỉnh túc, pháp
tịch cho hẳn hoi, niệm thấy tam giới mà muôn thánh đều đến, trống đánh
ba hồi mà muôn thần đều nhóm họp, trước phải gọi tướng, thứ phải sai đi.
Tưởng đến thiên võng mà kín đáo ra bùa, bắt tay ấn mà thiêng liêng chú
bút, bốn chữ thánh đè năm chữ quỷ, chữ (...?) hợp với vạn linh. Dùng
những bùa thiêng Bạch xà, Độc cước, đọc những thần chú Thái thượng, Tề
thiên.
12. MUỐN CHO ĐỜI NÀY, DÂN NÀY ĐỀU VÀO
TRONG ĐÀI XUÂN, CÙNG BƯỚC LÊN CÕI THỌ THÌ PHẢI DÙNG THUẬT GÌ?
Nếu trước hết chính tâm thì bọn tà mị
không thể rục rịch. Trước hết chính thân thì khí tà không thể xâm phạm.
Tâm chính rồi thì lấy đó ra ơn cho dân. Thân chính rồi thì lấy đó mà
giúp chúng.
Qua
bài làm của thí sinh đời trước, cùng với cách ra câu hỏi như thế, có thể
phỏng đoán rằng trọng tâm cái học Lão giáo đời xưa nặng về Đạo giáo (Taoist
religion) hơn là Đạo học (Taoist philosophy).
VI. CẦU TIÊN
Cầu
tiên là một phương tiện liên lạc, tiếp xúc (thông công) giữa cõi người
hữu hình với các đấng tiên thánh trong cõi vô hình. Người cầu tiên có
thể do nhiều mục đích khác nhau: hoặc mượn thơ phú xướng họa để tiêu
khiển thanh tao, hoặc xin thuốc chữa bịnh, hoặc hỏi việc tương lai hậu
vận, hoặc hỏi thiên cơ quốc sự, hoặc để học hỏi trực tiếp đạo lý với
thần tiên. Thông thường các đấng thiêng liêng tùy duyên hóa độ, cũng vì
từ bi, cho nên mượn những mục đích bình thường của thế nhân (thơ phú,
xin thuốc...) để gây đức tin, rồi dẫn dắt đến chỗ học đạo thánh hiền.
Thời
kỳ Việt Nam còn dưới ách thực dân Pháp, ở tỉnh Nghệ An có nhiều nơi cầu
tiên, gọi là Thiện đàn. Ở miền Nam, đầu thế kỷ XX nhiều địa danh
và các đàn tiên đã gắn liền với lịch sử khai đạo Cao đài như đàn ở Miễu
Nổi (Bình Lợi, Gò Vấp), ở chùa Ngọc hoàng (Đất Hộ, tức Đa Kao), đàn Minh
thiện (Thủ Dầu Một), đàn Hiệp minh (Cái Khế, Cần Thơ), đàn ở núi Thạch
Động (Hà Tiên), đàn ở chùa Quan âm (núi Dương Đông, Phú Quốc), đàn ở phố
Hàng Dừa (đường Arras, Sài Gòn, nay là Cống Quỳnh).
Qua
mười chín thế kỷ, đạo Lão hầu như dần dần vắng bóng ở Việt Nam. Cho đến
đầu thế kỷ XX, khi đạo Cao đài ra đời, dường như có những mối liên hệ
gần gũi với đạo Lão. Đạo Cao đài thờ Ngọc hoàng Thượng đế (cũng là Cao
đài Tiên ông), Diêu trì Kim mẫu, Thái thượng Lão quân, v.v... cũng là
các đấng vốn được sùng bái, tôn thờ trong đạo Lão cổ truyền. Bản thân
các tín đồ Cao đài vẫn coi mình là học trò Tiên, tu đạo Tiên. Phương
tiện cơ bút là một điểm tương đồng khác giữa đạo Lão xưa và đạo Cao đài
nay. Việc dạy giáo lý qua hình thức thơ phú trong Cao đài cũng cho thấy
đường nét của văn hóa Lão-Trang. Như vậy, phải chăng sau mười chín thế
kỷ, đạo Lão ở Việt Nam không hoàn toàn biến mất? Phải chăng đã có một sự
hồi phục đạo Lão xưa trong một nền tôn giáo mới là Cao đài? Trả lời
thích đáng câu hỏi này cần có sự tiếp tục nghiên cứu trong một chuyên
khảo khác về Tam giáo Việt Nam, kể từ đầu thế kỷ XX trở đi.
Phụ Lục
Mấy bài thơ về Lương Tâm, Lương Tri
của Vương Dương Minh.
1. Nhĩ thân các các hữu Thiên Chân,
Bất dụng cầu nhân, cánh vấn nhân.
Đãn trí Lương Tri thành chức nghiệp,
Mạc tòng cố chỉ phí tinh thần.
Thân anh ai nấy có Thiên Chân,
Khỏi phải cầu nhân, phải vấn nhân.
Hãy dựa Lương Tri, tu đức nghiệp,
Giấy cũ đọc chi, phí tinh thần.
2. Lương tri tức thị độc tri thì,
Thử tri chi ngoại cánh vô tri.
Thuỳ nhân bất thức Lương Tri tại,
Tri đắc Lương Tri khước thị thuỳ?
Lương tri thấy được lúc độc tri,
Ngoài biết ấy ra há biết gì?
Ai ai cũng có Lương Tri sẵn,
Hồ dễ mấy ai biết Lương Tri?
Cá cá nhân tâm hữu Trọng Ni,
Tự tương văn kiến khổ già mê,
Nhi kim chỉ dữ chân đầu diện,
Chỉ thị Lương Tri cánh mạc nghi.
Trong tâm ai cũng có Trọng
Ni,
Kiến văn trùm lấp, mới u mê,
Nay ta đem chỉ Chân Đầu Diện,
Chính thực Lương Tri chớ khá nghi.
4. Vấn quân hà sự nhật động đồng,
Phiền não trường trung thố dụng
công.
Mạc dạo Thánh Môn vô khẩu quyết.
Lương Tri lưỡng tự thị Tham Đồng.
Sao anh suốt buổi chạy Tây, Đông,
Trong vòng phiền não, uổng dụng
công.
Đừng nói Thánh Môn không khẩu
quyết,
Hai chữ Lương Tri chính Tham Đồng.
(Hai chữ Lương Tri trong đạo Khổng
cũng có giá trị như bộ sách Tham Đồng Khế của Đạo Lão.)
5. Nhân nhân tự hữu định bàn
châm,
Vạn hoá căn nguyên, bản tại Tâm.
Khước tiếu tòng tiền điên đảo kiến,
Chi chi diệp diệp ngoại đầu tầm.
Trong ta ai cũng sẵn Nam Châm,
Căn nguyên vạn hoá sẵn nơi Tâm.
Nực cười ta trước nhìn lộn ngược,
Ngoại cảnh chi li vất vả tầm.
6. Vô thanh vô xú độc tri thì,
Thử thị Kiền Khôn, vạn hữu ki.
Phao khước tự gia vô tận tạng,
Diên môn trì bát, hiệu bần nhi.
Vô thanh, vô xú lúc độc tri,
Ấy thực Kiền Khôn, vạn hữu ki.
Vứt bỏ cửa nhà kho vô tận,
Từng cửa ăn xin, thực thảm thê.
Léon Wieger, Textes
Philosophiques, tr. 259-260.
[1] Phàm vật giả thủy ư Không, Thái Cực giả Không dã.
Không năng sinh Nhất, Nhất năng sinh Vạn, dĩ Vạn hoàn Nhất, Nhất phục
hoàn Không.
Không giả, vạn vật chi tổ dã. Học giả
yếu kiến Chân Không, vật kiến Giả Không, Yếu kiến Linh Không, vật
kiến Ngoan Không... ― Xướng
Đạo Chân Ngôn, q. 2, tr. 9.
[2] Đơn giả thiên địa chi bản dã. Hà dĩ vi Thiên Địa
vạn vật chi bản. Đơn giả, Đạo dã. Hư Vô chi thể dã. Hư Vô bất khả lập
danh. Cố thánh nhân dĩ Đạo danh chi. Hư sinh Nhất, Nhất sinh Vạn. Vạn
hoàn Nhất, Nhất hoàn Hư. ― Xướng
đạo Chân Ngôn, q. 3, tr. 19.
[3] Đạo Gia vị chi Hư, Phật gia vị chi Không. Không
năng vô sở bất biến, vô sở bất văn. Không vô sở cách, Không bản vô
lượng, vô biên. Cố nhân phát nhất niệm, đồng thất chi nhân bất tri,
nhi vô lượng vô biên Hư Không tri chi. Nhu gia chi thận độc uý không
cố dã. ―
Xướng
đạo chân ngôn,
q. 5, tr. 31.
[4] Đạo tán vi Đức: Les produits divers du Principe
sont les manifestations de sa Vertu. Đức vi Đạo chi kỷ dã: La chaine
infinie de ses manifestations, de la Vertu du Principe, peut
s'appeler le dévidage du Principe. ―
Les
Pères du Système Taoiste,
Léon Wieger p.
29.
[5] Léon Wieger, Les Pères du Système Taoiste,
Xung Hư Chân Kinh, chương I.
[6] Ce que nous appelons la Réalité n'est que la
projection au néant externe de l'image de notre Essence intime. ―
Pierre Francestel, Art et Technique, p. 198.
[7] Ngọc thư viết: Nhất, tam, ngũ, thất, cửu, Đạo chi
phân nhi hữu số. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Đạo chi biến nhi hữu
tượng. Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung, Đạo chi liệt, nhi hữu vị. Thanh,
bạch, xích, hoàng, hắc, Đạo chi tán nhi hữu chất. Số qui ư Vô Số,
Tượng phản ư Vô Tượng, Vị chí ư Vô Vị, Chất hoàn ư Vô Chất. Dục Đạo
chi vô số, bất phân chi tắc vô số hĩ. Dục Đạo chi vô Tượng, bất biến
chi tắc vô tượng dã. Dục Đạo chi vô Vị, bất liệt chi, tắc vô Vị hĩ.
Dục Đạo chi vô Chất, bất tán chi, tắc vô Chất hĩ. Vô Số, Đạo chi
nguyên dã, Vô tượng Đạo chi Bản dã, Vô Vị Đạo chi Chân dã. ―
Linh
Bảo Tất Pháp, tr. 12a.
[8] Cố viết: Thánh Nhân dĩ thử tẩy tâm thoái tàng ư
mật, kỳ trung Bản Hư Nguyên dữ Thái Hư hỗn nhi vi Nhất. Cố viết:
Thánh Nhân dữ Thái Hư đồng thể. ―
(Xem Tính Mệnh Khuê Chỉ, nơi hình Trung Tâm Đồ, q. Nguyên
Tr. 10b)
[9]
Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Lợi, tr. 9b.
[10] Thuyết Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể.
Vũ Trụ này do Nhất Thể phóng phát ra,
đã được chứng minh là một học thuyết dành cho các cao nhân, danh
phái, còn quần chúng thì tin và Thuyết Tạo Dựng, mà các Đạo giáo
Công Truyền Âu Châu như Thiên Chúa Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo
giảng dạy. (Xem trang 11 và 12 chương này.)
Trong tập Khảo Luận về Thuyết Thiên
Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể của tôi, tôi đã chứng minh rằng có nhiều
hiền thánh Công Giáo (mystiques) như John of the Cross, Teresa of
Avila, và nhiều hiền thánh Do Thái giáo thuộc Mật Tông Kaballah, hay
nhiều Hiền Thánh Hồi Giáo thuộc môn phái Sufism (Bạch Y) cũng theo
Thuyết Phóng Phát, Tán Phân, và chủ trương Thượng Đế ở trong lòng
sâu vạn hữu.
Đây xin trưng thêm 1 tài liệu về một
học thuyết của một vị thánh hiền Hồi Giáo mới chết năm 1934: Đó là
Ông Cheikh Ben Aliona. Tài liệu này được đăng tải trong Lotus
Bleu, Paris, số 39, tr. 89-106, và trong Gabriel Gobron,
Histoire du Caodaisme, tr. 92.
Nội dung như sau:
Học Thuyết của Ben Aliona như thế nào?
Aliona chủ trương: Thượng Đế duy nhất
và Nhất Thể. Thế giới hữu hình, hữu hạn này chỉ là những màn che
«barzakh» làm cho chúng ta không trông thấy thế giới chân thực (Thế
giới vô cùng).
Thế giới này do Thượng Đế phóng phát
ra, ngược lại với Thánh Thư Hồi giáo Coran. Coran chủ trương
thế giới này đã được tạo dựng. Chủ trương thế giới này được tạo dựng
dành cho quần chúng (Focara), còn cái Vi Diệu (Le Sirr= caché), thì
chỉ dành cho một số môn đệ hiểu được áo nghĩa (bathen). Thuyết Phóng
Phát ăn khớp với Thuyết «Thượng Đế nội tại». Ai hiểu được Chân Thể
mình sẽ biết Thượng đế; ai thăm dò Chân Thể đó sẽ tới gần Thượng
Đế). «Thuyết Thượng Đế nội tại» cũng không loại trừ «Thuyết Thượng
Đế siêu việt.»
Nguyên văn chữ Pháp:
Les doctrines de Ben Aliona? Unité de
Dieu (le monde temporel n’est qu’un exemple de voiles» barzakh» nous
cachant le monde réel: l’infini), Univers émané de Dieu, à l’inverse
du Coran créationiste pour la masse des Focara, croyants ordinaires;
le Sirr (caché) est réservé à certains disciples capables de saisir
le «Bathen» (le sens occulte), émanationisme s’accordant avec
l’immanentisme (qui pourrait connaitre son proprium, connaitrait
Dieu; qui le scrute avec attention, s’approche de Dieu); doctrine de
l’immanence n’excluant pas la transcendance...
Quyển Histoire du Caodaisme,
nơi tr. 91, khi mô tả lại đời sống của Ben Aliona, có những dòng bất
hủ sau đây:
«Nhờ ở phái Soufisme (Bạch Y), ông
biết được Mật giáo của Hồi Giáo, và nhờ Mật giáo đó, ông có được
khuymh hướng vươn lên tới Đại Đạo (bao quát Do Thái Giáo, Thiên Chúa
Giáo, Hồi Giáo, v.v...) Tất cả những mặc khải trước sau đều bổ sung
lẫn nhau, và tất cả đều cùng do một nguồn mặc khải siêu việt:»Các
đấng tiên tri, dẫu là vạn người - theo một ngạn ngữ của môn phái
Soufisme - cũng chỉ là Một, cũng chỉ là những tia lửa của một thứ
lửa duy nhất.
[11] Thiên địa vị phân, Thái Cực tại thiên địa chi
thuỷ; Thiên địa ký phân, Thái Cực tại Thiên địa chi trung. ― Huỳnh Nguyên Kiết, Lạc Dục Đường
ngữ lục, tr. 50.
[12] Tiên Học, tr. 30.
[13] Trang
Tử, Nam Hoa Kinh, Tề Vật Luận.
[14] Từ Viên Tiên sư chân kinh, tr. 39a.
[15]
Ibidem, tr. 17a.
[16] Ảo hoá chi thân, nhục thân dã. Ảo hoá chi tâm,
nhân tâm dã. Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân, Ý, câu ảo thân chi sở xuất.
Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục, giai Nhân Tâm chi sở xuất. Lục căn môn
đầu, dạng dạng túc dĩ táng mạng. Thất tình, vọng niệm, kiện kiện
năng dĩ chí tử. Chí ư Chân Chính chi thân, Pháp Thân dã. Chân Chính
chi tâm, Thiên Tâm dã. Ngũ tính nhân duyên, câu giai thành Đạo chi
chủng. Ngũ ban chí bảo, tận hệ luyện đơn chi tài. Thái chi, tu chi,
khởi tử, hồi sinh, phản lão, hoàn đồng.
Đãn thử thân «Thiên Tâm», nhân đa bất
thức, sở dĩ Pháp Thân mai một, ảo thân dụng sự; Thiên Tâm thoái vị,
Nhân Tâm đương quyền.
Thử Thiên Tâm bất cấu, bất tịnh, chí
hư, chí linh, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông. Thị tính chi
sở ký dã. ― Cung Tùng Tiên, Tiên Học Tập Cẩm,
tr. 215.
[17] Thỉnh vấn Thái Cực chi lý.
Sư viết: Thái Cực giả ngô thân chi
Thiên Tâm dã. Thích Thị viết: Viên giác, Đạo viết: Kim Đơn, Nho
viết: Thái Cực.
Sở vị Vô Cực nhi Thái Cực giả, bất khả
cực nhi cực chi chi vị dã. Phàm nhân thuỷ sinh chi sơ, chỉ thử nhất
điểm Linh Quang. Sở dĩ chủ tể hình hài giả, tức thử Thái Cực dã. Phụ
mẫu vị sinh chi tiền, nhất phiến Thái Cực, nhi kỳ sở dĩ bất thuộc hồ
hình hài giả, nãi vi Vô Cực dã.
Dục thức Bản Lai Chân Diện Mục,
Vị sinh thân xứ, nhất luân minh.
Liêu Dương diện mục vấn đáp thiên.
tr. 2b.
[18] Lý
Lạc Cầu, Tiên Học diệu tuyển, tr. 86.
Nguỵ Bá Dương, Chu Dịch Tham Đồng
Khế phát huy. tr. 18a.
Nguỵ Bá Dương giải Chân Nhân là
Nguyên Thần, và Giải Thâm Uyên là Thái Uyên, là Nê Hoàn Cung, là
Thiên Cốc, là Thiên Đường,v.v...
Sách viết: Chân Nhân tức Nguyên
Thần dã. Thâm Uyên tức Thái Uyên dã. Dị danh chúng đa, kim thí cử
nhi ngôn chi viết:
Nê Hoàn Cung, Lưu Châu Cung, Ngọc
Thanh Cung, Thuý Vi Cung, Thái Vi Cung, Thái Ất Cung, Thái Huyền
quan, Huyền Cung, Huyền Môn, Huyền Thất, Huyền Cốc, Huyền Điền, Sa
Môn, Đệ Nhất Quan, Đô Quan, Thiên Quan, Thiên Môn, Thiên Cốc, Thiên
Điền, Thiên Tâm, Thiên Luân, Thiên Trục, Thiên Nguyên, Thiên Trì,
Thiên Căn, Thiên Đường, Thiên Cung, Kiền Cung, Kiền Gia, Giao Cảm
Cung, Ly Cung, Thần Cung, Thần Thất, Thần Quan, Thần Phòng, Thần Đô,
Huyền Đô, Cố Đô, Cố Hương, Cố Khưu, Cố Lâm, Cố Cung, Tử Phủ, Tử Kinh
Thành, Tử Kim Đỉnh, Cống đỉnh, Ngọc Đỉnh, Ngọc Thất, Ngọc Kinh, Ngọc
Vũ, Dao Phong, Đệ Nhất Phong, Tối Cao Phong, Chúc Dung Phong, Côn
Lôn Đỉnh, Không Động Sơn, Bồng Lai, Thượng Đảo, Thượng Cung, Thượng
Kinh, Thượng Huyền, Thượng Nguyên, Thượng Cốc, Thượng Thổ Phủ,
Thượng Đan Điền. Kỳ danh tuy chúng, kỳ thật tắc nhất dã.
Thuý Hư Thiên vân: Thiên hữu
thất tinh, địa thất bảo. Nhân hữu thất khiếu quyền qui não.
Thái Cổ tập vân: Kim đơn vận
đáo Nê Hoàn Huyệt, Danh tính tiên tương ký Thiên Đô, thị dã.
Cố Đế Nhất hồi nguyên chi Đạo, tố lưu
bách mạch, thượng bổ Nê Hoàn. Não thực tắc Thần toàn, Thần toàn tắc
hình toàn dã.
Kim Nguỵ Công vị Chân Nhân tiềm thâm
uyên, phù du thủ qui trung giả, tuỳ chân tức chi vãng lai, nhiệm
chân khí chi thăng giáng. Tự chiêu chí mộ, Nguyên Thần thượng thê ư
Nê Hoàn dã. Huỳng Đình Kinh vân: Tử dục bất tữ tu Côn Lôn.
Tĩnh trung ngâm vân: Ngã tu Côn Lôn đắc Chân Quyết. Phục Mệnh
Thiên vân: Hội hướng ngã gia viên lý, tài bồi nhất mẫu Thiên
Điền. Hoàn nguyên Thiên vân: Ngộ Đạo hiển nhiên minh khuếch
lạc, nhàn nhàn đoan toạ vận Thiên Quan.
Thử nãi chí giản chí dị chi đạo...
Chu Dịch Tham Đồng Khế phát
huy, tr. 18a.
[19] Tính Mệnh Khuê Chỉ, tr. 8b.
[20] Kim Đơn yếu quyết, tr. 1b.
[21]
Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Hanh, tr. 11a.
[22] Tiên Học Từ Điển, tr. 76. ― Thượng Phẩm Kim Đơn bí quyết,
tr. 2b.
[23] Nam Hoa Kinh, XVII, Thu Thuỷ, A.
[24] Thượng phẩm Đơn Pháp Tiết Yếu, tr. 2b.
[25] Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 139.
[26]
Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Nguyên, tr. 13. Chương Thuận Nghịch Tam
quan Đồ.
[27] Tiên học Diệu Tuyển, tr. 184.
[28] Thái Thượng viết: Ngô tòng vô lượng
kiếp lai, quan tâm đắc Đạo nãi chí Hư Vô. 太
上 曰: 吾 從 無 量 劫 來 觀 心得 道, 乃 至
虛
無. ― Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Hanh, tr. 3a.
[29]
Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Hanh, tr. 2.
[30] Trương Chuyết tú tài. ― Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Hanh,
tr. 5.
[31]
Tiên
Học Diệu Tuyển, tr. 121.
[32]
Ib. tr. 139.
[33] Nhược nhất niệm bất sinh tức thoát sinh tử. Hướng
thử nhất niệm bất sinh xứ, tức kiến Bản Lai Diện Mục. ― Tiên Học diệu tuyển, tr. 141.
[34]. P. Léon Wieger, Textes Philosophiques,
Confucianisme, Taoisme, Bouddhisme, Hien Hien 1930, tr. 333.
[35] Tùng
giang, Dương cảnh Dương Duy Nhất, Tiên Học Diệu Tuyển, tr.
140.
[36]
Tính
Mệnh Khuê Chỉ, q. Hanh, tr. 4b.
[37] Đơn tự, đầu tượng Nhật, cước tượng Nguyệt. Trung
Nhầt điểm vi thử Châu. Nhất hoạch vi đắc. Hán dĩ tiền vị chi Đạo,
Hán dĩ hậu, vị chi Đơn. ― Tiên Học Từ Điển, tr. 62.
[38] Đơn giả, đơn dã. Duy Đạo vô đối, cố viết Đơn.
Thiên đắc Nhất dĩ thanh, địa đắc nhất dĩ doanh, nhân đắc Nhất dĩ
trường sinh.
[39] Kết Đơn chi đạo, Nhất nhi dĩ hĩ...Nhất vô
tha...Hư nhi dĩ hĩ. ― Xướng Đạo Chân Ngôn, q. 2, tr.
11.
[40] Tâm tức Đơn, Đơn tức Tâm. ― Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 231.
[41] Đơn tức Đạo dã, Đạo tức Đơn dã. ― Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 263.
[42] Đơn giả, Thiên Địa vạn vật chi bản dã, hà vị dĩ
vi Thiên Địa vạn vật chi bản, viết: Đơn giả, Đạo dã. Đạo giả, Hư Vô
chi thể dã. Hư Vô bất khả lập danh, cố thánh nhân cưỡng dĩ Đạo danh
chi. Hư sinh Nhất, Nhất sinh Vạn, Vạn qui Nhất, Nhất qui Hư. ― Xướng Đạo Chân Ngôn, q. 3, tr.
19a.
[43] Căn bản do tòng Thái Cực tầm. ― Đại Đỗng chân kinh, tr. 4b.
[44] Đỗng kiến Bản Lai Diện Mục, chứng triệt Nguyên
Căn. ― Xướng Đạo Chân Ngôn, q. 1, tr.
2b.
[45] Kim
đơn yếu quyết, tr. 1b.
[46]
Trương Tam Phong, Đạo thuật hối tông, q. 3, tr. 101.
[47] Xướng Đạo Chân Ngôn, q.2, tr. 8.
[48] Nhất lạp túc trung tàng thế giới. ― Tiên học,
tr. 30.
[49] Kim giả, bất hoại chi Pháp Thân, Đơn giả, viên
thành chi thực tướng. ― Tiên Học, tr. 9.
[50] Thất phản giả, phản bản. Cửu hoàn giả, hoàn
nguyên. ― Hoàn Nguyên Thiên, tr. 4a. Hậu
tự.
[51] Trương Tam Phong Đạo thuật hối tông, q. 2, tr. 59.
[52] Trương Tam Phong Đạo thuật hối tông, q. 2, tr. 56.
[53] Thuận
kỳ cơ nhi hành nhân đạo. ― Tôn Bất Nhị nữ đơn thi chú, tr.
20.
[54]
Nghịch kỳ cơ, nhi hành Tiên Đạo. ― Ib. tr. 20.
[55] Sinh
cơ ngoại phát vi Thuận. ― Ib. tr. 20.
[56] Sinh
cơ nội liễm vi Nghịch. ― Ib. tr. 20.
[57] Kim
đơn Đại Đạo tòng hữu vi nhi nhập vô vi, tức Liễu Mệnh nhi kiêm Liễu
Tính, phương thị Thần Hình câu diệu. ― Tiên học diệu tuyển, tr. 99.
[58] Tiên Học diệu tuyển, tr. 383.
[59] Cố
tòng thượng thánh hiền cầu Đạo, đô bất hướng ngoại trì cầu, tĩnh nhi
cầu chi ư nhất tâm, vô bất cụ túc. ― Xướng Đạo Chân Ngôn, q. 4, tr.
35.
[60] Tôn Bất Nhị nữ đơn thi chú, tr. 13-14.
[61] Tôn Bất Nhị nữ đơn thi chú, tr. 14.
[62] «Nhận vi Đạo tự Hư Vô sinh vạn vật, thị thuận sinh quá trình, nội đơn
tu luyện tắc phản thử. Đương phục qui Hư Vô, dữ Đạo hợp nhất.
Đại Đơn diệu dụng pháp Kiền Khôn,
Kiền Khôn vận hề, ngũ hành phân.
Ngũ Hành thuận hề, thường Đạo hữu sinh
hữu tử,
Ngũ hành nghịch hề, đơn thể thường
linh, thường tồn.»
認 為 道 自 虛 無 生 萬 物, 是 順 生 過 程. 內 丹 修 鍊
則 反 此, 當復 歸 虛 無, 與 道 合 一.
大 丹 妙 用 法 乾 坤,
冢坤 運 兮 五 行 分.
眇行 順 兮, 常 道 有 生 有 死.
眇行 逆 兮, 丹 體 常 靈 常 存.
Trung Quốc Đạo Giáo, Khanh Hi Thái chủ biên, tr. 305.
[63] Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Hanh, tr. 10a.
[64] Xem Thái Thượng bảo Phiệt, q. Hiếu tr. 16.
[65] Tính Mệnh Khuê chỉ, tr. 372.
[66]
Bát quỳnh đơn: 1. Đơn sa (Chu sa): Sulfure de Mercure - 2. Hùng
hoàng: Réalgar, Sulfure d’Arsenic rouge - 3. Thư Hoàng: Sulfure
d’arsenic jaune - 4. Lưu Hoàng: Soufre - 5. Nhung diêm: Borate de
Soude - 6. Vân Mẫu: Mica - 7. Tiêu Thạch: Salpêtre - 8. Không thanh
(Sulfate de Cuivre).
[67] Cửu chuyển hoàn đơn gồm 14 vị. Ngoài tám vị của bài Bát quỳnh
đơn còn có 6 vị khác là: Bạch thạch anh (quartz blanc) - 2. Tử thạch
anh (quartz violet) - 3. Thanh đại (Plombagine) - 4. Dương khởi
thạch (Actiolite) - Kim nha thạch (dent de tigre) - 6. Hồ phấn
(Céruse). (Xem Henri Doré, Variétés sinologiques, No
66, Chapitre II, Section B, Art. V. La pilule d’immortalité.
[68] Tiên Học diệu Tuyển tr. 9. |