THAM ĐỒNG KHẾ TRỰC CHỈ
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ khảo luận & bình dịch
Tham Đồng Khế Tam
Tướng Loại của Thuần Vu Chân Nhân
»
Mục Lục |
Thượng thiên 1 2
3 4
5 |
Hạ thiên
THAM ĐỒNG KHẾ TAM TƯỚNG LOẠI HẠ THIÊN
參 同 契 直 指 三 相 類
下 篇
Đông Hán Thúc Thông, Thuần Vu Chân Nhân soạn
東 漢 叔 通 淳 于 真 人 撰
Th ê Vân Sơn, Ngộ Nguyên Tử, Lưu
Nhất Minh giải
棲 雲 山 悟 元 子 劉 一 明 解
Ảo Thụ Tam Canh, Hạ Đắc Bằng khan
tử
媼 樹 三 庚 賀 得 朋 刊 梓
Hậu Học Ti êu Nam Phổ trùng khan
後 學 蕭 南 浦 重 刊

Hạ thiên
下 篇
Đỉnh Khí Ca
鼎 器 歌
Tóm tắt về phép Luyện Đơn
Viên tam ngũ, thốn nhất
phân, Khẩu tứ bát, lưỡng thốn thần.
圓 三 五, 寸 一
分, 口 四 八, 兩 寸 唇.
Tạm dịch: Tròn ba năm, qui về Nhất thốn. Khẩu bốn tám, Môi 2 thốn.
(Tròn là Viên, là Đại Dược. Xem bài thơ 18, trong q. I, Ngộ Chân trực
chỉ «Tam ngũ nhất đô tam cá tự»).
(Mồm là Phương là Biến Hoá. 4+ 8+ 2 = 14. 14 là trăng chưa tròn, ý nói
tu luyện không nên đi tới Kháng Dương. Xem quẻ Tiểu Súc, hào Thượng)
Bài này tuy có tên là Đỉnh khí ca, nhưng Dược Vật, Hỏa Hầu đều có đủ
trong đó.
Viên là Bất Thiên, Bất ỷ, hoạt hoạt
bát bát. Còn gọi là Doãn chấp quyết Trung. Tam
là sinh số của Mộc, Ngũ là sinh số của
Thổ. Nhất là sinh số của Thủy. Nhất, Tam,
Ngũ đều là Dương số. Cho nên gọi là Tròn. Mồm hình vuông. Phương là biến
hoá, tài chế, tùy thời vận dụng chi vị. Tứ là sinh số của Kim. Bát là
thành số của Mộc. Nhị tứ, bát đều là Âm số. Cho nên gọi là Khẩu. Khẩu là
Hô Hấp, xuất nhập chi đạo. Một Hô là Dương là Thân, Chủ sinh, Tượng Bát
Mộc. Nhất Hấp, là Âm là Khuất, Chủ Thu. Tượng Tứ Kim. Môi gồm trên dưới
2 miếng, chủ Động. Thần động thì Khí Hư (hà hơi). Tượng nhị sinh Hoả.
Nhất, Tam, Ngũ là Dương Hỏa, thuộc Trời. Thiên tượng Tròn, là Kiền Đỉnh.
Nhị, Tứ, Bát là Âm Số. Thuộc đất. Đất hình vuông, là Khôn Lư. Viên chủ
Hạp, phương chủ Tịch. Lấy Viên làm thể, lấy phương làm Dụng. Lấy Kim Mộc
Thủy Hỏa Thổ, toản thốc nhất khí làm chuẩn tắc, đỉnh Khí do thế mà thành
vậy,
Trường xích nhị, hậu
bạc quân.
長 尺 二, 厚 薄 均.
Tạm dịch: Dài tấc hai, hãy quân bằng dày mỏng.
(Tấc 2 là 12 phân tượng trưng 12 tháng)
Trường Xích nhị là 12 thốn. Trong một năm thì là 12 tháng. Trong một
tháng thì gọi là 12 hầu. Trong một ngày thì gọi là 12 giờ.
Hậu là nhiều, Bạc
là ít. Quân là tương đình.
Lấy Niên, Nguyệt, Nhật thời, lục Âm, lục Dương, tiến thoái chi tiết, làm
Âm Hỏa Dương Phù điều đình chi độ số vậy.
Phúc tề tam, tọa thùy
ôn.
腹 齊 三, 坐 垂 溫.
Tạm dịch: Ở trong bụng 3 ngày, ngồi yên cho ấm tới. (Mồng 3 quẻ Chấn tới
sẽ đem lại sức nóng của Dương).
Phúc là đỉnh phúc (ruột đỉnh) để
chứa thuốc. Tam là Tinh Khí Thần đại dược.
Phúc tề tam là tinh khí thần tam dược tề bị. Cho nên Dịch nói:
Đỉnh hữu thật là vì vậy. Thế là ngồi chẳng
động chẳng lay vậy. Thùy là trầm tiềm sung
mãn. Ôn là Sung hoà.
Tọa thùy Ôn là Tinh Khí Thần ngưng tụ nhất xứ, thường trầm tiềm
sung hoà, nhất ý bất tán.
Đạo Đức Kinh nói:
Đạo xung nhi dụng chi 道 沖
而 用 之.
Vậy
Âm tại thượng, Dương hạ
bôn.
陰 在 上, 陽 下 奔.
Tạm dịch: Âm ở trên, Dương ở dưới.
Âm là Thủy, tượng Khôn. Trong đồ có
nước. Dương là hỏa, tượng Kiền.
Trong Đỉnh có Lửa. Thủy ở trên, Lửa ở dưới. Thủy hỏa phanh tiễn. Hỏa bất
táo, thủy bất hàn, Thuỷ Hỏa Tương tế, Tinh dưỡng Thần nhi Thần cố tinh
vậy.
Thủ Vĩ Vũ, trung gian
Văn. Thủy thất thập, chung tam tuần, nhị bách lục. Thiện điều quân.
首 尾 武, 中 間 文. 始 七
十, 終 三 旬, 二 百 六. 善 調 勻.
Tạm dịch: Đầu và cuối dùng Vũ Hoả, giữa thì dùng Văn Hoả, Mới đầu là 70,
giữa là 30, còn 260 ở giữa thì điều hoà cho khéo (70+ 30+ 260 = một năm
360 ngày. Công phu lúc đầu và lúc cuối thì phải mạnh, giữa chừng thì
khoan hoà. (Âm trên dương dưới là Thuỷ Hoả Ký tế, là Âm Dương giao
Thái.)
Tu đơn chi công, trước phải luyện Vũ Hoả để Luyện Kỷ. Sau cùng phải
dùng Văn hỏa để Ôn Dưỡng. Vì Luyện Kỷ chưa thành thục, thì Hoàn Đơn
không ngưng kết; Ôn Dưỡng không đủ thì Thánh Thai bất thành. Còn ở trung
gian ngưng kết Thánh Thai, chỉ cần dùng ít nhiều công phu văn hỏa, thì
Tạo Hóa sẽ tới tay. Cho nên nói: Thủ vĩ Vũ, trung
gian Văn. Nhưng Vũ Hỏa nơi thủ vĩ, cũng nên phân biệt. Kim
Đạo lấy luyện kỷ làm đầu, lấy Ôn Dưỡng làm cuối.
Nhân tâm con người từ lâu đã phóng đãng, tính hư tích tập đã dày, thật
là cái hại lớn cho công việc tu hành vậy. Rất khó mà hàng phục được.
Luyện kỷ phải luyện tới độ Vạn hữu giai không, nếu không Đơn khó mà
thành. Vũ hỏa chi công đó thật đa dạng. Khi đơn đã kết xong, thì
phải phòng nguy, lự hiểm, mộc dục ôn dưỡng, nếu có chút biếng lười, thì
thánh thai thành rồi cũng hư. Chính vì thế mà cũng dùng Vũ Hỏa. Tuy cũng
dùng Vũ Hỏa, nhưng khi sau mười tháng, thai đã hoàn bị, thì phải nghỉ
ngay. So với luyện kỷ chi công thời ít hơn. Ví như 100 ngày, Dùng 70
ngày Vũ Hỏa để Luyện Kỷ, 30 ngày Vũ Hỏa để Ôn Dưỡng. Còn dư 260 ngày,
thì cũng phải điều quân hỏa hầu, không được sai sót. Cho nên Tiên Ông
theo chu kỳ mặt trời là 360, sánh công dụng của đơn đạo hỏa hầu, chứ
không phải lấy 360 ngày làm số ngày của Hỏa Hầu. Các học giả nên tường
biện.
Âm hoả bạch, hoàng nha diên. Lưỡng thất tụ, phụ
dực nhân.
陰
火
白.
黃
芽
鉛.
兩
七
聚,
輔
翼
人.
Tạm dịch: Âm Hoả trắng, Dương hoả là Hoàng Nha Diên (Âm hoả sinh
dược, Dương hảo thành dược.) Hai bảy tụ (2 là sinh số của Hoả, 7 là
thành số của Hoả). Đều giúp người.
Âm hoả là Hống Tính chi hỏa. Dương hỏa là Diên Tình chi hỏa.
Lưỡng (hai) là Sinh Số của hỏa.
Thuộc Âm. Thất là Thành số của Hỏa, thuộc Dương. Khi nội dược hợp với
Đơn đầu chi tế, dùng Nhất điểm Hư Linh chi hỏa, để đoàn luyện Diên Tình.
Hắc trung sinh Bạch. Hư Thực sinh quang. Cho nên nói:
Âm Hỏa bạch.
Hoàng Nha diên bạch là vì còn có Âm Chất. Hoàng là Âm tận
Dương thuần vậy. Long Hổ Kinh nói: Khiết bạch kiến
bửu, khả tạo Hoàng Dư. Hoàng Bạch chi nghĩa, chính là trong ngoài
một lửa, 1 sinh 1 thành, mới đầu là Âm Hỏa sinh Dược, rồi đến Dương Hỏa
thành Dược. Hai khí Âm Dương tương tụ, từ sống đến chín. Chân nhân khí
tụ thì thần toàn. Chờ giờ phi thăng. Cho nên nói: Phù dực nhân.
Phù dực là phù trợ mà đi vậy.
Nhân là Thánh Thai chi Chân Nhân. Ý
nói: Dùng Âm Dương nhị khí mà thành toàn thánh thai vậy,
Thiệm lý não, định thăng huyền, tử xứ trung, đắc
an tồn, lai khứ du, bất xuất môn, tiệm thành đại. Tính tình thuần, khước
qui Nhất. Hoàn Bản Nguyên. Thiện ái kính, như Quân Thần, chí nhất chu,
thậm tân cần. Mật phòng hộ, mạc mê hôn, lộ đồ viễn, phục u huyền, nhược
đạt thử, hội Càn Khôn, đao khuê chiêm, tịnh phách hồn, đắc trường sinh,
cư tiên thôn.
贍 理 腦, 定 昇 玄, 子 處 中, 得 安 存, 來 去 遊, 不 出 門, 漸 成 大. 性 情 純, 卻 歸 一.還 本 元. 善 愛
敬, 如 君 臣, 至 一 周, 甚 辛 勤. 密 防 護, 莫 迷 昏, 路 途 遠, 復 幽 玄. 若 達 此, 會 乾 坤, 刀 圭 霑,
淨 魄 魂, 得 長 生, 居 仙 村.
Tạm dịch:
Hãy dưỡng nuôi óc chất,
Hãy tu tập định tĩnh.
Thánh thai trong người, Sẽ an toàn.
Qua lại ngao du,
Không ra khỏi cửa, dần dần lớn khôn.
Tính tình thuần, sẽ qui nhất,
Trở về bản nguyên.
Sẽ kính yêu nhau, như quân thần.
Hết một vòng, càng cẩn thận,
Phải đề phòng cẩn
mật,
Không được hôn mê,
Đường sá xa xôi,
Lại rất u huyền,
Nếu đạt tới đây,
Sẽ khiến Kiền Khôn hợp nhất.
Sẽ thành Đơn.
Hồn phách sạch,
Được trường sinh,
Vào làng Trời.
Tu Chân chi đạo là đạo Cùng lý, Tận Tính dĩ chí ư Mệnh. Nếu không tu
Mệnh, làm sao có thể Dưỡng Tính. Mệnh là những chuyện liên quan đến Sắc
Thân. Tính là những chuyện liên quan đến Pháp Thân .
Tu mệnh chưa xong, thì Sắc Thân khó lìa, tu
tính chưa xong thì Pháp Thân khó thoát. Tiên kinh nói:
Chỉ tu Mệnh, bất tu Tính,
只
修
命
不
修
性
Thử thị tu hành đệ nhất bệnh.
此
是
修
行
第
一
病
Chỉ tu tổ Tính bất tu đơn,
只
修
祖
性
不
修
丹
Vạn kiếp Âm Linh nan nhập thánh.
萬
劫
陰
靈
難
入
聖
Tính mệnh song tu,
性
命
雙
修
Phương vi liễu đáng.
方
為
了
當
Trên đây nói: Lưỡng Thất tụ, phụ dực nhân.
Thánh thai đã ngưng kết, thì Mệnh Cơ kiên cố. Từ đó cho thấy: Tu tính
cốt để thoát Pháp Thân vậy. Đoạn trên đây nói về Tu Tính. Tu Tính là
Công Phu diện bích, xuất thần. Diện Bích không phải là là Tĩnh Tọa. Đó
là Đối Cảnh vong tình, không còn Hữu Vô, Vạn vật đều không. Như quay mặt
vào tường, không còn thấy cái chi. Bàng Môn gọi tĩnh tọa là Diện bích,
như vậy đâu có hiểu gì là Diện Bích. Tu tính là diện bích chi lý.
Thiệm lý não giả. Thiệm là Dưỡng. Lý
là Tính vậy. Óc ở chỗ cao nhất trong con người, ở sau đầu.
Ở chỗ tai mắt nghe nhìn không tới được. Thế
là Dưỡng tính. Dưỡng Tính phải tới
nơi thanh sắc câu hoá, không vô sở không, tới chỗ chí tĩnh, mới là cùng
cực công phu. Bởi vì Tu Đạo mà không tới được chỗ
chí tĩnh, thì chẳng những Dương Thần không hiện ra được, mà Âm Thần cũng
không hiện ra nổi. Nếu mà Dưỡng Tính tới được chỗ Cực Tĩnh, thì Tính
Mệnh đều tu xong, hình thần đều hoàn mỹ, tới kỳ sẽ thoát hoá,
nhất định sẽ lên tới Huyền Đô, tức như Phật Tổ đã nói: Ta vì ngươi sẽ
bảo đảm chuyện này, quyết định sẽ thành tựu. Nhưng khi chưa tới kỳ thoát
hóa, thì không nên vội mà phải ôn dưỡng.
Cho nên nói: Tử Xứ trung, đắc an tồn. Tử là
Thánh Thai, là Pháp Thân. Đương lưỡng thất tụ, phụ
Dực Nhân. Thế là Thánh Thai hoàn toàn. Như con trong bụng mẹ, rất
là an ổn mà chờ thời vậy. Khi thời cơ đã đến, thì cứ theo tự nhiên mà
tới lui. Nhưng Pháp Thân tuy có thể khứ lai, xuất nhập, thì cũng không
được rời xa thân xác mà đi chơi xa. Khi dần dần đã già dặn rồi, khi tính
tình đã thuần nhất rồi, khi nguyên bản đã kiên cố rồi, thì mới được đi
chơi xa. Không hôn không mê, khoảnh khắc đã đi nghìn dặm. Tụ thời thành
hình, tán thời thành Khí vậy. Ái kính như quân thần hết lòng hộ trì nhau
vậy. Tân cần chí nhất chu, sợ bị hôn
mê vậy. Như vậy là Đạo đã tới mức thân ngoại hữu thân vậy. Khi tới được
chỗ Bất Sinh, Bất diệt, tuy rằng đường đi u viễn, huyền nhi hựu huyền,
không có cùng tận.
Nếu lại an Lô, lập Đỉnh lại, thì Con sẽ
sinh Cháu, cháu sẽ sinh Chi. Biến hóa vô cùng, không sao lường được.
Nếu các học giả hiểu được công án trên đây, thì đất trời cũng dễ gặp,
Đao khuê có thể ăn được.
Khi hồn phách đã Tĩnh, thì
sẽ được trường sinh và sẽ ở Tiên Thôn.
Chắc là có được như vậy.
Lạc đạo giả, tầm kỳ căn, Thẩm Ngũ Hành, định
thù phân, đế tư chi, dĩ tu luận. Thâm tàng thủ, Mạc truyền văn. Ngự Bạch
hạc, Giá Long Lân, Du Thái Hư, yết Tiên Quân, Thụ Đồ Lục, Hiệu Chân
Nhân.
樂 道 者, 尋 其 根, 審 五 行, 定 銖 分, 諦 思 之, 不 須 論.
深 藏 守, 莫 傳 文. 御 白 鶴, 駕 龍 麟, 游 太 虛, 謁 仙 君, 受 圖 箓, 號 眞 人.
Tạm dịch:
Người yêu Đạo,
Tìm căn nguyên,
Xem xét Ngũ Hành,
Định cân lượng.
Suy nghĩ kỹ càng,
Không biện luận nhiều,
Hãy giữ kín,
Không viết thành văn,
Cưỡi bạch hạc,
Cưỡi lân rồng,
Chơi nơi Thái Hư,
Yết Thiên Quân,
Ghi tên vào Tiên Tịch,
Và gọi là Chân Nhân.
Thế gian có nhiều kẻ tu mù quáng. Hoặc là Tịch Diệt Thủ Không. Hoặc Khuê
Đơn tà hành. Hoặc Lô Hỏa Phục Thực, Hoặc Bàn Tinh, Vận Khí. Tất cả đều
không biết Căn Bản của Tính Mệnh. Cho nên người tu đạo thì đông như Lông
Trâu, thành đạo thì ít như Lân giác. Tiên Ông từ bi, đề xuất ra 2 chữ
Tầm Căn, để thức tỉnh con người. Căn là Tiên Thiên
Hư Vô chi nhất khí. Nhất thời sinh thiên, sinh địa, sinh
vạn vật. Đó là gốc gác của Đạo. Người học Đạo,
năng tri kỳ Nhất tắc vạn sự tất. Người tu đạo,
năng đắc kỳ Nhất nhi Kim Đơn kết.
Muốn tìm căn bản, phải mau tìm được thày để cho khẩu quyết, lại phải
hiểu thế nào là Ngũ Hành sinh khắc, và toản thốc (gom góp lại) ra sao.
Thù Lạng của Đơn vật, phân số của Hỏa Hầu. Khi đã biết khẩu quyết, sẽ
hiểu được Diệu quyết. Khi đã hiểu ý phải quên lời. Người đại trí giống
như kẻ ngu si, người thợ giỏi y như người thợ vụng. Cứ thế thi hành. Khi
ba nghìn công đã đầy đủ, tám trăm hành đã toàn vẹn, thì sẽ giá hạc, thừa
lân, bạch nhật phi thăng. Gọi là Chân Nhân.
Thuốc men họ ra sao? Tiên Ông đã bổ tắc những gì sai sót. Viết Tam Tướng
loại thượng hạ nhị thiên.
Thượng Thiên bàn về Hoàn Đơn Đại Đơn, Nội Ngoại nhị dược, và tầng thứ
điều hoà chúng. Hạ Thiên bàn về Đỉnh Khí vận hỏa, các tầng lớp, từ đầu
đến cuối. Cả 2 thiên lời lẽ hết sức giản dị, lý lẽ hết sức minh bạch,
cách dạy hết sức tường tận, sự việc rất là tề chỉnh. Tổng kết đại ý Tham
Đồng, viết thành sách này. Tất cả đều là những gì Tham Đồng chưa từng
nói tới. Vì thế gọi là Bổ Tắc Di Thoát. Nghĩa là Thêm những gì Tham Đồng
còn thiếu, lấp kín lại những gì còn thất thoát. Có Tam Tướng loại, mà
Tham Đồng mới đầu cũng không có chỗ thất thoát. Tiên Ông không chú Tham
Đồng, nhưng thực ra đã thành toàn cho Tham Đồng, đã theo người trước,
chỉ cho người sau vậy. Đâu dám nông cạn.
»
Mục Lục |
Thượng thiên 1 2
3 4
5 |
Hạ thiên
|