PHI LỘ
Đó
là một học thuyết. Không biết rõ danh hiệu này phát xuất tự bao giờ, nhưng nó
thật là một kho tàng chung của Thiên hạ.
Gần
đây tôi đọc quyển Le Symbolisme des Nombres của Bác Sỉ R. Allendy
(Paris Chacornac Frères, 11 Quai Saint Michel. 1948), tôi thấy Thuyết Thiên
Địa vạn vật đồng nhất thể, hay Nhất tức nhất Thiết, Nhất Thiết tức nhất cũng
được nói qua tới.
Sách cho biết vũ trụ này
là một (Les anciens Alchimistes grecs disaient:” L’Univers est un”
Strd. tr. 9).
-
Một tán thành Vạn, Vạn
qui về một. Strd,
tr. 10)
-
Héraclite nói: Một sinh
ra từ Vạn thù, Vạn Thù sinh ra từ Một.
(De la multiplicité des choses provient l’Un, et de l’Un la multiplicité. Strd, tr.10)
-
Một tiến ra Vạn bằng
phân tách, Vạn trở về Nhất bằng Qui Nạp
(Là est le secret des deux sentiers: Sentiers mystique d’union, de Yoga, par
lequel l’être retourne vers L’Unité synthétique dont il émane, et le sentier
de séparation, d’individualisme, d’égoisme, qui partant de la singularité
personnelle comme d’un terme ultime, ne peut que descendre vers l’unité
analytique absolue 0/1, c’est-à-dire vers l’anéantissement progressif.
Strd. tr.11).
-
Như vậy, chúng ta chỉ là
những miếng vụn của Toàn Thể duy nhất
(Alors que l’illusion des sens tend à montrer la personnalité actuelle comme
l’unité suffisante, le mysticisme est la compréhension du Macrocosme dont les
êtres actuels ne sont que des fragments; c’est la réalisation de l’Unité.
Strd. Tr. 11)
Sách
trích dẫn Bhagavad-Gita (Bà La Môn giáo), l’Imitation de Jésus-Christ
(Công Giáo), và Huyền Học Kabbale và cho rằng chúng ta phải tìm cho ra
được nhất thể ấy, và phải sống phối hợp nhất như với Nhất thể ấy (Strd.tr.
12).
Ví
dụ Bhagavad Gita viết: Cho nên, người sống hợp nhất, tâm hồn sẽ thanh cao
và thấy Hồn mình ở trong vạn vật, và Vạn vật trong tâm hồn của họ, khi hồn
họ sống kết hợp với Trời, và thấy đâu đâu cũng là đồng nhất.
-Ai mà thấy ta ở khắp mội nơi, và thấy trong ta có muôn vật, thì không thể
mất ta, và cũng không bị ta bỏ rơi.
-
Kẻ nào tôn thờ Bản Thể
ta trong muôn vật, và sống vững chãi trong Đồng Nhất, thì bất kỳ hoàn cảnh
nào. cũng luôn sống với ta.
-
Ai mà biết mình là Nhất
Thể, và thấy đâu đâu cũng là Nhất thể, thì dù sướng hay khổ, cũng là một đạo
sư thượng thặng.
(Il est écrit dans la Bhabavad-Gita: “Ainsi, par l’Union...L’Homme purifíé
voit l’Âme résidant en tous les êtres vivants et dans l’Âme tous ces êtres,
lorsque son Âme est unie de l’Union divine et qu’il voit de toutes parts
l’identité.
-
Celui qui me voit
partout et qui voit tout en moi ne peut plus me perdre ni être perdu pour moi.
-
Celui qui adore mon
essence résidant en tous les êtres vivants et qui demeure ferme dans le
spectacle de l’Unité, et en quelque situation qu’il se trouve, est toujours
avec moi.
-
Celui qui, instruit par
sa propre identité, voit l’identité partout, heureux ou malheureux, est un
yogi excellent.) (Le Symbolisme des Nombres, p. 12.- Bhagavad-Gita VI, 29, 30,
31,32, tr. Burnouf.)
Gương Phúc (L’imitation de Jésus Christ) viết:” Ai mà thấy tất cả là một,
đem mọi sự về một, và thấy mọi sự trong một, thì lòng sẽ bình yên, và sẽ
sống bình yên trong Thượng Đế. (Celui qui trouve tout dans l’Unité, qui
rapporte tout à l’Unité, et qui voit tout dans l’Unité peut avoir le coeur
stable et demeurer en paix avec Dieu) (Le Symbolisme des Nombres, p. 12.
Imitation de Jésus-Christ, I- 3)
Sách
Kabbale, huyền học Do Thái viết: Jéhovah là Một, và tên Ngài là Một.
(Le Symbolisme des Nombres, tr. 15.)
Nhất
thể ấy là Thượng Đế, là Tạo Hóa. ( Partout le nombre Un a été rapporté au
Ptemier Principe, au Dieu initial, au Créateur Suprême) (Strd. tr. 14)
Như
vậy, Một là tất cả, là Căn Nguyên là Cùng Đích muôn loài, là Alpha và Oméga (Le
point situé à l’intérieur du Cercle peut donc représenter à la fois la source
et le but de toutes choses, le principe et la fin,
l’ alpha et l’oméga.
Strd tr. 17).
-
Một như vậy tượng trưng
cho cả vũ trụ.
Các nhà Luyện Kim Âu Châu gọi nó là Azoth, Vì chữ này gồm chử đầu là chữ cuối
của Mẫu tự Latin, Hi Lạp và Do Thái ( Ta thấy chữ Azoth có chữ A chữ Z của mẫu
tự LaTin, chữ Omega của mâũ tự Hi Lạp và chữ Th của mẫu tự Do thái.
Strd tr. 17).
-
Mặt trời xưa cũng được
tượng trưng bằnh Hình vòng tròn có chấm giữa,
(Strd. tr. 17).
Sách cho rằng cái sai
lầm của chúng ta là coi sự phân chia hình thức và tương đối như là mâu thuẫn
đối kháng tuyệt đối, và quên mất cái Một chân thực ở đằng sau mà vạn hữu qui
tụ về. (L’erreur consiste en effet, à prendre la différentiation apparente
et relative des choses pour une opposition irréductible et à méconnaitre
L’Unité véritable en laquelle elles se fondent. Le Symbolisme des Nombres, tr.
31
Thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể có thể nói là một thuyết then chốt của
nhiều đạo giáo, và của nhiều mật tông, mật giáo trong thiên hạ.
Nó chính là chuỗi liên châu nối liền các đạo giáo
với nhau, từ lục địa này sang lục địa khác, từ thời đại này sang thời đại kia.
khảo sát học thuyết này cho kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hiện rõ lên: TRUYỀN THỐNG NHẤT
QUÁN của nhân quần từ trước tới nay, và sẽ soi sáng cho chúng ta rất nhiều về vũ
trụ về con người, cũng như về thân phận con người, định mệnh con người, ý nghĩa
cuộc sống, v.v.
Những nét chính yếu của học thuyết này có thể phác
họa được như sau:
Đại khái nó chủ trương:
- Vũ trụ này không phải đã được tạo dựng nên bởi không, mà chính là đã từ MỘT
NGUYÊN LÝ, từ MỘT BẢN THỂ DUY NHẤT sinh hóa, phóng phát ra. Nguyên lý tuyệt đối
ấy có muôn nghìn tên gọi: đó là Brahman, là Thượng Đế vô ngã, là Đạo, là Vô, là
Hư, là Vô Cực, là Thái Cực, là Chân Như, là Ein-Sof, v.v. Nguyên lý, Bản thể duy
nhất ấy đã sinh hóa ra chư thần (théogonie) và vũ trụ (cosmogonie).
- Bản thể ấy, vì sinh hóa ra muôn loài, vì là căn cơ, trục cốt muôn loài nên
tiềm ẩn, hàm tàng trong lòng vạn hữu (immanence) chứ không tách rời, chứ không
siêu xuất vạn hữu (transdence).
- Vì chủ trương Thượng Đế nội tại, tiềm ẩn ngay
trong đáy lòng vạn hữu, vì chủ trương Thượng đế không tách rời khỏi vũ trụ mà
chính là toàn thể vũ trụ, nên thuyết Thiên địa vạn vật nhất lý theo từ ngữ Âu
Châu, có bộ mặt Phiếm thần (Pantheisme).
- Con người vì đồng bản thể với vũ trụ với Thần
linh, nên con người có thể trở thành thần linh, nếu biết quay về tâm khảm mà tìm
- Mục đích cũng như ý nghĩa của đời sống nhân quần
chính là tìm cho ra Bản thể siêu việt của mình, tu luyện để trở thành thần linh,
trở về với MỘT, với CĂN BẢN, với BẢN THỂ TUYỆT ĐỐI, DUY NHẤT.
Với những nét chính yếu ấy làm kim chỉ nam, chúng ta có thể phiếm du trong các
thánh thư, trong các kỳ thư, bí điển của các đạo giáo mà không còn lo lạc đường,
nhầm lối.
Thiên khảo luận này sẽ được chia làm hai phần:
PHẦN I – Khảo về thuyết Thiên địa vạn vật đồng
nhất thể trong Bà La Môn giáo và ít nhiều huyền môn kim cổ.
PHẦN II – Khảo về thuyết Thiên địa vạn vật đồng
nhất thể trong Tam giáo (Nho, Thích, Lão) và Cao Đài giáo.
☸
Để dễ theo dõi thiên khảo luận đa dạng này, tôi sẽ trình bày thêm những nét
chính của học thuyết này.
Như trên đã nói, vũ trụ này do một bản thể phóng
phát, sinh hóa ra. Tuy nhiên có nhiều khía cạnh của vấn đề, chúng ta cần phải
nắm vững.
1. Trước hết là khi chưa có Vũ trụ này, thì Bản
thể là Nhất nguyên thuần túy (Monisme absolu). Khi ấy, Bản thể được gọi là Vô,
là Hư, là Ein-Sof, vì chưa hiển dương thành vũ trụ hữu hình, và được tượng trưng
bằng số 1, hoặc bằng số Khôn. [1]
Khi bắt đầu hiển dương, thì Nhất nguyên thuần túy ấy sinh ra Nhất nguyên lưỡng
cực (Unité polarisée), tức là tuy Nhất nguyên nhưng thực ra đã hàm tàng, bao
quát cả Âm lẫn Dương, cả hai bề Tinh thần lẫn Vật chất của vũ trụ.
Khi ấy Bản thể được tượng trưng bằng:

*
Hình tròn có chấm giữa
(chấm giữa là sinh cơ; hình tròn là vạn hữu).

*
Hình Thái cực (gồm cả Âm lẫn Dương).

Androgyne (Á Nam á Nữ)
- Hình tròn có chấm giữa ☉
(chấm giữa là sinh cơ; hình tròn là vạn hữu).
- Hình Thái cực:
[
(gồm cả Âm lẫn Dương).
- Hình Rebis: (Re < Res = Vật thể; Bis=Lưỡng. Nhất
vật lưỡng thể)
Hình người Á nam, Á nữ (Androgyne: Andro = Nam,
Gyne = Nữ)
- Số 5 (vì 5 = 2 + 3)
- Số 15 (vì 15 = 9 + 6) (3, 9 là dương. 2, 6 là
Âm).
2. Bản thể Duy nhất sinh xuất ra vũ trụ bằng cách:
- PHÓNG PHÁT (EMANATION), và
- SINH HÓA (DIVISION), hay PHÂN HÓA.
Phóng phát là phát quang, là tung tỏa chính Bản
thể mình ra. Tiếng Anh lẫn tiếng Pháp gọi thế là Emanation.
Phân hóa là tự phân chia dần mãi ra, như: 1 sinh
2; 2 sinh 4; 4 sinh 8; v.v.
3. PHÓNG PHÁT, PHÂN HÓA không thể vô cùng tận. Tới
mức độ nào đó, sẽ có sự chuyển hướng, phản phục. Cho nên tiếng theo thời kỳ
phóng phát và phân hóa sẽ đến thời kỳ THÂU LIỄM (absorption, résorption,
réintégration), hợp nhất (union), đoàn tụ (réunion).
Hai chiều PHÓNG PHÁT, PHÂN HÓA – THÂU LIỄM, HỢP
NHẤT hợp thành một vòng biến dịch tuần hoàn để thực hiện một điều kỳ diệu là:
THỦY CHUNG NHƯ NHẤT
ALPHA = OMÉGA
Vòng biến dịch tuần hoàn đó được gọi là:
- Vòng Biến dịch (Nho, Lão)
- Vòng Pháp luân, vòng Duyên nghiệp, vòng Luân hồi
(Bàlamôn, Phật).
- Vòng Chu xà Ouroboros (Âu châu)
- Vòng Đại Chu Thiên (Á châu) v.v…
4. Thuyết Vật vật nhất thể trở thành một học
thuyết Đạo giáo, nếu ta đem thay chữ Bản thể bằng chữ Thượng Đế, hay Chân Như,
Đạo, v.v…
5. Học thuyết Vạn vật nhất thể đưa tới những hệ
quả triết học và Đạo giáo sau đây:
- Thuyết Phiếm thần: Thượng Đế là toàn thể vạn hữu
(Panthéisme)
- Thuyết Thượng Đế nội tại, hàm tàng trong lòng
vạn hữu (Immanence de Dieu).
6. Quan niệm: Vũ trụ này từ một Bản thể phân hóa,
phóng phát ra, rồi lại được thâu liễm, hợp nhất lại trong Bản thể, vẽ ra một
vòng biến dịch trong đó:
- Khởi điểm, căn nguyên là Bản thể.
- Vòng biến dịch sinh hóa có 2 chiều:
- Chiều sinh hóa, phóng phát, tức là
chiều tạo dựng vạn vật, vạn tượng. Đó là chiều vãng, chiều hướng ngoại,
chiều sinh trưởng, chiều từ nhất biến vạn, chiều ly tâm, chiều xuôi dòng.
- Chiều Thu liễm, Hợp nhất, tức là
chiều sinh thánh, sinh thần. Đó là chiều lai, chiều phản hồi, chiều hướng
nội, chiều qui tâm, hướng tâm, chiều ngược dòng trở về nguồn. Ta thường gọi
đó là chiều qui căn phản bản.
Cuối vòng Dịch, tức là chung điểm, ta
lại gặp lại Bản thể thuần nhất.

7. Quan niệm phóng phát và qui hoàn cũng vẽ lại
định mệnh con người. Con người tự Trời xuống trần rồi lại từ trần về Trời. Thế
gọi là trở về ngôi vị cũ. Như vậy giác ngộ là giác ngộ được căn cơ, gốc gác mình
giác ngộ được con đường phải đi của mình để trở về quê hương cũ. Dẫu sao thì Đắc
Nhất, Liễu Nhất, Phối Thiên vẫn là mục phiêu tối hậu của các thánh thần.
8. Cuối cùng quan niệm phóng phát và qui hoàn cũng
được gắn liền với thuyết Luân hồi, tái sinh, luân kiếp (Théorie de la
transmigration, de la renaissance, de la métempsychose) với những phụ thuyết như
thuyết Hồi ký của Platon (La Réminiscence)…
Học thuyết Thiên địa vạn vật nhất thể đại cương
chỉ có vậy. Tuy nhiên ít khi nó được trình bày một cách toàn vẹn, một cách trực
tiếp, mà lại được trình bày nhiều loại nhiều cách, bằng nhiều loại ngôn ngữ khác
khau. Dưới đây xin lược qua các phương pháp trình bày, hay các loại từ ngữ cổ
nhân đã dùng để trình bày tư tưởng nói trên.
Ví dụ 1: Tư tưởng cần trình bày:
VẠN
HỮU, VŨ TRỤ NÀY DO MỘT BẢN THỂ DUY NHẤT PHÓNG PHÁT SINH HÓA RA.
1. Từ ngữ thông thường (langage
ordinaire):
- Thiên địa vạn vật nhất thể.
- Nhất sinh vạn.
2. Từ ngữ huyền thoại (langage
mythologique):
Prajapati, Purusa, Bành tổ, Ymer, v.v. phân thân
thành vũ trụ.
3. Từ ngữ ví von, so sánh
(langage métaphorique):
Vũ trụ này đã do một quả trứng nguyên thủy phát
sinh. Một phần hai quả thành trời. Một phần hai quả thành đất. Vỏ cứng thành
núi. Màng mềm thành mây, thành sương. Gân máu trong trứng thành sông. Chất lỏng
trong trứng thành biển cả. (Chand. Up 13,19).
4. Từ ngữ số học (langage
numérique): Nhất sinh vạn.
5. Từ ngữ tượng hình (langage
symbolique):
Chữ VẠN : Trong đó tâm điểm là Bản
thể. Bốn cánh là vạn hữu. Và VẠN cũng là vạn hữu.

- Một mặt trời (Bản thể) tung tỏa ra muôn hào
quang (hào quái, vạn hữu).
- Một gốc cây (Bản thể, Thái Cực) sinh ra muôn
cành lá (vạn tượng, hào quái) sum xuê. Dịch kinh đã dùng những phương thức này.
Ví dụ 2: Tư tưởng cần trình bày:
VŨ TRỤ
NÀY ĐÃ DO MỘT BẢN THỂ PHÓNG PHÁT, PHÂN HÓA RA.
1. Từ ngữ thông thường:
Vũ trụ này đã do một Bản thể phóng phát sinh hóa
ra.
2. Từ ngữ triết học (langage
philosophique):
Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ
tượng, tứ tượng sinh bát quái.
3. Từ ngữ triết tự (langage
littéral):
a. YHVH
(YHVH:
Yaweh: Thượng Đế)
b. AUM sinh ra:
. A (Sắc giới, khi ta tỉnh)
. U (Dục giới, khi ta mơ)
. M (Vô sắc giới, khi ta ngủ say)
(Mundaka
Up. I)
[4]
4.
Từ ngữ số học:

5.
Từ ngữ tượng hình (Langage symbolique):

- Tâm điểm và nhiều vòng tròn đồng tâm.
- Hình tam giác với Thiên nhãn hay bốn chữ YHVH ở
tâm điểm phóng hào quang sinh ra vầng mây vạn hữu biến thiên bên ngoài.
6. Từ ngữ số học loại ma phương (Carré magique):
Trong đó, số 5 là Thượng Đế. Các số bao quanh là vạn hữu. Cộng các phía đều là
15. Mà 15 là YH. YH là Thượng Đế trong từ ngữ Do Thái v.v…
Trên đây chỉ là ít nhiều ví dụ để gợi ý. Sau này, mỗi khi khảo về một môn phái,
ta sẽ đề cập lại kỹ lưỡng hơn.
Những tư tưởng, những phương pháp trình bày trên đây chính là những chìa khóa
giúp ta mở được các cửa huyền môn trong thiên hạ, và tìm ra được TRUYỀN THỐNG
DUY NHẤT TỰ CỔ CHÍ KIM. Đó cũng là cách thức khoa học để chứng minh: VẠN GIÁO
NHẤT LÝ.
|