»»
[
mục lục ] [
phần A ] [
phần B ]
PHẦN B
KHẢO VỀ THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
TRONG TAM GIÁO VÀ CAO ĐÀI
I. PHẬT GIÁO VỚI THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ
Tuy Đức Phật không bàn về
bản thể vũ trụ, nhưng sau này các triết gia Phật giáo cũng chủ trương
Thiên địa vạn vật đồng nhất thể.
Đã đành vũ trụ này từ một
bản thể là Chân Như mà sinh xuất ra, nhưng các triết gia Phật giáo
thường đặt ra mấy vấn đề sau đây:
① Thực tướng của Chân Như
bản thể ra sao?
② Chân Như bản thể làm thế
nào mà sinh hóa ra vũ trụ?
③ Chân Như bản thể và vũ trụ
hình tướng liên lạc với nhau ra sao?
Dưới đây xin lần lượt trình
bày các cách trả lời cho 3 vấn nạn trên:
1. Thực
tướng của Chân Như bản thể ra sao?
a. Có nhiều môn phái
cho rằng Chân Như bản thể vì siêu việt nên không thể nào bàn cãi được,
đoán định được.
Trong chiều hướng này, Pháp
Tướng Tông dùng chữ:
phế thuyên
廢 詮
,
đàm chỉ
談 止
(miễn bàn, miễn nói).
Giáo phái Tam Luận dùng chữ:
ngôn vong
言 忘
, lự tuyệt
慮 絕
(quên lời, bỏ nghĩ).
Thiền Tông dùng chữ:
bất lập văn tự
不 立 文 字
(không dùng văn từ).
Chân Ngôn Tông dùng chữ:
xuất quá ngôn
ngữ đạo
出 過 言 語 道
(vượt trên ngôn từ).
Tịnh Độ Tông dùng chữ:
bất khả xưng
不 可
稱 , bất khả
thuyết
不 可 說
, bất khả tư nghị
不 可 思 議
(không thể gọi, không
thể nói, không thể nghĩ bàn).
b. Có môn phái thời
muốn nhấn mạnh về tính cách không tịch, tĩnh lãng của Chân Như bản thể,
nên đã dùng những chữ như: Không tịch
空 寂
, hư vô
虛 無,
không
空,
chân không
真 空
để mô tả bản thể. Nhưng hư
vô đây không phải là hư không, hư ảo, mà chính là
Chân không
真 空
, Diệu hữu
妙 有,
Căn nguyên sinh xuất vũ trụ.
Lục tổ Huệ Năng viết trong
Pháp bảo đàn
kinh: «Hư không
hàm tàng hết sắc tướng, vạn vật, bao gồm nhật nguyệt, tinh cầu, sông
núi, đất đai, suối nguồn, khe lạch, cây cối, núi rừng, người lành kẻ dữ,
cái hay, cái dở, tất cả mọi núi Tu Di cũng đều ở trong Hư không. Tính
người ta cũng ở trong Hư không. Tất cả đều như vậy.»
[1]
Suzuki, một thiền sư Nhật
bản, viết: «Không» là một trong những vấn đề quan trọng nhất của triết
học đại thừa là chữ rắc rối nhất, khó hiểu nhất cho những người không
phải là Phật tử. «Không» không có nghĩa là «tương đối, tương đãi» hay là
sắc tướng, hay là hư vô, hư không, mà chính là «Tuyệt đối, tuyệt đại,
siêu việt, bất khả tư nghị. Nó chính là Chân Như bản thể.»
[2]
c. Có môn phái thời
nhìn về phía tích cực, hiện hữu, khi bản thể đã tạo thành vũ trụ. Cho
nên gọi Bản thể ấy là Chân Như.
Chân Như bản thể, tuy sinh
xuất vạn hữu, nhưng viên dung, bất biến nên còn được gọi là:
Nhất Như
一 如
, Như Như
如 如
, Nhất tâm pháp
giới
一 心 法 界
.
Vì Chân Như bản thể là cốt
lõi, là Chân thân, là Thực thể của vũ trụ hình tướng này, nên còn được
gọi là: Trung
đạo
中 道, Pháp thân
法 身,
Như Lai
如 來,
Pháp thể
法 體,
Thực tại
實 在,
Chân tâm
真 心
…
Vì Bản thể ấy là Chân tướng
vũ trụ, minh linh viên giác, hoàn thiện tuyệt đối, nên còn được gọi là:
Thực tướng
實 相
, Chân thật
tướng
真 實 相
, thực tế
實 際,
Chân thực tế
真 實 際
;
Viên thành thực tướng
圓 成 實 相
, Chân như
真 如,
Chân như bổn tánh
真 如 本 性
, Chân như tánh
真 如 性,
Chân đế
真 諦,
Chân thiện
真 善,
Viên giác
圓 覺.
Và cuối cùng để cho Bản thể
cũng đượm màu Phật giáo, các triết gia Phật giáo còn gọi là
Phật tính
佛 性
…
2. Chân
Như bản thể là thế nào mà sinh hóa ra vũ trụ?
a. Chân Như duyên
khởi
Thuyết này chủ trương vạn
hữu đều do một Bản thể tuyệt đối là Chân Như sinh xuất ra. Chân Như này
đồng bản thể với tâm linh con người, nên cũng có thể nói được rằng tất
cả vạn hữu đều do Tâm ấy biểu hiện…
Vũ trụ này có 2 mặt:
- Một mặt vĩnh cửu bất biến,
hay là Chân Như
môn
真 如 門
(Tuyệt đối giới, bình đẳng
giới).
- Một mặt biến thiên sinh
diệt hay là Sinh
Diệt môn
生 滅 門
(tương đối giới, sai biệt
giới).
Thuyết này cho rằng Chân Như
sinh ra vạn hữu là do vô minh. Mà vô minh là mê muội, là mù quáng. Ta
thấy cung cách này không ổn, vì chẳng lẽ Chân Như tuyệt đối lại có thể
mê muội mà sinh ra vũ trụ này hay sao?
b. Nghiệp cảm duyên
khởi
Thuyết này chủ trương Chân
Như sinh hóa ra vũ trụ do nghiệp lực (Karma) cảm triệu.
Thuyết nghiệp cảm (Karma)
nếu áp dụng cho quần sinh, thì có phần đúng, nhưng nếu áp dụng cho Bản
thể tuyệt đối, thì không ổn, vì chẳng lẽ Bản thể tuyệt đối cũng mắc vòng
duyên nghiệp hay sao?
c. A-Lại-gia duyên
khởi
Long Thọ bồ tát cho rằng:
«Chân Như là Tuyệt đối; Vạn hữu là Tương đối.»
Tuyệt đối không trực tiếp
tạo ra Tương đối, mà phải qua trung gian
A-lại-gia (Alaya)
hay Hàm tàng
thức gồm mọi
chủng tử của mọi biến hóa, chuyển dịch.
Thuyết này cũng na ná như
thuyết «Vô cực nhi Thái cực» của Chu Liêm Khê.
d. Lục đại duyên
khởi
Phái Chân Ngôn thì cho rằng
vạn hữu này do Phật Tỳ Lư Giá Na
毗 盧 遮 那
(Vairocana = Đại Nhật Như
Lai 大 日
如 來) phân hóa ra.
Phật thân Đại Nhật Như Lai gồm
lục đại
(địa, thủy, hỏa, phong, không, thức), nên vạn hữu từ tinh cầu đến nhân
loại, đến vi trần đều gồm đủ lục đại, gồm đủ Bản thể của Đại Nhật Như
Lai.
Thuyết này cũng tương đương
như huyền thoại Ấn giáo: Prajapati, hay Purusa đã phân thân để sinh hóa
ra vũ trụ…
e. Pháp giới duyên
khởi
Thuyết này chủ trương: Bản
thể khi tĩnh thì là Chân Như, khi động thì là vạn hữu. Như vậy, thực thể
tức hiện tượng, hiện tượng tức thực thể, thiên biến vạn hóa mà thành ra
vô số hiện tượng, nhưng không một hiện tượng nào mà không phải là sự
hoạt hiện của Chân Như…
3. Chân
Như bản thể và vũ trụ hình tướng liên lạc với nhau ra sao?
Về vấn đề này ta ghi nhận
mấy khuynh hướng sau:
1. Bản thể siêu xuất hiện
tượng (transcendance)
2. Bản thể tiềm ẩn trong
lòng hiện tượng (Immanence)
3. Bản thể sinh hiện tượng,
hiện tượng qui hoàn bản thể, cho nên:
- Bản thể là hiện tượng,
hiện tượng là bản thể
- Sắc tức thị không, không
tức thị sắc
Y thức như sóng là nước,
nước là sóng…
Vì Phật giáo chủ trương Bản
thể là vũ trụ, vũ trụ là Bản thể nên Phật giáo cũng đứng trong hàng ngũ
phiếm thần…
Tường Duy Kiều, tác giả cuốn
Đại Cương Triết
Học Phật giáo
(quyển này đã được Thích Đạo Quang dịch ra Việt văn) cũng công nhận như
vậy. (xem sách đã dẫn nơi tr.36)
Vì chủ trương Vạn vật nhất
thể, nên Phật giáo:
a. Chủ trương từ bi hỉ xả
chẳng những đối với nhân quần mà cả với sinh linh.
b. Chủ trương con người đều
có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật.
c. Chủ trương muốn thành
Phật, muốn giải thoát con người phải qua nhiều kiếp (Transmigration,
Renaissance, Métempsychose).
d. Chủ trương giải thoát là:
- Nhất trí với thực tại.
- Qui ư triệt để đại ngộ.
- Hòa hợp với Bản thể tuyệt
đối…
(Xem Thích Đạo Quang,
Đại cương Triết Học
Phật giáo, tr.
54-56).
II. LÃO GIÁO VỚI THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ
Lão giáo cũng chủ trương: vũ
trụ vạn vật đều do một Bản thể sinh hóa ra. Bản thể ấy, Lão giáo gọi là
Đạo.
Đạo vì là Bản thể vũ trụ,
tuyệt đối, vô biên tế, nên không thể dùng danh diệu để tuyên xưng, không
thể dùng ngôn từ để mô tả.
Đạo có hai thế: Thế tiềm ẩn,
và thế hiển dương.
Trước khi sinh ra vũ trụ,
Đạo ở thế tiềm ẩn, Sau khi sinh ra vũ trụ Đạo ở thế hiển dương.
Vũ trụ này xét về phương
diện Bản thể thì hư tĩnh, vi diệu, xét về phương diện hình tướng, thì có
giới hạn, có hình danh, sắc tướng.
Muốn hiểu rõ vũ trụ thì phải
bao quát cả hai mặt:
- Bản thể (Diệu
妙)
- Hiện tượng (Khiếu
徼)
Lão gia gọi thế là «Diệu
khiếu tề quan»
妙 徼 齊 觀
…
Các ý tưởng trên đã được Lão
Tử nói lên nơi chương I Đạo Đức Kinh:
«Hóa công hồ dễ đặt tên,
Khuôn thiêng hồ dễ mà
đem luận bàn,
Không tên sáng tạo
thế gian,
Có tên là mẹ muôn vàn
thụ sinh.
Tịch nhiên cho
thấy uy linh,
Hiển dương cho thấy
công trình vân vi,
Hai phương diện
một hóa nhi,
Huyền linh khôn xiết,
huyền vi khôn lường,
Ngài là chúng diệu
chi môn,
Cửa thiêng phát xuất
mọi nguồn huyền vi…»
Đạo khi chưa sinh hóa ra vũ
trụ còn được gọi là:
Hư
虛,
Hư vô
虛 無,
Hồng mông
鴻 蒙,
Hỗn độn
混 沌,
Hư không
虛 空,
Đạo
道, Vô cực
無 極
, v.v…
Hư vô, Hư không không phải
là hư ảo, mà là Thực thể bất khả tư nghị, vô biên tế của vũ trụ…
Vì thế Lão Tử nói: «Thiên hạ
vạn vật sinh ư hữu, Hữu sinh ư vô…»
天 下 萬物 生 於 有
,有 生 於 無
(ĐĐK, 41)
Trang Tử cũng nói: «Đầu
trước hết có vô, không hiện hữu, không tên tuổi.» (Trang tử Nam Hoa
Kinh, Thiên địa)…
Hai chữ Vô cực được Lão tử
đề cập đến nơi chương Tri kỳ hùng
知 其 雄
(ĐĐK, 28).
Các danh từ Không
空
hay Hư vô
虛 無
cũng được các đạo gia thường
dùng. Sách Xướng
đạo chân ngôn
viết: «Vạn vật bắt đầu từ không. Không sinh ra nhất, nhất sinh ra vạn,
vạn trở về không. Không là thủy tổ muôn loài. Học giả cần biết chân
không, cần phân biệt linh không với ngoan không…»
[3]
Xướng đạo chân ngôn còn gọi
Hư vô 虛
無 là Vô cực
無 極
là Đơn
丹
là Đạo
道,
là bản thể của trời đất. Sách viết: «Đơn là bản thể của vạn vật. Đơn là
Đạo, Đạo là bản thể của hư vô. Hư vô không thể đặt tên, nên thánh nhân
tạm gọi là Đạo. Hư sinh Nhất, Nhất sinh vạn, vạn hoàn Nhất, Nhất hoàn
Hư…
[4]
Sách viết thêm: «Đạo gia gọi
là Hư, Phật gia gọi là Không. Hư không nghe biết, nhìn biết mọi sự… Cho
nên, khi một người suy nghĩ, người cùng nhà không hay biết, mà Hư không
vô lượng, vô biên đã biết, đã hay… Vì thế Nho gia: Thận độc, úy không…»
[5]
Đạo
道
sinh ra vũ trụ bằng sự hiển
dương phóng phát, tức là bằng Đức
德
[6]
và cũng bằng sự phân liệt chia phôi.
Chiều sinh hóa này đi từ Vô
đến Hữu, từ khinh thanh đến trọng trược, để rồi lại xoay chiều chuyển
dịch, biến hóa, cuối cùng lại trở về Nguồn gốc cũ là Đạo là Hư.
Ta có thể chứng minh những
quan niệm đó bằng thư tịch Đạo giáo. Liệt Tử viết trong Xung Hư Chân
Kinh:
«Hình, thanh, vị, sắc đều do
Vô vi mà sinh ra.
Hình, thanh, vị, sắc khi
còn, khi mất, khi có, khi không. vô vi bao giờ có cùng.
Hình thanh, vị, sắc hình
hiện ra bên ngoài, mà vô vi thì không bao giờ hình hiện.
Nhưng tất cả hình, thanh, vị
sắc đều là chức năng của vô vi.
Vô vi có thể Âm, có thể
Dương, có thể mềm, có thể cứng, có thể vắn, có thể dài, có thể tròn, có
thể vuông, có thể làm cho sống, có thể khiến cho chết, có thể nóng, có
thể lạnh, có thể nổi, có thể chìm, có thể là cung, có thể là thương, có
thể ẩn, có thể hiện, có thể đen, có thể vàng, có thể ngọt, có thể đắng,
có thể tanh, có thể thơm. Tưởng không biết, không hay mà cái gì cũng
biết, cái gì cũng hay…»
[7]
Liệt Tử còn viết:
«Xưa thánh nhân lấy Âm Dương
bao quát trời đất. Mà hữu hình thời sinh ra từ vô hình, nên trời đất dần
dà mới có. Cho nên nói: Có Thái dịch
太 易
, có Thái sơ
太 初,
có Thái thủy
太 始,
có Thái tố
太 素
.
Thái dịch là giai đoạn chưa
có Khí.
Thái sơ là giai đoạn Khí
氣
bắt đầu có.
Thái thủy là giai đoạn Hình
形
bắt đầu có.
Thái tố là giai đoạn Chất
質
bắt đầu có.
Khí, Hình, Chất có đủ nhưng
chưa chia lìa nhau. Cho nên gọi là Hồn luân
渾 淪.
Hồn luân là khi vạn vật còn trà trộn chưa phân ly… Nhìn không thấy, nghe
không ra, theo không được nên gọi là Dịch
易.
Dịch không giới hạn, không bến bờ. Dịch biến thành Nhất
一
, Nhất biến thành Thất
七,
Thất biến thành Cửu
九
, Cửu là biến hóa đến cùng
cực. Thế rồi lại trở về Nhất…»
[8]
Sách
Linh Bảo Tất Pháp
có một đoạn tương tự như vậy, và tôi đã phiên dịch đại khái thành thơ
như sau:
«Tự Đạo phân chia số
mới thành,
Ngũ hành hình tượng:
Đạo nha manh,
Năm phương vũ trụ: Thân
phân liệt,
Chất sắc năm màu: Đạo
tán sinh.
Số từ vô số xuất
sinh,
Trở về vô số mới thành
vãng lai.
Tượng từ vô tượng
phân bài,
Trở về vô tướng, trong
ngoài ấm êm.
Vị hoàn vô vị mới
nên,
Chất hoàn vô chất tinh
tuyền trước sau.
Chớ chia Đạo thể
nhiệm màu,
Số kia bám víu vào đâu
sinh thành.
Muốn trừ cho hết
tượng hình,
Ngừng cơ biến hóa, mối
manh tiêu liền.
Vị ngôi muốn hết
dưới trên,
Thời đừng phân biệt bản
nguyên làm gì.
Đạo không phát tán
chia ly,
Thời thôi vật chất biến
đi từ đời,
Đạo là vô số, vô
ngôi,
Vô hình, vô chất, chia
phôi nhẽ nào.
Đạo trời vi diệu
biết bao…»
[9]
Vòng tuần hoàn biến dịch của
vũ trụ đã được Trang tử toát lược bằng một câu: «Vạn vật giai xuất ư cơ,
giai nhập ư cơ» (Vạn vật đều xuất ở Cơ ra, rồi lại đều trở về Cơ.)
[10]
Đạo Đức Kinh, chương 16,
viết:
«Muôn loài sinh hóa đa
đoan,
Rồi ra cũng phải lai
hoàn bản nguyên,
Hoàn bản nguyên an
nhiên phục mệnh,
Phục mệnh rồi trường
vĩnh vô cùng…»
[11]
Con đường tu luyện để trở về
kết hợp với Đạo với Trời đã được dấu ẩn ngay trong trung tâm đầu não con
người.
Nhập Dược Kính, trang 10b,
viết:
«Nê hoàn nhất khiếu đạt
thiên môn,
泥 丸 一 竅 達 天 門
Trực thượng Hư Hoàng Ngọc Đế
tôn,
直 上 虛 皇 玉 帝 尊
Thử thị chân nhân lai vãng
lộ,
此 是 真 人 來 往 路
Thời thời khóa hạc khứ triều
nguyên…»
時 時 跨 鶴 去 朝 元
Tạm dịch:
«Nê hoàn một khiếu thấu
cửa trời,
Ngọc Hoàng Thượng Đế ấy
tòa ngôi.
Thánh hiền lui tới duy
đường ấy,
Cưỡi hạc băng chừng
thẳng tới nơi…»
III. NHO GIÁO VỚI THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ
Ta sẽ dùng Dịch Kinh, một
cuốn thánh thư của Nho giáo để xiển minh tư tưởng trên.
Dịch Kinh chủ trương:
1. Vũ trụ này đã do một Căn
nguyên duy nhất, một Bản thể duy nhất phân hóa ra. Bản thể duy nhất ấy
gọi là Thái Cực.
Thái Cực tuy là duy nhất
nhưng thực ra đã bao hàm đủ âm dương. Bản thể duy nhất ấy gọi là Thái
Cực.
Thái Cực tuy là duy nhất
nhưng thực ra đã bao hàm đủ âm dương. Bản thể vũ trụ tuy là Nhất nguyên,
nhưng lưỡng cực…
Dịch kinh đã cố trình bày tư
tưởng trên bằng:
a. Hình vẽ Thái Cực
[.
b. Bằng chữ: Chữ Dịch
易
gồm 2 chữ Nhật
日
Nguyệt
月.
Chữ Thổ
土
gồm 2 nét Âm Dương
二
và nét sổ | hợp nhất.
c. Bằng số: 5 hay 15
5 = 2 + 3
15 = 6 +
9
2. Bản thể ấy đã sinh hóa,
phóng phát ra vũ trụ bằng cách phân hóa.
1 chia 2
2 chia 4
4 chia 8
8 chia 16, chia 32,
chia 64, v.v.
Dịch diễn tả tư tưởng ấy
bằng chữ: «Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tưởng
sinh bát quái.»
Hoặc bằng hình vẽ:
Viên đồ và Hoành đồ.
-
Viên đồ:
Bản thể vũ trụ và vạn hữu vẽ thành vòng Dịch tròn. Lúc đó: Tâm điểm là
Thái cực. Vạn hữu là hào quái bao quanh bên ngoài. Thái cực hay Bản thể
như vừng Thái dương sinh xuất muôn ánh hào quang vạn hữu…
-
Hoành đồ:
Bản thể vũ trụ (Thái cực) và Vạn hữu (hào quái)xếp thành hình ngang. Lúc
ấy, Bản thể (Thái cực) là gốc cây, vạn hữu là như cành, như lá bên trên…

Viên
đồ
Hoành đồ
3. Vòng biến dịch tuần hoàn
của vũ trụ được tượng trưng bằng
a. Vòng dịch Tiên Thiên Bát
Quái.

b. Bằng vòng dịch Tiên Thiên
64 quái.
c. Hoặc giản dị hơn, bằng
vòng Thập nhị quái khí.

Ta có thể trình bày vòng
tuần hoàn biến dịch một cách khác như sau:
Trông vào hình đồ trên ta
thấy:
1- Thái cực ở Tâm điểm,
2- Vạn hữu được tượng trưng
bằng sáu vòng tròn bao quanh.
3- Vòng biến dịch bắt đầu từ
tâm điểm đi ra, tới biên, rồi lại quay ngược trở về tâm.
4- Càng đi ra, âm càng
thịnh, dương càng suy. (âm từ 1 hào, dần dần tăng mãi lên cho đến 6
hào).
5- Lúc vòng Dịch quay trở về
được đánh dấu bằng quẻ Phục
復
(quay trở lại).
Như vậy Phục là bắt đầu con
đường hồi tâm, qui tâm, hồi hướng, hướng nội. Phục cũng là
kiến Thiên địa
chi tâm
見 天 地 之 心
(Thấy được Tâm của
trời đất), Bản thể của trời đất. Tâm trời đất cũng là Tâm mình…
6- Càng đi sâu vào Tâm, càng
trở nên trong sáng: Âm căn càng ngày càng giảm, Dương quang càng ngày
càng tăng. Vào đến vòng tròn thứ sáu là đạt Thuần Dương, Thuần Kiền.
7- Vào với Tâm điểm là đắc
Đạo, đắc Nhất, đắc Thiên…
8- Vòng biến dịch tuần hoàn
trên vẽ lại đời sống con người lý tưởng cũng như đời sống nhân quần,
toàn bộ lịch sử tiến hóa con người. Chẳng những thế cũng còn vẽ lại được
vòng biến dịch luân lưu của mặt trời, mặt trăng, hay nói rộng hơn là
toàn thể chu kỳ biến hóa của vũ trụ…
9- Vòng biến dịch này có hai
chiều:
- Con người nói riêng, nhân
loại nói chung, khi còn trẻ sẽ hướng ngoại, đem tinh thần phục vụ giang
sơn tổ quốc, cải thiện ngoại cảnh, đổi lấy miếng cơm manh áo, đóng góp
với đời…
- Khi đã luống tuổi, khi đã
trở về già, sẽ hướng nội, qui tâm, sẽ dùng ngoại cảnh để hỗ trợ cho tâm
thần, tu luyện bản thân, tiến mãi trên con đường huyền hóa.
Vì thế Dịch mới nói: «Nhất
Âm, nhất Dương chi vị đạo, kế chi giả thiện dã, thành chi giả tính dã.»
一 陰 一 陽
之 謂 道 ,繼
之 者 善 也 ,成
之 者 性 也 (Hệ từ
thượng, chương 5)
(Một Âm, một
Dương là đạo [đạo có 2 chiều Âm và Dương: chiều Âm đi trước, chiều Dương
đi sau]. Theo được đường đó thời tốt, đi đến cùng đường sẽ thực hiện
được tính Trời…)
Chỗ cao siêu của Dịch là cốt
dạy con người «Tẩy tâm thoái tàng ư mật»
洗 心 退藏 於 密
(Hệ từ thượng, chương
11)
(Tẩy rửa tâm hồn, trở về với tâm linh).
«Các chính Tính mệnh, bảo
hợp Thái hòa.»
各 正 性 命 保 合 太 和
(Kiền quái, Thoán
truyện)
(Hoàn thiện tính
mệnh mình, hợp nhất với Thái cực, Thái hòa…)
Quan niệm Nhất thể vạn thù
đã đưa đến những hệ quả sau đây:
① Con người là một phân bộ
trong thống thể vũ trụ, nên có liên quan mật thiết với vũ trụ.
Trình Minh Đạo (1032-1065)
viết: «Ta và vạn vật đều chung một Bản thể.» (vạn vật với ta như là một
cơ thể.)
[12]
Lục Tượng Sơn (1140-1192)
viết: «Việc ở trong vũ trụ chính là việc trong bổn phận mình; việc ở
trong bổn phận mình, chính là việc ở trong vũ trụ.»
[13]
Linh mục Vương Xương Chỉ,
tác giả quyển
Triết học luân lý của Vương Dương Minh,
đã viết: «Tin rằng vũ trụ này là một thống thể, trong đó sự thác loạn
của một bộ phận có ảnh hưởng đến toàn bộ vũ trụ, tin rằng con người là
tâm điểm vũ trụ, tâm con người là tâm vũ trụ, đó là tư tưởng hàm tàng
trong kinh điển, và đã được các triết gia thời Tống chủ trương. Cũng như
các triết gia Trung Hoa khác, Vương Dương Minh cũng nhắc lại: «Con người
là tâm điểm vũ trụ. Vũ trụ và ta là một thống thể.»
[14]
Linh mục Matteo Ricci
(1552-1610), sang giảng đạo bên Trung Hoa vào cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ
17 đã nhận định như sau: «Trào lưu tư tưởng mà nhiều người đã theo hiện
nay, theo tôi, có lẽ đã vay, mượn ở một giáo phái tà thần từ 500 năm nay
(Tống Nho). Quan niệm ấy là: Thiên địa vạn vật nhất thể. Hóa công cũng
với trời đất, người vật cỏ cây, tứ tượng, đều hợp thành như một cơ thể
duy nhất, mà vạn vật là những phân bộ. Từ quan niệm nhất thể ấy, họ rút
ra nhiệm vụ bác ái đối với mọi người, và chủ trương mọi người đều có thể
trở nên giống Trời.»
[15]
② Mọi người đều giống nhau
về phương diện bản thể.
Mạnh Tử nói: «Phàm những vật
đồng loại thì bản tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân loại, người ta
nghĩ rằng bản tính chẳng tương tự? Những bậc thánh nhân và chúng ta đều
cùng một loại…»
[16]
③ Con người có thể tiến tới
Đại thể, có thể hòa đồng với Đại thể vũ trụ. Đó chính là chủ trương «Cao
minh phối Thiên, bác hậu phối địa» của Trung Dung. (Trung Dung, 26)
Trình Tử cho rằng: «Thánh
nhân phải có một tầm kích mênh mông như vũ trụ.»
[17]
④ Thế giới là một nhà, người
trong 4 biển đều là anh em.
Trương Hoành Cừ (1020-1077)
làm bài Tây Minh,
tóm tắt đại khái nhân sinh quan mình như sau: «Lấy thế giới làm một nhà,
Trời đất làm cha mẹ, nhân loại làm anh em, vạn vật làm đồng loại của
mình. Vì xem thế giới là một nhà, trời đất là cha mẹ, nên người ta phải
giữ cho tròn bổn phận làm người, vì xem nhân loại đều là anh em, vạn vật
đều là đồng loại, nên người ta phải rộng lòng nhân ái.»
[18]
Lễ Ký nơi thiên Lễ Vận đã đề
ra một thế giới đại đồng. Và kinh Dịch nơi quẻ Đồng Nhân cũng đưa ra một
viễn tượng đại đồng mai hậu…
IV. CAO ĐÀI GIÁO VỚI THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ
Cao Đài giáo thừa hưởng tất
cả kho tàng tư tưởng của Tam Giác nên khảo về Tam Giáo tức là mặc nhiên
đã khảo về Cao Đài giáo.
Nhưng Cao Đài giáo cũng có
một kho tàng tư tưởng riêng. Đó là Cơ Bút. Các bài Cơ Bút đã được ấn
hành dưới nhan đề:
Thánh Giáo Sưu Tập,
gồm 5 tập, từ 1965 đến 1973.[19]
Dưới đây, sẽ chỉ dùng những
tài liệu đặc biệt của Cao Đài giáo để trình bày học thuyết Thiên địa vạn
vật nhất thể với các hệ quả nó dẫn tới.
1. Cao Đài
giáo chủ trương: Vạn vật nhất thể.
Nhất thể tuyệt đối, hay
Thiên Nhãn, hay Cao Đài v.v… đã sinh hóa ra vũ trụ.
Đại Thừa Chân Giáo nơi trang
65 viết:
«Tại sao lại dạy thờ
Thiên Nhãn?
Thiên Nhãn là căn bản
chúng sinh.
Đó là một Đấng trọn
lành,
Một ngôi Chúa tể hóa
sanh muôn loài…»
Thánh Giáo Sưu Tập
1966-1967, nơi trang 39, viết:
«Thuở chưa dựng nên
ngôi Trời đất,
Khoảng không gian mịt
mịt mờ mờ,
Hồn nhiên một khối
ban sơ,
Vần vần luân chuyển gồm
cơ nhiệm mầu,
Khí khinh khinh tỏa sâu
rộng khắp,
Ánh huyền huyền bền
chặt lưu hành,
Vô hình, vô tình,
vô danh,
Cưỡng viết: «Đại Đạo»
hóa sanh vô cùng,
Tượng một điểm tựu
trung duy nhất,
Là Lý, ngôi Thái cực
Thánh hoàng,
Vận hành phân khí
tạo đoan,
Âm dương ngưng tụ, thế
gian lập thành,
Một lý ấy hóa sanh trời
đất,
Gồm chung bầu trời đất
chở che,
Ngũ hành luân
chuyển mọi bề,
Thâu tàng, sinh trưởng,
xuân hè thu đông.
Vạn vật cũng Lý đồng
sinh hóa,
Nhơn nhơn đều Đạo cả
dưỡng nuôi,
Noãn, thai, thấp,
hóa, vô hồi,
Trường tồn tiến thoái,
cõi đời tam nguơn.
Có trời đất, có nhơn có
vật,
Có đạo mầu, trời đất
định phân,
Thế nên khắp chốn
hồng trần,
Đều do Lý Đạo tạo phần
hữu vô…»
Như vậy: Vạn vật đều đồng
một thể với Đạo với Trời.
Mọi người đều đồng bản thể
với Đạo, với Trời.
Thánh Giáo Sưu Tập
1966-1967, nơi trang 35, viết:
«Đạo là ngôi Nhất
Nguyên chủ tể,
Đạo cũng là đồng thể
vạn linh.»
Thánh Giáo Sưu Tập
1968-69, nơi trang 200, viết: «…Vì các con là một trong vạn vật chúng
sinh, mà vạn vật chúng sinh là bản thể của Đạo, mà bản thể của Đạo tức
là bản thể của Thầy. Các con có thương nhau, tức là các con đã thương
Thầy…»
Nơi trang 186 lại viết:
«Thượng Đế chỉ nói một câu: Thầy là các con, các con là Thầy, có nghĩa
rằng tất cả đồng chung một bản thể, tuy hình tướng bên ngoài và cách
xưng hô có khác nhau, nhưng chung qui là có một, không riêng gì của ai…»
Đại Thừa Chân Giáo,
nơi trang 65, viết:
«Thật là diệu
diệu, huyền huyền,
Trời người có một chẳng
riêng khác gì.»
Thánh Giáo Sưu Tập
1966-67, nơi trang 36, viết:
«Con là một Thiêng
liêng tại thế,
Cùng với Thầy đồng thể
linh quang…
Khóa chìa con đã
sẵn sàng,
Khi vào cõi tục, khi
sang Thiên đình…»
Nơi trang 229 viết:
«Người với Trời thể
chất song song,
Nếu mình bền chí
gia công,
Tu thân luyện mạng cũng
mong thành Trời.»
Cho nên mục đích chính yếu
của Cao Đài chính là dạy con người giác ngộ chân lý: TRONG THÂN CÓ TRỜI.
Thánh Giáo Sưu Tập
1968-69, nơi trang 86, viết:
«Thầy ngự trong lòng
mỗi chúng sinh,
Chúng sinh giác ngộ
biết tu hành.
Thương yêu lựa tách
người khôn dại,
Điều độ đừng chia kẻ dữ
lành…»
Thánh Giáo Cao Đài thường
xuyên nhắc đi nhắc lại:
«Dưới lớp nhân tâm còn có
Thiên tâm.» Thiên
tâm ấy là:
- Thánh tâm, Linh tâm, (TGST
1972, tr. 48)
- Thiên tánh, Phật tánh,
(TGST 1972, tr. 112)
- Tâm vương, (TGST 1972, tr.
137-138)
- Đạo tâm, (TGST 1972, tr.
99)
- Phật tâm, (TGST 1972, tr.
112)
- Kim thân, (TGST 1972, tr.
128)
- Kim thân Phật thể, (TGST
1972, tr. 129)
- Như Lai bổn tạng, (TGST
1972, tr. 128)
- Căn nguyên bổn tánh (TGST
1972, tr. 24)
- Chân ngã, Chân như bổn thể
(TGST 1970-71, tr. 83-87)
Nó khác với cái phàm tâm,
cái bản ngã, tức là cái ta nhỏ hẹp, hữu hạn nơi tâm tư bên ngoài, cũng
còn gọi là cái Giả ngã… (TGST 1970-71, tr. 83, 87, 134; TGST 1972-73,
tr.99, 105).
Mới hay:
«Tâm xích tử trọn lành
trọn tốt,
Tánh viên minh ẩn lốt
vạn thù…»
(TGST 1972-73, tr.130)
«Đeo đai sắc tướng hữu
hình,
Quên mình vẫn có riêng
mình Tạo công»
(Ibid., tr.130)
«Đạo vốn vô sanh cùng
bất diệt,
Kim thân hằng hữu tại
thân này…»
(Ibid., tr.128)
Giác ngộ chính là khi cái ta
bản ngã (phàm tâm) tìm ra được cái Ta Thiên tánh (Thiên tâm).
«Còn cái ta là ai? Có phải
cái Ta là Thiên tánh, trong cái bản ngã của thiên hạ chăng? Nếu ta bản
ngã không tìm được cái Ta Thiên tánh, thì biết đời thuở nào mới kết quả
được ý nghĩa của câu: «Thầy là các con, mà các con là Thầy.» (TGST
1970-71, tr.134)
Học Đạo, tìm Đạo, học triết
để biết mình, chung qui là cốt tìm cho ra Cốt lõi con người, Trục cốt
con người, cũng như Cốt lõi, Trục cốt vũ trụ, Trung điểm vũ trụ, trung
điểm con người, chính là đi tìm cho ra cái Ta bao quát cổ kim, Vũ Trụ…
cái Tâm Vũ Trụ…
«Nên duyên Tiên Phật
diệt lòng trần,
Không chánh, không tà,
không ngã nhân.
Chỉ một cái tâm, tâm vũ
trụ,
Thoát ly vạn tướng phục
nguyên thần…
Nguyên Thần thường trụ
chẳng phong ba,
Đáy nước bửu châu hiện
chói lòa.
Bát nhã khai tâm vô
nhất niệm,
Trên trời, dưới thế
biết rằng Ta.
Rằng Ta là một Cái Ta
chung,
Rộng lớn bao la ở khắp
cùng.
Ta chẳng có ta mà vẫn
có,
Có Ta, Ta cũng chỉ Tâm
Trung.»
(TGST 1972-73, tr.78)
2. Cao Đài
chủ trương: Phản bổn hoàn Nguyên, Qui căn phản bản.
Đại Thừa Chân Giáo viết nơi
trang 124:
«Một Lý
phân hai thuận nghịch hành,
Nghịch
hành tu luyện đắc trường sinh.
Vô vi
Đại Đạo nào ai thấu,
Thấu
đặng về nơi Tử Phủ thành…»
Nhưng như trên đã chứng
minh, Đạo hay Thượng đế hay Thiên Nhãn, hay Chân Như Phật tánh đã tiềm
ẩn trong lòng con người để làm căn cơ, để làm căn nguyên, bản thể con
người, thì nghịch hành, hay qui nguyên phản bản, chính là đi vào tâm để
mà tìm Đạo tìm Trời. Đó cũng chính là một chủ trương cốt cán của Cao
Đài…
Thánh Giáo Sưu Tập 1972-1973
cũng đã xác định Qui Nguyên là Qui Tâm, (xem sách trích dẫn nơi tr. 67).
Thánh Giáo Sưu Tập
1970-1971, nơi trang 53, viết:
«Đạo tại tâm hề, Phật
tại tâm,
Vọng cầu bôn ngoại thị
hôn trầm,
Nhơn nhơn tự hữu Như
Lai tính,
Tánh đắc Như Lai pháp
diệu thâm…»
Thánh Giáo Sưu Tập 1965, nơi
trang 51, viết: «Đạo vẫn luôn luôn ở tại trong tâm tánh của mỗi người
nhưng tiếc vì người chưa khổ công nghiền ngẫm, học hỏi giáo lý, nên chưa
tìm phăng ra mối.»
Đại Thừa Chân Giáo (tr. 118)
viết:
«Các con phải hiểu phải
tàng,
Đạo Thầy u ẩn minh
quang tâm điền,
Con nào hữu kiếp
thiện duyên,
Gặp minh sư chuyển diệu
huyền nơi tâm.»
Thánh Giáo Sưu Tập 1972, nơi
trang 165, viết:
«Đạo tại tâm trung
chẳng phải xa,
Thật hành quyết chí sẽ
tìm ra.
Phật, Tiên, Thượng đế
không xa lắm,
Xa hoặc được gần cũng
bởi ta…»
Cao Đài Giáo Lý cũng cho ta
thấy thực sự Đạo ở nơi đâu, Trời ở nơi đâu trong con người.
Thánh Giáo Sưu Tập 1968-69,
nơi trang 5, đã cho biết chỗ cất giấu chìa khóa thiêng để mở mọi cửa
nhiệm huyền: «Bao nhiêu huyền bí thiêng liêng, nhiệm màu siêu việt,
nhưng chìa khóa mở, đức Chí Tôn đã đặt trong chỗ cao nhất của mỗi người,
hãy tìm lấy và mở lấy. Hỡi chư hiền.»
Chỗ cao nhất trong con người
là nơi đâu? Thưa là Nê Hoàn Cung, là Não Thất Ba, nơi tâm điểm đầu não
con người. Cửa trời ở đấy, Thượng Đế ở đấy, Thiên Nhãn ở đấy, Thiên thai
cũng là đấy.
Đại Thừa Chân Giáo, nơi
trang 61 viết: «Huyền quan nhất khiếu là chi? Là Thiên Nhãn vậy. Nó ở
ngay Nê Hoàn cung, gom trọn chơn dương chính đạo…»
Nơi trang 56 lại viết: «Chữ
Cao Đài là gì? Là Côn Lôn đảnh hay là Nê huờn, thuộc về thượng giới…
Thiên môn là cái gì? Là cái khiếu Nê Hoàn cung đó. Chừng nào linh hồn
phá Thiên Môn đặng là nhập vào Thượng Thanh Cung.»
Nơi trang 56, Đại Thừa Chân
Giáo còn cho biết:
Trong hình thập tự, nơi nét
sổ ngang có Tam Thanh chi vị. Tam Thanh là Chân Thanh, Ngọc Thanh và
Thượng Thanh.
Chân Thanh là Nguyên khí,
Thượng Thanh là Nguyên Thần, Ngọc Thanh là Nguyên tinh. Nếu Thượng Thanh
là Nê Hoàn cung, là Não Thất Ba, thì Chân Thanh và Ngọc Thanh phải là
xoang não bên của đầu não con người chứa đựng Nguyên tinh, Nguyên khí,
Nguyên thần con người…
Nếu Thiên Nhãn ở đó, thì
Chân Như Phật tánh cũng ở đó, Thiên Thai lạc cảnh cũng ở đó, Tâm vương
cũng ở đó, nơi Trời người gặp gỡ cũng ở đó…
Đại Thừa Chân Giáo viết nơi
trang 66:
«Mỗi người có tánh Như
Lai,
Tìm ra thấy sẵn Thiên
thai bên mình.»
Thánh Giáo Sưu Tập 1972, nơi
trang 138, viết:
«Tâm vương ngự trị ở
con người,
Đó cũng là nơi hiệp với
Trời…»
Đọc Giáo Lý Cao Đài ta thấy
niềm tin rằng con người đã từ khối Đại Linh Quang xuống hồng trần, nên
cần phải tu trì để trở về ngôi vị cũ, trở về quê hương cũ… (Thánh Giáo
Sưu Tập 1970, các trang 87,185,195, 198, 199, 200, v.v…)
Vì thế mới chủ trương:
«Xưa toàn linh bước vào
cõi tạm,
Tạm đầy rồi vượt phẩm
Phật tiên,
Phải đâu, căn kiếp
nghiệp duyên,
Sở sanh, sở trụ ở miền
trần gian…»
(TGST 1970, tr. 198)
Như vầy là Cao Đài chấp nhận
quan niệm Luân Hồi, chuyển kiếp… Và vì Cao Đài chủ trương vạn vật đồng
nhất thể nên chủ trương:
Ái vật, Ái nhân…
(TGST 1972-73, tr. 24)
«Đạo tuy định nghĩa
khắp muôn phương,
Căn bản làm đầu, một
chữ thương,
Thương chúng, thương
mình, thương tất cả.
Thì đem chân đạo sớm
hoằng dương…»
(TGST 72-73, tr. 157)
Tu hành đắc đạo là: «Quán
triệt chỗ hư linh để xả vạn duyên mà đắc pháp.» (TGST 1972, tr.133)
Thành Tiên, thành Phật,
thành Trời:
«Đạo có gì đâu, Đạo ấy
Trời,
Trời là Tiên Phật cũng
là người.
Người hay giác ngộ
thành tiên Phật,
Tiên Phật vọng tâm cũng
xuống đời…»
(TGST 1972, tr. 170)
Theo Cao Đài, tu hành có mục
đích là thành tiên, thành Phật, thành Trời.
«Tu hành là học làm
Trời,
Phải đâu kiếp kiếp làm
người thế gian?»
(TGST 70-71, tr.134)
Cho nên đắc đạo là:
Trở về được với Điểm
Đạo trong con người…
«Khi nhìn qua tất cả vạn
vật, hình thức vẫn khác nhau, danh tánh khác nhau, nhưng tựu trung vẫn
có một điểm đạo. Đó là Thượng Đế chí tôn, đó là nhân bản, đó là Thánh,
Hiền, Tiên, Phật.» (TGST 1970, tr. 95)
Thế là đắc Nhất, thế là hợp
nhất với Thượng Đế…
«Rồi từ cái được nhiều như
vậy, các con nếu biết phương pháp để đạt tới sự đắc nhất, là chìa khóa
mở cửa đạo, hiệp với đạo, hiệp với Thầy vậy.» (TGST 1970, tr. 207-208)
Thế là dùng lẽ MỘT mà cắt
nghĩa tất cả.
Một là Bản nguyên vũ trụ,
Một là căn do mọi biến hóa trong vũ trụ, và lúc chung cuộc con người lại
trở về với Một, vạn hữu lại trở về với Một. Thuyết Thiên Địa Vạn Vật
Nhất Thể hay ở chỗ đó, mà đẹp cũng ở chỗ đó…
«Một là tất cả đó con
ôi,
Tất cả biết gom: một lẽ
Trời,
Mới ứng dụng vào trong
thế sự,
Không là những chuyện
nói đùa thôi…»
(TGST 1970-71, tr. 210)
Cao Đài còn có nguyện ước là
đưa Việt Nam về với Căn Bản siêu việt đó;
«Đi về đâu VIỆT NAM ơi,
Về nơi Nhân Bản của
Trời trước kia…»
(TGST 1970-71, tr. 215)
.KẾT
LUẬN.
Xin kết luận Thiên Khảo Luận
này bằng mấy ước mong:
* Ước mong rằng: những nét
chính yếu về triết học, và đạo giáo nêu trên, sẽ vạch ra cho nhân loại
sau này một con đường tiến hóa chân chính, để qui Căn phản Bản…
* Ước mong rằng học thuyết
THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ vì phối hợp được mọi tinh hoa của nhân quần
tự cổ chí kim, từ đông sang tây, sẽ góp được vào công cuộc xây dựng một
ĐẠI ĐẠO cho nhân quần…
Saigon, 23.9.1976.
[1] Pháp bảo
đàn kinh, Bát nhã
phẩm đệ nhị. - Xin xem: Thích Đạo Quang,
Đại cương triết học Phật
giáo.
[2] Empty (Sunya) or emptiness (sunyata) is one the most important
notions in Mahayana philosophy and at the same time the most puzzling
for non-buddhist reader to comprehend. Emptiness does not mean
«relativity» or «phenomenality» or «nothingess» but rather means the
absolute or something of transcendental nature, although this rendering
is also misleading as we shall see later…
Dr. Suzuki,
Manual of Zen Buddhism,
p. 29.
[3] Phàm vật giả thủy ư không, Thái cực giả không dã. Không năng
sinh Nhất, Nhất năng sinh vạn, dĩ vạn hoàn Nhất, Nhất phục hoàn không…
凡 物 者 始
於 空 ,
太 極 者 空 也
.空 能 生 一
,
一 能 生 萬
,
以 萬 還 一
,
一 復 還 空
.
Không giả vạn vật chi tổ dã.
Học giả yếu kiến Chân không, vật kiến giả không, yếu kiến Linh không,
vật kiến ngoan không…
空 者 萬 物 之 祖 也
.學 者 要 見
真 空 ,
要 見 靈 空
,
勿 見 頑 空.
Xướng đạo chân
ngôn, q.2, tr.9.
[4] Đơn giả thiên địa chi bản dã. Hà dĩ vi thiên địa vạn vật chi
bản. Đơn giả, Đạo dã. Hư vô chi thể dã. Hư vô bất khả lập danh. Cố thánh
nhân dĩ Đạo danh chi. Hư sinh Nhất, Nhất sinh vạn, vạn hoàn Nhất, Nhất
hoàn Hư.
丹 者 天 地 之 本 也
.何 以 為 天
地 萬 勿 之 本 丹 者 ,
道 也
.虛 無 之 體
也 .虛
無 不 可 立 名 .故
聖 人 以 道 名 之 虛 生 一 ,
一 生 萬
,
萬 還 一
,
一 還 虛.
Xướng đạo chân
ngôn, q.3, tr.19.
[5] Đạo gia vị chi Hư, Phật gia vị chi Không. Không năng vô sở bất
kiến, vô sở bất văn. Không vô sở cách, Không bản vô lượng vô biên. Cố
nhân phát nhất niệm, đồng thất chi nhân bất tri, nhi vô lượng vô biên
chi Không tri chi. Nhu gia chi thận độc Úy không cố dã…
道 家 謂 之 虛 佛 家 謂
之 空 空 能 無 所 不 見 無 所 不 聞 空 無 所 隔
,
空 本 無 量 無 邊
.故 人 發 一
念 同 室 之 人 不 知 而 無量 無 邊 之 空 知 之
.儒 家 之 慎
獨 畏 空 故 也.
Xướng đạo chân ngôn,
q.5, tr. 31.
[6] Đạo tán
vi Đức
道 散 為 德,
les produits divers du Principe sont les manifestations de sa vertu.
Đức vi Đạo chi
kỷ dã
德 為 道 之 己 也
,
la chaîne infinie de ses manifestations de la vertu du Principe, peut
s’appeler le dévidage du Principe. (Léon Wieger,
Les Pères du Système
taoiste, p. 29)
[7] Xem Xung
Hư Chân Kinh
沖 虛 真 經,
chương I.
[8] Xem Xung
Hư Chân Kinh
沖 虛 真 經,
chương I.
[9] Ngọc thư viết: Nhất tam ngũ, thất cửu. Đạo chi phân nhi hữu số.
Kim mộc thủy hỏa thổ, Đạo chi biến nhi hữu tượng. Đông tây nam bắc
trung, Đạo chi liệt nhi hữu vị. Thanh bạch xích hoàng hắc, Đạo chi tán
nhi hữu chất. Số qui ư vô số, tượng phản ư vô tượng, vị chí ư vô vị,
chất hoàn ư vô chất. Dục Đạo chi vô số, bất phân chi tắc vô số hĩ. Dục
Đạo chi vô tượng, bất biến chi, tắc vô tượng dã. Dục Đạo chi vô tượng,
bất biến chi, tắc vô tượng dã. Dục Đạo chi vô vị, bất liệt chi tắc vô vị
hĩ. Dục Đạo chi vô chất, bất tán chi tắc vô chất hĩ. Vô số Đạo chi
nguyên dã, vô tượng Đạo chi bản dã, vô vị Đạo chi chân dã.
玉 書 曰
: 一 三 五
,
七 九 道 之 分 而 有 數
.金 木 水 火
土 ,
道 之 變 而 有 象
.冬 西 南 北
中 道 之 列 而 有 位 .青
白 赤 黃 黑 ,
道 之 散 而 有 質
.數 歸 於 無
數 象 反 於 無 象 ,
質 還 於 無 質 欲 道 之
無 數 ,
不 分 之 則 無 數 矣 欲
道 之 無 象 不變 之 則 無 象 也
.欲 道 之 無
位 ,
不 列 之 則 無 位 矣 欲
道 之 無 質 ,
不 散 之 則 無 質 矣
.無 數 道 之
原 也 ,
無 象 道 之 本 也
,
無 位 道 之 真 也.
Linh Bảo Tất
Pháp, hạ quyển,
tr. 12a.
[10] Nam Hoa
Kinh, Chí Lạc.
[11] Phù vật vân vân; Các qui kỳ căn; Qui căn viết tĩnh; Tĩnh viết
phục mệnh; Phục mệnh viết trường…
夫 物 芸 芸
,
各 歸 其 根
. 歸 根 曰
靜 ,
靜 曰 復 命 復 命 曰長.
[12] Vạn vật dữ ngã nhất thể dã.
萬 物 與 我 一 體 也
(Phan Bội Châu,
Khổng Học Đăng,
II, tr.700)
[13] Vũ trụ nội sự nãi kỷ phận nội sự. Kỷ phận nội sự, nãi vũ trụ
nội sự.
宇 宙 內 事 乃 己 分 內 事 .
己 分 內 事
乃 宇 宙 內 事 (Phan Bội
Châu, Khổng Học
Đăng, II, 715)
[14] … Considérer l’univers comme faisant un tout et où le désordre
d’une partie se répercute dans le tout, considérer encore l’homme comme
un centre de cet univers et faire du cœur de l’homme le cœur de
l’univers telle est l’idée contenue dans les livres classiques et
exprimée surtout par les philosophes des Song… Avec tous les penseurs
chinois, il (Wang Yang Ming) répète que l’homme c’est le cœur de
l’univers, l’univers avec moi constitue un seul corps. (Wang Tchang
Tche, S.J., La
Philosophie morale de Wang Yang Ming,
pp. 74-75).
[15] Mais l’opinion la plus suivie actuellement et qui me parait
(pare) empruntée à la secte des idoles depuis 500 ans (Philosophie des
Song) c’est que tout ce monde est fait d’une seule substance, et que le
Créateur du monde avec le ciel et la terre, les hommes et les animaux,
les arbres et les végétaux, et les quatre éléments forment un corps
continu dont les divers êtres sont les membres. C’est de cette unité de
substance que l’on déduit le devoir de la charité envers les hommes et
la possibilité pour tous de devenir semblables à Dieu. (Henri Bernard
Maýtre, Sagesse
chinoise et philosophie chrétienne,
p. 108).
[16] Mạnh
Tử, Cáo tử
(thượng), tiết 7: Cố phàm đồng loại giả cử tương tự dã. Hà độc chí ư
nhân nhi nghi chi? Thành nhân dữ ngã đồng loại dã.
故 凡 同 類 者 舉 相 似
也 .
何 獨 至 於 人 而 疑 之
. 聖 人 與
我 同 類 也.
[17] Nhân hữu đẩu sao chi lượng, hữu phủ hộc chi lượng, hữu chung
đỉnh chi lượng, hữu giang hồ chi lượng. Giang hồ chi lượng cố đại hĩ,
nhiên hữu nhai sĩ, diệc hữu thời nhi mãn. Duy thiên địa chi lượng tắc vô
mãn. Thánh nhân hữu thiên địa chi lượng dã.
(Uyên
giám loại hàm,
mục chữ Thánh, tr. 4670)
[18] Bửu Cầm,
Tống Nho,
tr. 64.
[19] Ngoài ra, các bài Cơ Bút còn được kết tập theo từng chủ đề
riêng như khuyến tu hoặc dạy Pháp (tức là dạy luyện
đan, luyện đạo); được in ấn và lưu hành trong một chi phái hay hội
thánh nào đó, vốn là nơi đã thiết đàn để có các bài Cơ Bút ấy. Các bài
khuyến tu, khuyến thiện thì có tính phổ truyền (phổ biến rộng rãi
cho mọi người trong và ngoài đạo) nhưng các bài Cơ Bút dạy Pháp (luyện
đan, luyện đạo) thì có tính mật truyền (chỉ truyền cho một vài
tín
đồ được tuyển chọn). Đã là mật truyền thì thân thiết như cha con cũng
không được phép truyền dạy cho nhau hay đưa nhau đọc. Có những đàn Pháp
quan trọng (thí dụ: dạy khẩu quyết hay chỉ điểm cách khai mở huyệt đạo,
v.v.) thì các đấng Thiêng Liêng (thông qua đồng tử ứng khẩu) sẽ vấn đáp
trực tiếp với tu sĩ. Cơ bút không dùng ở đây để tránh tiết lậu ra người
ngoài, vì e rằng những kẻ hiếu kỳ, bạc hạnh, căn trí thấp thỏi, lén đọc
và tự luyện tập theo sai lạc, dẫn tới điên loạn.
»»
[
mục lục ] [
phần A ] [
phần B ] |