»»
[
mục lục ] [
phần A ] [
phần B ]
PHẦN A
THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ TRONG
BÀ LA MÔN GIÁO VÀ TRONG ÍT NHIỀU HUYỀN MÔN KIM CỔ
I. BÀ LA MÔN GIÁO VỚI
THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Có thể nói ngay được rằng:
Thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể là một học thuyết then chốt, làm
căn bản cho các thánh thư Ấn độ như Veda, Upanishads, Bhagavad Gita…
Câu hỏi triết học mà các
nhà thấu thị Ấn độ luôn luôn đặt ra cho các đệ tử, cũng như cho các độc
giả thánh thư là: Vũ trụ này do đâu mà có, đã được cấu tạo nên bằng chất
liệu gì?
Con người ai đã sinh xuất
từ đâu, đã do đâu mà sống còn, đã chịu sự chỉ huy của ai, v.v.
Và câu trả lời duy nhất,
nhưng dưới nhiều hình thức:
- Trực ngôn
(Chandogya Up. 6, 14, 3. – Brihad – Aranyaka Up. III, 9. I)
- Ẩn dụ
(Aitareya Up. I. – Chandogya Up. 6. 12. I-3. –6, 13. I-3. –6, 2. I-4)
- Huyền thoại
(Yajur Veda bạch XXXII, I. – Rig Veda X, 90) chỉ là:
Vũ trụ này cũng như vạn
hữu đều do MỘT NGUYÊN LÝ, MỘT BẢN THỂ DUY NHẤT sinh hóa ra, phóng phát
ra.
Bản thể duy nhất ấy có rất
nhiều danh hiệu:
- Brahman (Brihah –
Aranyaka Up. 2.3.6. –3, 9. 26)
- Atman
- Brahmanaspati (Rig Veda
10.72.2)
- Visvakarman (Tạo Hóa –
The All Maker) (Rig Veda, 10. 81)
- Purusha (Chân nhân) (Rig
Veda 10.90)
- Prajapati (Chúa tể càn
khôn) (Lord of creatures)
- Purusha (Chân nhân) (Rig
Veda, 10. 90. – Mundaka Up. 2.1.10)
- Hiranyagarbha (Kim đơn –
Kim nhân – The Golden Germ) (Rig Veda. 10. 121.I)
Nếu nhân cách hóa Bản thể
vũ trụ ấy, và gọi đó là Đấng Tối cao, thì đấng tối cao này đã sinh hóa
ra vũ trụ bằng chính thân thể mình… đã hi sinh thân xác mình, đã phân
hóa xác thân mình để tạo thành vũ trụ vạn hữu, chứ không phải là đã tạo
dựng nên vũ trụ bằng một chất liệu nào ngoài mình. (Rig Veda X, 90)
Xin trích dịch một đoạn
Aitareya Up. :
«… Miệng ngài sinh ra
tiếng nói và lửa,
Mũi Ngài sinh ra hơi thở
và gió,
Mắt Ngài sinh ra cái thấy
và mặt trời.
Tai Ngài sinh ra cái nghe
và bốn phương trời.
Da Ngài sinh ra tóc, tóc
sinh ra cây cối.
Tim Ngài sinh ra tâm tư và
mặt trăng,v.v.»
Như vậy mối giây liên lạc
giữa Thượng đế và vũ trụ là một mối giây liên lạc cơ hữu (relation
organique).
Ví dụ Ngài là con người,
thì vạn hữu là thân thể Ngài. (Rig Veda, X, 90)
Ví dụ Ngài là con nhện,
thì vạn hữu sẽ là tơ nhện từ mình nhện sinh ra. (Brihad Aranyaka Up.
20.2.1)
Ví dụ Ngài là lửa, thì vạn
hữu là những tia lửa, những tàn lửa từ lửa phóng ra. (Brihad Aranyaka
Up. 20.2.1)
Vạn hữu với Ngài như nước
và muối. Khi muối đã hòa tan trong nước, thì đâu có nước, đấy sẽ có
muối. (Chandogya Up. 6, 13, 1-3).
Từ học thuyết trên sinh ra
hai dòng tư tưởng:
a. Nhà thấu thị có thể
coi Brahman là vũ trụ
(Mundaka 2.2.II) (Mandukya Upanishads 2)
«Là lửa, Ngài sưởi ấm,
Ngài là vừng Thái dương,
Ngài là mưa móc đượm
nhuần,
Ngài là đất, và vật chất,
là Thần,
Ngài là Hữu, Ngài là Vô,
Ngài là Hằng cửu.»
… «Ngài là vừng dương
trong thinh không,
Ngài là thần Vasu trong
không khí, Ngài là gió,
Ngài là đạo sư trước bàn
thờ, Ngài là tân khách đến chơi nhà.
Ngài ở trong người, trong
không gian, trong định luật thiên nhiên, Ngài ở trên trời. Ngài sinh ra
trong nước, trong mục súc, trong định luật thiên nhiên, trong nham
thạch. Đấng toàn thiện, đấng tối cao là như vậy.»
«Brahman, thật ra là bất
tử. Brahman ở đằng trước, Brahman ở đằng sau, ở bên trái, ở bên phải;
Brahman ở trên, Brahman ở dưới, Brahman thật ra chính là toàn thể thế
giới, toàn thể vũ trụ.» (Mundaka 2.2.II)
«Bởi vì thật sự, vạn hữu
là Brahman.» (Manukya Up. 2)
…«Ngài nhập vào vạn hữu,
ngay cả vào đầu móng tay, y như dao cạo tra vào bao dao, y như lửa nằm
trong mồi lửa.»
b. Nhà thấu thị cũng có
thể coi Brahman, Atman là Bản thể, là Cốt lõi, là Trục cốt vạn hữu.
Tìm ra được cốt lõi ấy,
Trục cốt ấy, là hiểu được Brahman, hiểu được vạn hữu, hiểu được chính
mình.
Đó là chìa khóa mở ra mọi
hiểu biết.
Thực tại chỉ là Một. Biến
thiên phiền tạp chỉ là hình tướng.
«Trên mặt đất này không có
tạp thù, không có biến thiên thực sự. Kẻ nào chỉ nhìn thấy biến thiên
cách biệt bên ngoài, kẻ ấy sẽ còn trong vòng sinh tử. Tất cả phải được
nhìn thấy trong Nhất thể, trong thực thể, Bản thể duy nhất bất khả tư
nghị…» (Brih. 4.4.19-20)
Upanishads tuyên xưng:
«Thực sự nếu nhìn thấy,
nghe thấy được, nghĩ ra được, tìm hiểu được Đại Ngã, sẽ hiểu được vũ trụ
này.» (Brih. 2.4.5)
«Thực sự, ai mà thấy được
sợi giây nhất quán, thấy được Chủ tể nội tại hàm tàng trong vạn hữu,
người đó biết Brahman, người đó hiểu biết vũ trụ, hiểu biết thần minh,
hiểu biết Veda, hiểu biết tạo vật, hiểu biết Đại Ngã, hiểu biết mọi sự…»
(Brih. Up. 3.7.1)
Thấy được Trời lồng trong
vạn hữu là đạt tới chân tri, là tìm thấy được Thượng Đế.
«Ai mà thấy được Chúa
Trời,
Lồng trong vạn vật, vạn
loài thọ sinh,
Trường tồn giữa mọi
điêu linh,
Trường tồn vĩnh cửu trong
mình biến thiên,
Thế là tri giác vẹn
tuyền…»
*
«Ai mà thấy được vạn
loài,
Ngoài tuy riêng rẽ, trong
thời đồng căn,
Lòng trời kết giải
đồng tâm,
Từ Trời phóng xuất xa gần
miên man,
Thế là tìm thấy
Brahman…»
- Biết được Căn bản, biết
được chân tướng mình, biết được rằng có Trời trong dạ là điều kiện thiết
yếu để trở thành tiên phật, thánh, thần…
«Chân nhân nhỏ tựa
ngón tay,
Lồng trong tâm khảm muôn
loài thụ sinh,
Tâm thần trí lự bao
quanh,
Ai mà biết được trở thành
thần tiên…»
… «Biết Trời trong dạ
ấy ai,
Thành thần, siêu thoát
vòng đời từ sinh.
Cùm xiềng tháo gỡ
sạch sanh,
Không còn sinh tử, điêu
linh, thảm sầu.»
Thuyết Thiên địa vạn vật
nhất thể dẫn tới một tuyên ngôn rất vĩ đại về giá trị, về phẩm giá con
người:
«Con người chính là
Thượng Đế.»
«Bạn chính là Cái đó.»
TAT TVAM ASI.
- Chúng ta sẽ dùng một
đoạn Mundaka Up. Để toát lược và kết thúc thuyết Thiên địa vạn vật nhất
thể của Bà La Môn:
«Ngài luôn hiện hữu
gần kề,
Ngự trong tâm khảm chẳng
hề xa xôi,
Làm tâm, làm đích
muôn loài,
Muôn dân muôn thuở chẳng
ngoài quyền uy,
Sinh linh vạn hữu
hướng về,
Ngài là cùng đích mọi bề
ước mơ.
Huyền vi, linh diệu
không bờ,
Trí khôn phàm tục khôn
dòn, khôn hay.
*
Ngài là Thượng Đế cao
vời,
Siêu linh, bất biến đời
đời nhất như.
Sinh tồn, ngôn ngữ
tâm tư,
Trường sinh, thực tại, như
như cũng Ngài…
Ngài là đích điểm
phải coi,
Phải nhìn, phải ngắm, chớ
lơi lòng vàng.
Thánh thư là cánh
cung dương,
Mũi tên thần trí, ta mang
lắp vào.
Bạn ơi ngắm đích đi
nào,
Dương cung hãy bắn trúng
vào Thiên tâm.
Oum là chính chiếc
cung thần,
Mũi tên là bạn, hồng tâm
là Trời.
Hãy nhìn ngắm đích
chớ lơi,
Như tên, bạn phóng vào
Trời cho sâu.
Đấng làm trục cốt
hoàn cầu,
Khí, thần, trời, đất trước
sau nương nhờ.
Bạn ơi đừng có nghi
ngờ,
Đó là Chân Ngã, đó là
chính Anh.
*
Nhịp cầu bắc tới
trường sinh,
Những nhời vừa nói bắc
thành chẳng sai.
Quên đi tạp thuyết
trên đời,
Chào mừng bạn đã là người
quá giang.
Từ nay bến giác đã
sang,
Bờ mê nhìn lại mơ màng âm
u.
*
Trời là toàn thể,
nhất như,
Trước sau, trên dưới, toàn
khu đều Ngài.
Tả biên, hữu dực chơi
vơi,
Lồng trong vạn hữu, khắp
nơi vô cùng…
II. KABBALE VỚI QUAN NIỆM VẠN VẬT ĐỒNG
NHẤT THỂ
Kabbale là huyền môn Do
Thái có từ xa xưa. Theo Spinoza, nó tóm thâu tư tưởng của các người Do
Thái thời xưa.
Huyền môn này có hai bộ sách danh tiếng:
1. Sepher Ietzirah
(Livre de la Création: Sách sáng tạo)
(hay Sépher Yessira, hay
Sépher Yetsira)
2. Zohar
(Livre de la Splendeur: Sách Quang huy).
Kabbale giải thích căn
nguyên, sự hình thành, vòng biến dịch cùng đích vũ trụ và con người
bằng: Ein-Sof và mười Sephiroths (thập tính, thập duyên, dix attributs).
Ein-Sof là Hư vô, là Bản
thể tuyệt đối của vũ trụ, khi chưa hình hiện hiển dương. Ein-Sof là toàn
thể vũ trụ. Ein-Sof tương đương với Vô cực trong kinh Dịch.
Thập duyên
phác họa sơ đồ hình thành vũ trụ hữu hình.
1.
Kéther (Couronne) là Nguyên lý sáng tạo nên vũ trụ hữu hình,
tương đương với danh từ Thái cực.
2.
Chocmah, Khí dương (Force mâle, expansive)
3.
Binah,
Khí âm (Force femelle, astringente)
4.
Chesed,
Nghĩa (Force bienfaisante, ordonnée)
5.
Geburah, Lễ (Force destructive, guerrière)
6.
Tiphered, Tín (Harmonie, équilibre, beauté)
7.
Netzach, Nhân (Amour)
8.
Hod, Trí (Intelligence objective)
9.
Yésod, dục giới (Monde astral du désir)
10.
Malkuth, sắc giới (sphère des corps, monde terrestre).
Có thể nói rằng thập duyên
tương đương với các quan niệm Thái cực (Kéther), Âm Dương (Binah,
Chocmah), Ngũ hành (Chesed, Geburah, Tiphered, Netzach, Hod), Tam tài
(Kéther: Thiên; Yesod: Nhân; Malkuth: Địa)
của kinh Dịch.
Kabbale cũng còn dùng Tâm
điểm và nhiều vòng tròn đồng tâm để giải thích về căn do, sự hình thành,
biến dịch, và mục phiêu vũ trụ.
Đại khái:
1. Khi chưa có vũ
trụ hữu hình (tiên thiên), thì chỉ có Bản thể (Ein-Sof) ở thể tiềm ẩn.
Lúc ấy Ein-Sof là toàn thể vũ trụ.
2. Khi thế giới
đã hình hiện (hậu thiên), thì Thượng Đế là tâm điểm, là cốt lõi vũ trụ.
Từ trung tâm sáng
tạo ấy, phóng phát ra vạn hữu.
Chiều sinh hóa từ vô cùng
đến hữu hạn ấy được diễn biến từ một tâm điểm cho đến các vòng tròn bên
ngoài. Càng xa tâm càng trở nên chất chưởng.
Và các lớp lang hình tướng
bên ngoài của vũ trụ y như là những lớp vỏ, lớp áo phủ ngoài Thượng Đế.
Thời kỳ hoàng kim mai hậu
là thời kỳ mà vạn vật qui căn phản bản.
Khi ấy Thượng Đế sẽ rũ bỏ
những lớp áo, lớp vỏ bên ngoài, và sẽ hiện ra vinh quang.
- Zohar chủ trương Phiếm
thần và coi Thượng Đế là vũ trụ, vũ trụ là Thượng Đế.
- Zohar chủ trương thuyết
phóng xuất, sinh hóa ra vũ trụ, không chấp nhận thuyết tạo dựng.
- Zohar cho rằng: Cơ cấu
con người, cơ cấu vũ trụ giống nhau. Hiểu vũ trụ sẽ hiểu con người, hiểu
con người sẽ hiểu vũ trụ. Ngắm nhìn suy tư về vũ trụ, con người sẽ «nhận
ra rằng tất cả những yếu tố, những chất liệu bên ngoài đều có đủ trong
mình, con người toát lược lại vũ trụ, và đấng Duy Nhất, bất khả tư nghị,
đấng đã sinh ra vũ trụ và sẽ thu hút vũ trụ về, cũng chính đáng là đấng
ngự trị ngay trong lòng con người.»
PHỤ LỤC
Khảo Kabbale, ta thấy
người Do Thái xưa, ngoài cách dùng từ ngữ thông thường, để diễn tả tư
tưởng, còn có những cố gắng dùng nhiều phương pháp khác để diễn tả tư
tưởng. Trong những phương pháp đó ta thấy họ dùng:
- SỐ
- CHỮ
- HÌNH ẢNH
Khảo kinh Dịch, ta cũng
thấy những cố gắng tương đương như vậy.
1. Dùng Số để diễn
tả tư tưởng
Để diễn tả tư tưởng
Nhất thể biến vạn thù, vạn thù qui Nhất thể, người Do Thái cũng đã
dùng số, nhất là dùng 10 con số đầu.
Số 1 tượng trưng cho Bản
thể duy nhất, cho Thượng đế, căn nguyên sinh xuất vạn hữu.
Số một như vậy không phải là một con số.
Số 2 mới chính là con số
bắt đầu, vì 2 là cơ chế biến hóa, gồm 2 động lực tương đối, sinh khắc.
Số 1 như vậy là Căn
nguyên, là Bản thể, 9 số sau là cung cách biến hóa.
Nói theo từ ngữ hiện tại, thì số 1 là Bản thể, các số khác là phụ tượng
(accidents).
Số 10 đặc biệt có nghĩa là
Hòa hợp, là Thái hòa. Như vậy, nó gợi lên ý niệm rằng, đến lúc chung
cuộc, vạn vật sẽ trở nên thành toàn, viên mãn, trong một toàn thể Thái
hòa.
Số 10 tương ứng với mẫu tự số 10 Yod của tiếng Do Thái, mà Yod là Thượng
đế. Như vậy 1 là Thượng Đế, Căn nguyên, Bản thể vũ trụ. 10, là Yod, là
Thượng đế viên mãn lúc chung cuộc. Thế là thủy chung như nhất.
Ý nghĩa 10 con số càng trở
nên rõ rệt, nếu ta đem so sánh nó với quan niệm dân gian về vũ trụ. Dân
gian tin rằng Thượng đế ngự trên chín tầng trời.
2. Dùng chữ để diễn
tả quan điểm Nhất thể vạn thù
Do Thái gọi Thượng đế là
Yod He Vau He יהוה. Khi chưa sinh
thành ra vũ trụ, thì họ viết Yod, H Vau, H nguyên thành một chữ.
Khi đã sinh thành ra vũ trụ thì họ chia chữ Yod He Vau He thành
ra 4 phần, mỗi phần riêng chiếm một phương trời. Ý nói Thượng Đế là vũ
trụ, vũ trụ là phân thân của Thượng Đế.
Ngoài ra, Yod
י
còn
có nghĩa là Bản thể.
He
ה
gồm hai phần:
I và ℩ tượng trưng cho hai động lực
âm dương, tương sinh tương khắc nguyên thủy, nguồn sinh hóa ra vạn hữu.
Vau
ו là chữ thứ 6. 6 có thể cắt nghĩa là Lục hợp (sáu phương
trời).
3. Dùng hình ảnh để
diễn tả tư tưởng Nhất thể vạn thù
Hình ảnh mà Kabbale dùng
để diễn tả tư tưởng Nhất thể tán vạn thù, như ta đã thấy, là hình tròn,
hay Tâm điểm và nhiều vòng tròn đồng tâm.
Ibn. Erza coi vòng tròn là
tượng trưng cho vũ trụ biến dịch tuần hoàn, thủy chung như nhất.
iii. hUYỀN MÔN CỔ AI CẬP VỚI THUYẾT THIÊN
ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ
☸
Pharaoth AKHENATEN VỚI QUAN NIỆM THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ

Akhenaten (1575-1358 trước Công Nguyên) là
vị Pharaoth duy nhất đem áp dụng thuyết Thiên Địa Vạn Vật nhất thể vào
phương cách trị dân.
Ông lấy Biểu Hiệu đĩa tròn màu vàng y,
tượng trưng cho Thần mặt Trời (Aten) . Ông chọn vừng dương làm khẩu
hiệu, vì vừng dương là một khối Nam Châm vĩ đại, vì đó là một luồng khí
lực từ điện bao gồm tòan thể vũ trụ này, là một tâm thức thiêng liêng
thấm nhuần tất caû vạn vật ( Dấu Chân trên cát, tr. 105), nhờ vừng dương
nên muôn loài mới sống. Ông gọi đó là Đấng Chân Lý tuyệt đối điều khiển
muôn loài. (Xem Nguyên Phong, Dấu Chân trên cát, tr. 83).
Trước khi lên ngôi vua, Ông đã ẩn cư trong
sa mạc nhiều năm để nghiên cứu và tìm về mạch nguồn cổ xưa, và ý thức
được rằng vốn có một định luật cao cả điều khiển tất cả mọi sự vật trong
trời đất (Sách Trích Dẫn, tr. 85)
Khi lên làm Pharaoth ông nhất định không
thờ Đa thần như các Pharaoths trước, không gây chiến tranh với các nước
láng giềng như các Pharaoth xưa, cho hết cung tần mỹ nữ về quê quán, mở
kho chẩn bần cho dân mỗi khi có hạn hán, không bắt lính tráng, giải ngũ
cho nhiều người, giáo dục dân chúng để cho họ biết rõ qui luật vũ trụ,
và không làm gì trái với thiên nhiên, và làm việc thuận lòng trời, tránh
những sự tranh dành, bóc lột lẫn nhau, cướp đoạt, thù hằn, lợi dụng lẫn
nhau, và tránh không bao giờ gây chiến tranh. Tóm lại, Ông muốn thay đổi
Ai Cập tận gốc rễ.(Strd. tr. 107, 108, 109) Chỉ muốn cai trị theo tiếng
gọi lương tâm. (Strd. t. 112)
Ông cầu thần mặt trời: Hỡi Aten, xin
cho con sức mạnh để thực hiện những việc đúng với sứ mạng con, xin cho
con hoà nhập với Ngài để cho con có được sự minh triết như Ngài
(Strd. tr. 113).
Tiếc thay, Ông chỉ làm Pharaoth được có 17
năm và học thuyết của Ông chỉ mới được biết vào năm 1945, trong cuốn
sách The Egyptians của Mika Waltari (1908- 1979).
☸
HERMÈS TRISMÉGISTE VỚI QUAN NIỆM THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT
THỂ

Hermès là một nhân vật
huyền thoại trong cổ đại Ai Cập. Sau này được Ai Cập và Hi Lạp coi là
thần minh.
1. Quyển Pimandre
Pimandre là sách ghi những
lời mà Tâm Linh đã truyền dạy cho Hermès, khi ông chưa thành đạo. Sách
này dạy con người phải chiến thắng thất tình, lục dục.
2. Quyển Asclepios
Sách này ghi chép những
lời mà Hermès dạy đệ tử ông là Asclepios. Sách Asclepios dạy con người
phải biết căn cơ, cốt cách mình, phải học biết những phương thức để sống
phối kết với thần linh.
… Con người giác ngộ sẽ
thấy trời ngự trị trong tâm khảm mình, biết rằng mình đã từ một thực thể
tuyệt đối, duy nhất phóng phát ra, biết rằng trong mình có một phần
chính cái sức thiêng cai quản vũ trụ.
… Con người có bổn phận
sống thuận theo Trời, phối kết với Trời, hòa đồng với vạn hữu…
… Đối với người Ai Cập
xưa, thì vạn vật, bằng nhiều đường lối khác nhau sẽ đạt tới cùng một mục
đích: Trở thành Osiris, trở thành Thần minh…
3. Bản Bích ngọc (La
Table d’Emeraude)
Bản Bích ngọc là một Bản
văn rất súc tích, nhưng cũng rất tối nghĩa, gồm 12 điều. Xin lược ghi
như sau:
(1) Hermès xác tín:
(2) Vũ trụ này được tạo
dựng theo một cơ cấu chung. Trên dưới như nhau, để cho thấy điều huyền
diệu này là tất cả là một.
(3) Vũ trụ này đều do một
Bản thể duy nhất, một Căn nguyên duy nhất sinh xuất ra.
(4) Bản thể ấy sinh xuất
vũ trụ với sự phụ bật của thiên nhiên, mặt trời, mặt trăng, gió, đất.
(5) Nhất thể đó là Nguyên
thể, hay Nguyên khí (Thélème).
(6) Muốn tu luyện, con
người phải biết gạn đục khơi trong, phải biết tinh luyện.
(7) Phải biết lợi dụng cả
hai chiều sinh hóa của đất trời, và của cuộc đời.
(8) Biết đường tu, sẽ đạt
tới vinh quang.
(9) Kết quả là sẽ trở về
được với Nguyên thể, với Nguồn sinh lực đã tạo nên vũ trụ.
(10) Tóm lại vũ trụ này đã
được tạo dựng.
(11) Bằng cách phóng phát
và sinh hóa từ một bản thể duy nhất.
(12) Hiểu được như vậy là
hiểu được Trời, đất, người.
☸
KỲ THƯ KYBALION VỚI THUYẾT
THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ
Kỳ thư Kybalion cô đọng
lại khoa triết học mật truyền (Philosophie hermétique) của Ai Cập và cả
của Hi Lạp thời cổ.
Kybalion chủ trương đại
khái như sau:
1/ Vũ trụ này đã do một
Thực thể duy nhất sinh hóa ra. thực thể ấy là Thần, là Sự Sống, là Trí
Huệ.
Căn cơ cốt lõi vũ trụ này
là Thần linh. Vũ trụ này chung qui là Thần linh.
Các nhà bình giải Kybalion
còn thêm rằng: Khoa Mật giáo thực ra đã không lầm khi chấp nhận nguyên
lý cơ bản của Herbert Spencer: «Vũ trụ này đã được sinh hóa ra từ một
nguyên khí vô tận, vô cùng, vô thủy, vô chung.»
Từ nguyên lý cơ bản đó
Kybalion suy thêm ra rằng:
2/ Trong thế giới tương
đối này, tất cả đều có 2 chiều, 2 mặt.
3/ Tất cả đều chuyển dịch,
đều rung chuyển.
4/ Tất cả đều tương ứng
với nhau.
5/ Tất cả đều có nhịp
nhàng, tiết điệu.
6/ Tất cả đều theo định
luật nhân quả.
7/ Tất cả đều theo định
luật Âm Dương sinh hóa.
Kybalion còn chủ trương:
- Muốn trở thành thần
minh, phải biết rung chuyển theo nhịp điệu thần linh. Như vậy, bí quyết
thành thần linh là làm sao cho tâm thần rung chuyển theo đúng tần số
thần linh. (tức là thuyết đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu Á
đông).
- Bí quyết phát triển tâm
linh chính cũng là:
- Biết rằng có thần trời
ngự trị trong lòng mình.
- Cố gắng thực hiện, biểu
dương thần trời nơi mình.
Với những đường nét trên,
chúng ta thấy học thuyết cổ Ai Cập cũng nằm trong quĩ đạo của một TRUYỀN
THỐNG NHẤT QUÁN.
* Phụ chú về quan
điểm của Le Kybalion:
- Le Kybalion cho rằng
vòng biến hóa của vũ trụ có hai chiều:
a. Chiều Thoái, hay
chiều «Đổ ra» (Effusion). Trong thời kỳ thoái hóa này, các rung
chuyển càng ngày càng chậm lại.
b. Chiều Tiến
(Evolution), chiều «Rót vào» (Infusion), hay chiều «Trở gót về
nhà» (Pas vers la Maison). Trong chiều này, các rung chuyển càng
ngày càng trở nên thần tốc.
Lúc chung cuộc, Thượng Đế
và vạn hữu trở thành Một. Con người trở thành thần minh.
Thực ra không cứ phải đợi
tới chung cuộc, nếu con người biết vươn lên khỏi các bình diện vật chất
tâm tư, để nhập thế với tâm linh, để hoạt động bằng tâm linh, hoạt động
trên bình diện tâm linh, thì cũng đã trở thành thần minh…
IV. HỘI TAM ĐIỂM (FRANC MACONNERIE) VỚI
THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ
Tam Điểm xưa nay được coi
như là một Mật tông.
Tam Điểm rất sính dùng
tượng hình, ảnh tượng (symboles) để truyền thụ tư tưởng.
Ta sẽ dùng tượng hình của
môn phái này để soi sáng cho chúng ta về thuyết thiên địa vạn vật nhất
thể.
Đại Tự Điển Tam Điểm nhận
định về thuyết thiên địa vạn vật nhất thể như sau:
«Học thuyết PHÓNG PHÁT là
một học thuyết thịnh hành trong nhiều đạo giáo Á đông, nhất là Bà La Môn
và Bái Hỏa Giáo (Parsime). Đến sau, huyền môn Kabbale và Viên Giác
(Gnostiques) cũng chấp nhận nó, Philon, Platon cũng giảng dạy nó.
Học thuyết này chủ trương:
Vạn vật từ Tuyệt đối thể phóng phát ra, từ Tuyệt đối thể thoái hóa dần
mãi xuống. Vậy nên, trong Bà La Môn giáo, Hồn vũ trụ, nguồn mạch huyền
diệu của muôn sinh linh được đồng hóa với Brahma, với Thượng Đế.
Môn phái Viên Giác
(Gnostiques) cũng cho rằng vạn hữu sinh xuất từ Thực thể Thần linh. Vạn
vật sinh hóa từ cao đến thấp, và sự cứu rỗi lúc chung cuộc, là sự vạn
hữu trở về với thanh tịnh của Tạo Hóa.
Philon dạy rằng Tuyệt đối
thể hay khối Linh quang nguyên thủy đã tung tỏa quang huy để soi sáng
cho mọi tâm hồn, và như vậy vạn hữu đều chung một nguồn gốc.
Thuyết phóng phát rất được
Tam Điểm lưu tâm chú trọng, vì các cấp cao trong Tam Điểm thường đề cập
tới các học thuyết cả Kabbale của Philon và cả huyền môn Viên Giác…».
1. Quan
niệm THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ được tượng trưng bằng TÂM ĐIỂM VÀ VÒNG
TRÒN.
Tâm điểm là
Nhất thể, là Nguyên nhân. Vòng tròn là Vạn thù, là Hệ quả.

Hình Con
Chu Xà OUROBOROS, trong vòng có viết 3 chữ EN TO PAN
entopan
có nghĩa là NHẤT VẠN. Hình con chu xà (rắn cắn đuôi) tượng trưng cho lẽ
biến dịch tuần hoàn chung nhi phục thủy, và cũng tượng trưng cho vĩnh
cửu…

2. Quan niệm NGUYÊN THỂ
PHÓNG PHÁT RA VẠN HỮU được tượng trưng bằng:
Ngôi sao
sáu cánh
do hai hình tam giác đan nhau hợp thành. Trong lòng ngôi sao có 4 chữ
(tức là Thượng Đế) viết bằng mẫu tự Enoch. Hai hình tam giác đan
nhau tượng trưng cho hai lực Âm Dương.

Hoặc bằng
đồ hình: Hình Tam giác với Thiên Nhãn hay với chữ YHVH
(Thượng Đế) ở trung tâm tung tỏa hào quang. Bên ngoài là một vầng mây
tròn bao quanh.
Thiên Nhãn
hay YHVH là Thượng Đế ở Tâm điểm. Hình Tam giác là khí Dương,
phóng phát, tạo dựng. Các tia hào quang chỉ sự phóng phát. Vầng mây tròn
bên ngoài, chỉ vạn hữu với định luật tuần hoàn.

Hoặc bằng:
Hình tròn có 6 chấm cách đều nhau, tạo thành lục giác đều, với 6 tam
giác đều chung đỉnh là tâm hình tròn. Nó cũng giống như hình vẽ Tâm Điểm
và Vòng Tròn, và cũng nói lên ý nghĩa Nhất thể biến vạn thù như vậy.[60]

3. Quan niệm nhất thể phân
hóa thành vũ trụ của Tam Điểm cũng giống Kinh Dịch.
* LƯỠNG NGHI của Dịch kinh
được tượng trưng:
- Hoặc bằng 2 cột: ÂM: B
(BOOZ); DƯƠNG: J (JAKIN) trong đền thờ Jérusalem như Salomon đại đế đã
xây.
- Hoặc bằng 2 hình tam
giác giao thoa:
Y
Tam giác hướng thượng
D
là LỬA (Dương). Tam giác hướng hạ
Ñ
là NƯỚC (Âm).
Hai hình Tam giác này
thường giao thoa, thường gắn bó lấy nhau. Ý nói: «Âm Dương tương thôi
nhi sinh biến hóa.»
陰 陽相 推 而 生 變 化
; hoặc: «Cô Dương
bất sinh, Cô Âm bất trưởng»
孤 陽 不 生
, 孤 陰 不 長
như Dịch kinh đã chủ
trương.
* TỨ TƯỢNG
của Dịch kinh được Tam Điểm tượng trưng bằng hình vẽ sau:

4. Quan niệm
Thượng Đế ngự trị trong con người, và người giác ngộ phải biểu dương,
phóng phát Thượng Đế ra bên ngoài được tượng trưng bằng:
- Hình Ngôi
sao 5 cánh tung tỏa hào quang với chữ G hoa ở tâm điểm.

G là GOD,
là Thượng Đế. Ngôi sao 5 cánh là tượng trưng con người.[62]
Như vậy ta
thấy những đồ hình Tam Điểm cũng đã giúp ta hiểu được rất nhiều về các
quan điểm chính yếu của người xưa. Thật đúng là bất ngôn nhi giáo 不 言 而
教
vậy.
V. ÍT NHIỀU ĐẠI TRIẾT GIA VÀ THÔNG THIÊN
HỌC VỚI THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ
* PYTHAGORE
Pythagore (569-470 tcn)
cũng chủ trương vạn vật đã do một Căn cơ Duy Nhất sinh hóa ra.
Ông tin có Thượng Đế nhưng
lại tin rằng Thượng Đế tiềm ẩn trong lòng vạn hữu.
Ông tin có luân hồi, chuyển kiếp.
Ông tin rằng con người có
thể tu luyện để trở thành thần minh.
* PLOTIN
(Khoảng 204-70 tcn)
Đối với Plotin và môn đệ,
cũng như đối với các người theo huyền môn Kabbale, Thượng Đế là
Nguyên Nhân Nội Tại và là Căn Cơ sinh xuất vạn hữu. Vạn hữu
đều ở trong Ngài, đều sinh xuất từ Ngài, và trở về với Ngài. Thượng Đế
là khởi nguyên và là chung điểm vạn hữu Ngài ở khắp nơi, vì vạn hữu đều
ở trong Ngài, và do Ngài mà sinh. Ngài chẳng có ở đâu, vì Ngài chẳng bị
hạn chế trong một vật nào nhất định, và vạn hữu cũng không đủ để chứa
nổi Ngài… Gọi Ngài là NHẤT, chỉ là gượng ép, vì không có từ ngữ nào thỏa
đáng để mô tả bản thể Ngài. Ngài là đấng Bất khả tư nghị…
Con người từ cõi thiêng
liêng giáng trần, nên nhờ công phu tu luyện có thể kết hợp được với Đấng
Duy Nhất Tuyệt đối.
* NHỮNG NHÀ HUYỀN MÔN
HỌC HỒI GIÁO (MÔN PHÁI SOUFISME) VỚI THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ
Môn phái huyền học
Soufisme của Hồi giáo cũng chủ trương Thiên Địa vạn vật nhất thể. Có
người cho rằng tư tưởng trên có thể tìm thấy trong vài đoạn thánh kinh
Coran, nhưng thực ra đã vay mượn ở những trào lưu ngoài đạo Hồi, như
huyền học Thiên Chúa giáo, môn phái Néo-Platonisme, Denys l’Aréopagyte,
môn phái Viên giác, môn phái Mandéisme, Manichéisme, v.v…
Họ tin rằng con người có
thể tiến tới thần minh, tu luyện thành thần minh và sống kết hợp với
đấng Tối cao, sống hòa mình với Đại thể vũ trụ. Quan niệm này cũng tương
đương với quan niệm nhập Niết Bàn của Phật giáo, hay hòa mình vào
Brahman của Ấn giáo.
* THÔNG THIÊN HỌC VỚI
QUAN NIỆM THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ
Quan niệm Thiên địa vạn
vật đồng nhất thể là quan niệm then chốt của Thông Thiên Học.
Bà Blavatsky xác tín rằng:
vũ trụ này đã được sinh xuất từ một Nguyên lý vĩnh cửu, phổ quát. Hết
vòng biến dịch, sinh hóa, vạn hữu là nhập thể vào căn cơ, vào nguyên
thể.
Và như vậy đối với bà
Blavatsky và Thông Thiên Học, Thượng đế phải tiềm ẩn trong lòng vạn hữu,
trong lòng của mỗi nguyên tử của thế giới vô hình và hữu tướng, vì Ngài
chính là nguồn sinh lực, nguồn sinh hóa vô biên, vô tận của vạn hữu.
Thông Thiên Học chủ trương
thêm rằng vì vạn hữu sinh xuất từ một nguồn nên vạn hữu có liên lạc mật
thiết với nhau, và muốn tìm hiểu về con người, không bao giờ được tách
rời nó ra khỏi Đại thể vũ trụ.
Chính vì thế mà toàn thể
nhân loại đều là anh em với nhau.
Vì chủ trương Thượng Đế ở
khắp nơi, Thông Thiên học đã tự xếp mình vào hàng ngũ chủ trương phiếm
thần (Panthéisme). Và cho rằng quan niệm Thượng Đế tiềm ẩn trong lòng
vạn hữu đã được các môn phái huyền học từ Đông sang Tây chấp nhận.
Thông Thiên Học chú tâm đi
tìm Thượng đế tiềm ẩn trong lòng con người, và cho đó là một quan niệm
đạo giáo đứng đắn nhất…
Sau hết Thông Thiên Học
chủ trương rằng con người sẽ trở thành thần minh, trở thành Thượng Đế.
Chân nhân chính là Thượng
Đế khi đã thức giấc.
»»
[
mục lục ] [
phần A ] [
phần B ] |