TRUNG DUNG TÂN KHẢO

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

QUYỂN I: TRUNG DUNG KHẢO LUẬN

» Mục lục » Chương: 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16


Chương 12

NHÂN SINH QUAN THEO TRUNG DUNG VÀ DỊCH LÝ 

 

V ì không hiểu được tầm quan trọng và cao siêu của Trung Dung, nên người đời thường cho rằng Trung Dung đưa ra một tập sống trung bình, không thái quá, không bất cập, một nếp sống cầu an, không gây mâu thuẫn, để sống một cuộc đời thoải mái, an nhàn.

Chủ trương này gần đây đã được chính học giả Lâm ngữ Đường mượn lời thơ Lý Mật Am giới thiệu cùng đọc giả Âu Mỹ, đây là lập trường «Trung Dung» hiểu theo nghĩa lưng chừng, nước đôi đó:[1]

«Ta sống quá nửa đời phù phiếm,

Mới nhận ra huyền nhiệm Trung Dung.

Trung Dung hương vị khôn cùng,

Làm cho lòng dạ tưng bừng niềm vui.

Lúc mà cái con người sướng nhất,

Chính là khi tới cấp trung niên.

Quang hoa dùng dắng triền miên,

Như chờ như đợi, gót tiên tạm dừng.

Cõi trần lọt giữa chừng Trời đất,

Giữa tỉnh quê, ta cất nhà ta.

Thảnh thơi ta mở trại hoa,

Giữa chừng sông núi, la đà nước non.

Biết vừa đủ, tiền nong vừa đủ,

Vòng lợi danh, vương nửa tấm son

Không sang nhưng cũng dễ nom,

Không giàu nhưng cũng còn dòn hơn ai.

Nhà ta xây nửa đài nửa các,

Đồ đạc ta lác đác đủ chơi,

Áo ta cũ mới chơi vơi,

Uống ăn na ná như người bậc trung,

Vài tôi tớ không thông không dở,

Vợ con ta đơ đỡ ta ưng,

Nửa tiên nửa tục lừng chừng

Nửa cùng thần thánh, nửa cùng thê nhi,

Nửa bụng dạ lo vì con cái.

Nửa tâm hồn gởi lại Hoàng thiên,

Để khi thoát xác, ta yên,

Biết đường thưa gửi, biết niềm tới lui.

Ngà say là lúc ly bôi,

Đóa hoa hàm tiếu là thời mê ly.

Buồm nửa cánh, thuyền đi thanh thả.

Cương vừa giong, vó ngựa mới hay.

Quá giầu phiền lụy sẽ dầy,

Quá nghèo cuộc sống sẽ đầy truân chuyên.

Trần ai sướng với phiền khó tách,

Trong ngọt ngào pha phách đắng cay.

Hưởng đời đừng quá mê say,

Lừng chừng đại khái, tháng ngày tiêu dao.[2]

Nhưng nếu Đức Khổng và các danh nho chỉ đưa ra cho nhân loại một mục phiêu, một lý tưởng tầm thường, thì có gì đáng cho hậu thế kính tôn.

Nếu Trung Dung và Kinh Dịch đã được các danh nho, các tiên hiền Đông Á cho là tuyệt phẩm thì nó phải có gì cao siêu gấp bội. Hơn nữa đã là tinh hoa nhân loại, chắc chắn phải tế vi ẩn náo, đã là Duy Tinh, Duy Nhất thì phải tuyệt đỉnh công phu. Bác tạp dễ tìm, tinh hoa khó kiếm: kỳ hoa dị thảo đâu phải của mỗi sớm bán mua ngoài cửa chợ!

Cho nên, có tốn công nghiên cứu, truy tầm, mới mong tìm ra được vi ý của cổ nhân, tìm ra được đường lối của thánh hiền…

 

TIÊU CHUẨN ĐỂ ĐI TÌM ĐƯỜNG LỐI CỔ NHÂN

Nhưng lấy đâu ra tiêu chuẩn để đi tìm đường xưa, lối cũ. Hãy giở Trung Dung, đường lối thánh hiền phải hợp với nhân tâm thế đạo, hợp định luật đất Trời. Trung Dung viết:

«…Đạo quân tử phát xuất tự thâm tâm,

Đem trưng bày phổ cập tới thứ dân.

Khảo chứng tam vương, không có chi lầm lỗi,

Sánh với luật đất Trời không phản bội.

Thánh nhân ngàn đời sau chẳng hề có chê bai…

So quỷ thần, đường lối đúng không sai

Thế là đã biết lòng Trời đó,

Thánh nhân ngàn đời sau chẳng chê bai,

Thế là đã biết lòng người to rõ.» [3]

 Dịch Kinh viết: «…. Thực là mênh mông rộng rãi sánh đất Trời, biến hóa tựa bốn mùa, theo đúng chiều âm dương, sánh với hai vầng nhật nguyệt, tốt lành giản dị, phối hợp với đức tối cao.» [4]

Hơn nữa con đường lý tưởng ấy đã đã được vẽ thành những đồ bản trong Dịch Kinh.

Vậy ta chỉ cần nghiên cứu tìm hiểu các đồ bản, để tìm ra con đường đạo lý. Sau đó, ta sẽ khảo sát xem con đường đạo lý ấy có hợp với nhân tình thể thái, với định luật đất Trời, với chu kỳ nhật nguyệt, tinh thần hay không.

Có những tiêu chuẩn như trên, ta sẽ tha hồ lưng túi gió trăng, buồm mây chèo quế, lãng du trong rừng Nho biển Thánh mà không lo lạc bước.

 

ĐƯỜNG ĐỜI THEO DỊCH VÀ TRUNG DUNG

Nghiên cứu các đồ bản Dịch, các họa bản Bát Quái, ta đều thấy ngôi Thái cực được đặt vào trung tâm điểm. Ý Cổ nhân muốn nói Dịch, hay Vô Cực, hay Thái Cực, hay nói nôm na là Trời, là Tạo Hóa ở ngay trung tâm huyền diệu của vũ trụ. Người là tiểu vũ trụ, tức thị, Trời cũng ở ngay trong tâm hồn để làm trung tâm (Trung) bất biến (Dung), làm chân tâm nuôi sống con người, làm giường cột (axe) cho con người dựa nương.

Ta thường thấy dân Á Đông treo bát quái trước nhà mong trừ tà ma, phải chăng đó là tục lệ xa xưa để tỏ lòng tôn kính Thái Cực ở trung tâm Bát Quái, tượng trưng cho Trời.

Cắt nghĩa như vậy thì Trung Dung lại là Thái Cực, Trung Dung lại là Hồng Tâm cho mọi người ngắm vào, lại là mục đích thâm viễn của cuộc đời. Còn Dịch sẽ bao quát mọi sự biến hóa của vũ trụ và của con người mà mục đích tối hậu là thực hiện được Trung điểm hoàn thiện đó.[5]

Hình 20: Phục hi bát quái phương vị đồ

Nếu hiểu rằng Trời ở ngay Trung Tâm huyền diệu của vũ trụ; ở ngay trong tâm khoản con người, thì ta sẽ hiểu bài toán cao siêu mà Trời ra cho Nhân loại: Đứng trong khoảng càn khôn biến hóa vô lường làm sao tìm ra được lối về Trung Tâm bất biến? [6]

Biên khu luân lạc từ bao,

Tìm sao cho thấy đường vào Trung Dung ?

Đường Trung Dung linh lung ẩn khuất

Nẻo Bồng Lai gai lấp lau che !

 Phục Hi đã giải bài toán đó trước tiên bằng mấy họa bản không lời. Nghiêu, Thuấn, Văn Vương, Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Chu Tử đều lãnh hội được vi ý của Phục Hi đã cố giảng giải cho ta, nhưng bức màn bí mật vẫn còn như khép kín, vì lời lẽ quá cao làm ta lạc lõng.

Hình 21: Vũ trụ tòng trung khởi nguyên đồ

Thiệu Khang Tiết là người đầu tiên giải thích rõ ràng hơn, chỉ vẽ cho ta biết đâu là đường lối Trời, đâu là đường lối người bằng cách đánh số tám quẻ, và bằng bài thơ sau đây:

 

«Nhĩ mục thông minh nam tử thân

耳 目 聰 明 男 子 身

Hồng Quân phú dữ bất vi bần

 洪 鈞 賦 予 不 為 貧

Tu tham nguyệt quật phương tri vật

須 探 月 窟 方 知 物

Vị nhiếp thiên căn khởi thức nhân.

未 躡 天 根 豈 識 人

Càn ngộ Tốn thời quan nguyệt quật,

乾 遇 巽 時 觀 月 窟

Địa phùng lôi xứ kiến thiên căn.

地 逢 雷 處 見 天 根

Thiên căn, nguyệt quật thường lai vãng,

天 根 月 窟 常 來 往

Tam thập lục cung đô thị xuân.»

三 十 六 宮 都 是 春

Tạm dịch như sau:

Tai mắt: nam nhi đứng cõi đời,

Lòng mang Tạo hóa há đâu chơi !

Quyết thăm nguyệt động cho hay vật,

Cố hiểu thiên căn để biết người.

Trời nổi gió giông thông động nguyệt,

Đất vang sấm chớp lộ căn Trời.

Căn Trời động nguyệt thường lai vãng,

Ba sáu cung xuân trọn vẹn đời.

Hội ý Thiệu Khang Tiết, ta thấy rằng công cuộc tạo hành vũ trụ luôn đi từ chỗ phác giản đến tần phiền theo hình vẽ sau:

1 ➔ 2 ➔ 3 ➔ 4 ➔ 5 ➔ 6 ➔ 7 ➔ 8

 Còn công cuộc tu luyện con người phải chia làm hai giai đoạn:

1. Nửa đời đầu (5 ➔ 6 ➔ 7 ➔ 8), đi từ phác giản đến tần phiền, Tinh thần phải mạo hiểm vào trần hoàn và vật chất để tìm hiểu vũ trụ, để mưu sinh. Đó là giai đoạn hướng ngoại, giai đoạn nghịch mà tinh thần sẽ bị nô lệ hoàn cảnh rất nhiều (khuất ), đó là giai đoạn ra đi (khứ ).

2. Nửa đời sau (4 ➔ 3 ➔ 2 ➔ 1), đi từ tần phiền đến phác giản, từ thô đến tinh, dùng vật chất để tài bồi cho tinh thần ngày thêm cao đẹp cho đến chỗ thuần túy chí thiện, nên như ảnh tượng Trời (Càn ), khả dĩ có thể kếr hợp với Trời, vào yên nghỉ được ở Trung tâm huyền diệu của Vũ trụ (Thái cực, Trung Dung). Đó là giai đoạn thuận, giai đoạn trở về (lai). Trong giai đoạn này tinh thần dần dần sẽ chế ngự được hoàn cảnh, sẽ được thảnh thơi thoải mái (thân ).

Hai giai đoạn trên được xác định bằng đồ bản sau đây:

Nên nhìn kỹ 32 quẻ thiên tiên bát quái phía hữu, ta thấy hào sơ (hào nằm trong cùng) toàn là hào âm; còn nhìn sang 32 quẻ phía trái, ta thấy hào sơ (hào nằm phía trong cùng) đều là hào Dương. Vì thế Hệ Từ đã nói: Nhất âm nhất dương chi vị đạo… Đó là lẽ «Âm Dương đối trĩ» của Dịch Kinh.

Thánh hiền thiên cổ đã đem quẻ Cấu «phong trần» để tượng trưng bước đầu đường luân lạc của con người, và đem quẻ Phục «hồi phục» để đánh dấu giai đoạn trong sáng của những người đã thấy «Thiên địa chi tâm».[7]

Đường lối này là theo đúng lẽ Âm Dương tiêu trưởng của đất Trời.

Giai đoạn đầu là «Dương tiêu Âm trưởng» con người sa đọa, lạc lõng dần vào cảnh phù du hư ảo bên ngoài, đem tâm thần bán rẻ lấy bát cơm manh áo, đem thân làm tôi tớ cho hoàn cảnh xã hội, mà vẫn lấy thế làm vinh dự. Trong giai đoạn này, vật chất dần dần đóng vai trò tối thượng. Nhưng có giai đoạn này thì giang san mới được tô điểm, hoàn cảnh vật chất của quần chúng mới được cải thiện. Tinh thần trong giai đoạn này dần thu gọn lại như một ánh sao trên bầu trời vân vũ.

Hệ Từ viết: «Con sâu đo nó co để rồi nó duỗi. Con rồng, con rắn nó ẩn để bảo tồn tấm thân. Có hiểu kỹ càng mới thấy lợi ích lớn lao. Cầu an thân trước rồi mới có ngày sùng Đức cả.»[8]

Đó tức là:

«Anh hùng khi gặc khúc lươn

Khi cuộn thời ngắn khi vươn thì dài.» (ca dao)

 Giai đoạn sau là «Âm tiêu, dương trưởng». Tinh thần đã biết hướng thượng, tìm ra nguồn mạch cao cả của mình, và sẽ dùng vật chất làm thang mây mà tiến lần về Trời.

Trong giai đoạn này, tinh thần dần dần đóng vai trò tối thượng. Nó thích hợp với những người đã tuổi, đã già, những con người đã biết quẳng gánh lo, thoát vòng danh lợi để quay về tu luyện bản thân nêu gương sáng soi cho đời, mong kết hợp với Trời để được trường sinh bất tử. Ngược lại, vật chất xuống giá dần để cuối cùng biến thành chiếc xe mây cho khách du rong ruổi trên đường «thiên lý» sáng trong như ngọc thạch.

Con đường lý tưởng này gồm cả hai bề vật chất, tinh thần uyển chuyển diễn tiến theo đà tuổi tác, như một bài thơ, một bản nhạc mà tiết tấu hòa nhịp với trăng sao.

 

ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI LÝ TƯỞNG VỚI CHU KỲ NHẬT NGUYỆT TINH THẦN

Con người lý tưởng mong mỏi khi giã từ thế tục, tâm hồn sáng quắc như mặt trăng ngày rằm, như mặt trời chính ngọ, hay mặt Trời ngày Hạ chí. Mà kỳ diệu thay, nếu ta theo vòng Dịch trên mà đi tuần tự như vậy, thì ta sẽ thấy ta lúc thoát tục, cũng là trong lúc trăng tròn, hay lúc mặt trời chính ngọ.

Con người lý tưởng lúc sơ sinh cũng như vầng trăng vừa quá rằm đẹp đẽ. Nhưng dần dà lớn lên, lạc lõng vào cuộc đời tìm sinh kế, cũng như vầng trăng khuyết dần, mờ dần, đến lúc công danh ở đời rực rỡ, lợi lộc ở đời dồi dào, thì lại là lúc mà tinh thần nghèo nàn nhất.

Nhưng, con người lý tưởng không thể bị vật dục che mờ mãi; nhờ suy tư về sự chất chưởng bên ngoài, con người đó có ngày sẽ tìm lại được nguồn sống bên trong, sẽ dần dần tài bồi cho tâm hồn mình thêm hoàn bị, và lúc thoát ly cuộc đời, sẽ rực rỡ như trăng hôm rằm.

Con đường lý tưởng nói trên cũng vạch lại sự thăng trầm của vừng dương.

Sau ngày Hạ chí, mặt trời vào cung Cự Giải; ánh sáng và sức nóng một ngày một giảm cho tới cực độ ở ngày Đông chí.

Nhưng, từ ngày Đông chí trở đi, thì mặt trời lại nóng lên sáng lên dần mãi, đem ánh dương quang đượm nhuần cho hoa lá trổ sinh, tưng bừng rộn rã với ngày xuân, và dần dần trở lại ngôi vị tối thượng vào ngày Hạ chí.

Hình 22: Chu kỳ mặt trăng

Nếu xét vòng chu thiên trong một ngày đêm, thì cuộc đời lý tưởng của người quân tử lúc sơ sinh cũng đẹp y như mặt trời lúc quá ngọ. Lúc lớn lên, bị vật dục che mờ, người quân tử cũng như mặt trời trải qua những cảnh hoàng hôn và cảnh đêm dài tịch liêu u tối; nhưng rồi ra, con người lý tưởng ấy dần dà sẽ gỡ được mọi tần phiền, để cùng mặt trời, trang trọng hiện lên trên nhãn giới lúc bình minh muôn thủa cùng bình minh hứa hẹn một trời trong sáng mới và khi lìa thế sự, sẽ là «Nhật lệ trung thiên» sáng quắc cả bầu Trời…[9] Hơn nữa, con đường Hoàng Đạo mà người lý tưởng đi cũng là con đường mà Nhị Thập Bát Tú ruổi rong.

 

 

ĐƯỜNG ĐỜI LÝ TƯỞNG VÀ LẼ BIẾN THÔNG CỦA 4 MÙA

- Đem sánh với bốn mùa, ta thấy con đường lý tưởng này hợp lẽ biến thông của thời tiết.

Lúc sơ sinh là lúc nhựa sống tràn đầy như muôn hoa khoe sắc trên cành sau ngày Hạ Chí. Lúc lớn lên bước dần vào cuộc đời, thấy làn tâm sự cũng dần ngã sang thu, và đến lúc hoa niên, khi đã tiêu pha hết vốn liếng tinh thần, khi đã:

«Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ,

Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu.»

Tâm hồn lắm lúc cảm thấy lạnh lùng, như băng giá. Nhưng có sương tuyết lạnh lùng mới có lại ngày xuân ấm áp: Trong những giờ phút con người chán ngán nhân tình thế thái lại là lúc con người thấy mở tung trong tâm khảm mình một nhãn giới vô biên.

Thế là khi mái tóc hoa râm, thì tinh thần lại đượm màu xuân sắc. Một nguồn thơ mộng mới dâng lên giữa những cảnh ngộ éo le của cuộc đời. Mùa xuân đầy hy vọng trở về với một nguồn sống tinh thần mới …

Và cũng như cây đâm chồi nảy lộc, vươn mãi lên khung Trời trong ngày xuân ấm áp, tâm hồn cũng vươn mãi lên cho tới vinh hoa cao đẹp. Cuối cùng lúc từ giã cuộc đời, tâm hồn vẫn còn chứa chan nhựa sống như Trời mùa hạ. Bao công lao sự nghiệp của cuộc đời bây giờ nở tung như muôn hoa tươi thắm để không bao giờ tàn phai…

CON ĐƯỜNG LÝ TƯỞNG VỚI NHÂN TÂM THẾ ĐẠO

Con đường lý tưởng đó cũng rất phù hợp với nhân tâm thế đạo.

Con người ta bao ngàn năm nay, vì không hiểu định luật thiên nhiên nên đã không đi theo đúng nhịp thời gian tuổi tác, gò bó mình vào những khuôn khổ chật hẹp, máy móc hóa một cuộc đời đáng lý là thơ mộng, hay lại quá phóng túng mình đến tan tác cả cuộc đời. Mặc dầu vậy, họ vẫn phác họa lại trong cuộc đời mình bóng dáng cuộc đời lý tưởng đó.

Bé thì thơ ngây, hồn nhiên vô tội; rồi dần dà trở nên phóng ngoại, trở nên tò mò, rồi cũng tranh đấu, xông xáo, cũng dấn thân vào phong trần vật chất như ai. Lúc mái tóc hoa râm, lắm lúc cũng thấy giật mình muốn đoạn tuyệt với cuộc đời phóng đãng của mình muốn «hồi tâm tu tỉnh». Khi trở về già thì không ai bảo ai, bất kỳ thuộc tôn giáo nào, con người cũng muốn quay về cùng Trời, Phật, Thần, Thánh, cũng kinh kệ tụng niệm như ai …

Càng dấn thân (engagement) vào đời phong vũ bao nhiêu lại càng mong muốn thoát thân (dégagement) ra ngoài vòng cương tỏa bấy nhiêu. Nếu như thấy được «Thiên địa chi tâm», tìm ra được ảnh tượng Trời trong đáy lòng mình là sẽ bước được vào con đường giải thoát.

Nói rộng ra, thì nhân loại cũng đang đi trên vòng càn khôn đó, nhưng chập chạp ….

Giai đoạn đầu là giai đoạn đạo hạnh phù phiếm xốc nổi bên ngoài, để rồi dần dần lạc lõng vào giai đoạn dị đoan mê tín. Càng phóng ngoại bao nhiêu, càng chạy theo cái học «Trục vật» bao nhiêu thì lại càng đi đến chỗ sa đọa tinh thần bấy nhiêu, càng «Nghịch thiên», «bối Thiên» bấy nhiêu. Nhưng chính nhờ giai đoạn sùng thượng vật chất này mà nhân loại đã giải quyết được những vấn đề mưu sinh, thích ứng với hoàn cảnh, nhân loại đã xây dựng được hạ tầng cơ sở cho vững chắc.

Nhưng, khi đã trưởng thành, khi đã quá đâm chém nhau, quá dè bỉu, ghen ghét nhau, quá bóc lột áp bức nhau, nhân loại sẽ dần dần trở lại sùng thượng các giá trị tinh thần vĩnh cửu. Hiểu cuộc đời theo lẽ Dịch nói trên sẽ mở một con đường tiến hóa bao la cho cá nhân cũng như cho nhân quần xã hội.

Cá nhân sẽ tùy theo tuổi tác mình, tùy theo «thời», tùy theo khuynh hướng của từng tuổi mà làm những công tác mình phải làm để cây đàn bản thân lúc nào cũng hòa âm đúng cung điệu tiết tấu gia đình, xã hội quốc gia, quốc tế, nhân loại và đất trời. Đó tức là biết «ứng biến theo trời».[10]

Nhân loại và cá nhân sẽ không ăn rễ sâu xa vào vật chất mà chỉ coi vật chất là phụ thuộc, văn minh vật chất là một chặn đường tiến hóa của mình, một lớp lang nhỏ bé trong tấn tuồng vĩ đại của Trời đất.

ÂU Á GẶP NHAU TRÊN ĐƯỜNG HOÀNG ĐẠO

Các nước cổ Ba Tư, Ai Cập, Chaldée không biết vòng Dịch chu thiên của Phục Hi, nhưng lại nghĩ ra vòng Hoàng Đạo với những ẩn ý tương tự vòng Dịch.

Vòng Hoàng Đạo cũng có 12 cung, ứng với 12 cung Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, v.v. của vòng Dịch. Cung Mùi là cung Cự Giải (cancer), cung Tý là cung Nhân Mã (Sagitaire), cung Sửu là cung Ma Yết (Capricorne), cung Ngọ là cung Song Tử (Gémeaux), v.v.

Hình 23: Vòng Hoàng Đạo đối chiếu với vòng Dịch

Thiệu Khang Tiết phân biệt hai chặn đường Cấu và Phục, thì Macrobe cũng cho rằng Cung Cự Giải là cửa người và Cung Ma Yết là cửa thần minh, đôi bên cách nhau một giải Ngân Hà. Giải Ngân Hà ấy phải chăng đã được tượng trưng bằng con đường lượn qua giữa vòng bát quái của Chu Dịch.[11]

Các sách cổ Á Đông dùng con rồng để tượng trưng các đấng thánh nhân, nên cũng cho con rồng biến hóa theo vòng Dịch trên: «Rồng có thể tối hay sáng, ngắn hay dài. Xuân phân bay bổng lên Trời, thu phân lặn sâu đáy vực.»[12]

Các sách cổ Ai Cập thì lại có câu chuyện thần thoại về thần Osiris (Thái Dương Thần) thay vào đó. Thần Osiris mới đầu cũng bị gian truân đọa đầy, sau Xuân Phân lại trở về ngôi cửu ngũ.[13]

Tóm lại, các Đồ Dịch cũng như vòng Hoàng Đạo, tuy không lời, nhưng chứa chan ý nghĩa.

Thiệu Khang Tiết nói: Đồ Dịch tuy không văn tự, nhưng ta nói suốt ngày cũng không ra ngoài được vấn đề, vì tất cả nghĩa lý của Trời đất muôn, muôn vật đều nằm trong đó.[14]

Ý CỔ NHÂN

Thánh hiền Đông Á mượn chủ đề Dịch để biện minh thuyết «Nhất sinh vạn» và chỉ lối đường để ta có thể từ «Vạn qui nhất».[15]

Dịch gọi đó là phương pháp «Khai vật thành vụ»,[16] cho xem trước đầu đuôi chuyện đời rồi mới dạy cho biết cách hoàn thành lý tưởng.

Đường đời, theo Dịch Kinh, đều do một tâm điểm tung ra muôn vạn ngả. Ta có lao đao suốt đời cũng chẳng sao đi hết muôn vạn ngả đường. Càng phiêu lưu, càng lạc lõng. Càng đi sâu vào một con đường, càng thông tỏ chi tiết về một vấn đề, thì lại càng thấy mình bất lực kém cỏi, lại càng mù mờ về toàn thể vô biên. Đi ra vạn, phiêu lãng trên muôn vạn ngã đường, dù có thành công đến đâu, trong thâm tâm vẫn thấy mình như thân phận cánh bèo, bình bồng mặt nước chân mây, mà chẳng biết sẽ trôi dạt về đâu, bởi vì vạn chỉ là như một bóng hình hư ảo của nhất:

«Đồ tri tụ xứ ninh tri tán,

Đãn thức phù thời ná thức trầm?» (thơ bèo).

Trở lại được với NHẤT sẽ là con người lý tưởng. Người xưa gọi thế là chí nhân,[17] chân nhân. Đào Hư Tử cho thế là tâm hồn trở về đấng có trước đất trời.[18]

Lối đường do «vạn qui nhất» đã được xác định bằng các đồ Dịch của cổ nhân, theo đúng chiều ngũ hành tương sinh.

Chu Hi cũng vẽ con đường đó bằng cách tán phân bốn chữ Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh lên vòng càn khôn.

HAI NGẢ ĐƯỜNG ĐỜI

Con đường từ «Vạn qui nhất» trên vòng Dịch, mới trông tưởng là tròn trĩnh không kẽ hở. Nhưng thực ra con đường đó vẫn phân làm đôi ngả Âm Dương.

Nửa đời đầu, vì con người một ngày một chìm đắm vào bóng tối vật chất, nên Kinh Dịch gọi là Dương đạo, Thiên đạo, hay Càn đạo.[19]

Hệ từ viết: «Nhất âm nhất dương chi vị đạo. Kế chi giả thiện dã, thành chi giả tính dã.» 一 陰 一 陽 之 謂 道. 繼 之 者 善 也,成 之 者 性 也.

Đường đời có 2 chiều: 1 chiều âm 1 chiều dương, bước vào đường đời đã là hay, đi cho đến cuối đường sẽ phục hồi được tính Trời.

Đi chiều âm, đi vào con đường vật chất sẽ tiến tới chỗ Bất nhân, chỗ không toàn thiện.

Đi chiều dương, đi vào con đường tinh thần: sẽ tiến tới chỗ Nhân chỗ toàn thiện.

Đức Khổng Tử nói: Đường có 2 ngả: «Nhân và bất nhân.» [20]

Đào Hư Tử, theo gợi ý đó, cũng đã viết: «Năm mươi năm đầu cuộc đời, là tiến số, là học để giúp đời; càng ngày càng phải tu nhân tích đức.» [21]

Luận ngữ viết: «Đến chừng bốn năm mươi, mà ta chưa nghe danh tiếng họ, chừng ấy ta chẳng còn sợ họ nữa.» [22]

Nhưng con người không phải quay cuồng mãi trong vũ trụ, mà ta cũng có lúc được vào Trung cung huyền diệu để làm chủ chốt vũ trụ. Bí quyết này được diễn tả bằng những hành động tượng trưng của Thiên tử xưa trong tòa Minh đường.

Mỗi năm, sau ngày Hạ chí vua sẽ vào Trung cung Minh đường, mặc hoàng bào và ở đó ít ngày, cốt tượng trưng quyền Thiên tử là khu hữu cho không gian và thời gian …[23]

KẾT LUẬN

Nghiên cứu các đồ Dịch chúng ta đã thấy các cổ nhân đã phơi bày lẽ «Càn khôn hạp tịch», đã tháo gỡ guồng máy Âm Dương, đem cài lên những bức họa không lời, để vẽ đường chỉ lối cho ta. Càng suy cứu vi ý cổ nhân, ta càng thấy lý thú. Đồ Dịch thiên nhiên còn phân ngôi chủ khách đem lẽ cát hung, thiện ác làm thành hai bức câu đối vĩ đại treo giữa đất Trời cho tao nhân mặc khách muôn đời thưởng thức.

Đôi câu đối này không đối chữ treo luật trắc bằng, nhưng đối quẻ, đối hào, đối ý, đối lý:

Cát

 Thiện

 Chủ

 

Hung

Ác

Khách

Tức là: 

Đọc đôi câu đối trên, ta sẽ nghiệm ra phương pháp «xu cát tị hung», «ức âm tiến dương», «trưởng thiện tiêu ác» của người xưa, biết tới biết lui, biết tìm sự sống qua sự chết, biết tìm cái hay qua cái dở, tóm lại biết «Định luật tương đối» chi phối con người ra sao…

«Mới hay Không-Có chuyển vần,

«Dễ sinh ra Khó, Vắn nhân thành Dài.

«Thấp-Cao tùy ngó ngược xuôi

«Tiếng ca Trầm-Bổng giòng đời Trước-Sau.»[24]

Thế mới hay:

«Gẫm đạo lý có sau có trước ,

Lẽ âm dương có ngược có xuôi.

Ngược là gió cuốn bụi đời,[25]

Đẩy đưa vào chốn trần ai, cát lầm.

Có thử thách mới phân vàng đá,

Có lầm than mới rõ chuyện đời.

Khi xuôi sấm chớp tơi bời,[26]

Tầng sâu bày giải căn Trời nội tâm.[27]

Trông tỏ đích chí nhân, chí chính,

Biết mục phiêu sẽ định sẽ an.

Rồi ra suy xét nguồn cơn,

Con đường phối mệnh chu toàn tóc tơ …»

Hiểu thế ta sẽ tìm ra được vi ý cổ nhân, tìm ra được then chốt kho tàng sử sách Á Đông, ta ra được phương pháp khai thác kho tàng ấy.

Thật vậy, các thánh hiền Đông Á, từ Phục Hi, Hoàng đế, đến Nghiêu, Thuấn, Khổng Tử, Lão Tử khi soạn thảo sách vở, chỉ cốt xiển minh lẽ «Thiên nhân tương dữ» 天 人 相 與 (Trời người giao hảo), chỉ cốt tìm ra phương pháp thể hiện lý tưởng «Thiên nhân hợp nhất» 天 人 合 一 (Trời người hợp nhất) mà thôi.[28]

Cho nên cũng như Trung Dung chỉ cốt dạy con người biết kính sợ Trời tàng ẩn trong thâm tâm mình,[29] dạy con người đừng để cho tâm hồn tan tác, tả tơi trước gió giông hoàn cảnh, trước sự thử thách, cám dỗ bên ngoài, cải thiện bản thân đến chỗ hoàn thiện khả dĩ có thể sống kết hợp với Trời (Phối thiên) cùng đất trời trường sinh bất tử.

Nhưng Dịch và Trung Dung lại dạy ta đừng vội vàng; phải học đi trên đất rồi mới học bay lên trời, phải biết tìm miếng cơm trước khi tìm nghĩa lý, phải thực tiễn trước, lý tưởng sau. Thế mới biết là thời cơ, biết lẽ tiến thoái, biết uyển chuyển ứng phó với hoàn cảnh, biết biến thiên theo nhịp thời gian tuổi tác, để lúc nào đời cũng đẹp như thơ, lúc nào đời cũng nhịp nhàng tiết tấu như một khúc nhạc.[30]

Khúc nhạc đó thực tuyệt vời, có vui, có buồn, có nhanh, có chậm, lúc lâm li, lúc hùng tráng, lúc rạt rào như thác đổ đầu ghềnh, lúc khinh khoát, êm đềm như gió thu lướt qua hàng tơ liễu, lúc lặng lẽ như ánh tường vân lãng đãng xuôi Nam trên đường đời muôn dặm…

Thực là:

«Trời xanh dẫn dắt chúng dân

Như là tấu khúc nhạc huân nhạc trì

Trời, người, đôi ngọc chương khuê

Bên cho, bên lấy đề huề biết bao.

Tay cầm tay dắt khéo sao!

Trời xanh dẫn dắt dân nào khó chi!» [31]


CHÚ THÍCH

[1] Bản dịch Việt văn này theo bản Pháp văn trong quyển «L’importance de vivre» của Lin Yuntang, tr.123-124.

[2] J’ai déjà vu la plus grande moitié de cette vie flottante.

Ah qu’il y a un mot magique.

Ce mot moitié d’une portée si riche,

Il nous fait gouter plus de joie,

Que nous n’en pouvons posséder.

Le meilleur état de l’homme

Est à mi-chemin entre la vie,

Quand un pas ralenti lui permet le repos;

Le monde se trouve à mi chemin «entre la terre et le ciel»

Vivre à mi-chemin entre la ville et la campagne;

Avoir des fermes à mi-chemin entre les rivières et les montagnes;

Etre à demi savant, à demi châtelatin, à demi home d’affaires;

Vivre à moitié comme un noble,

Et à moitié comme le commun des gens;

Avoir une maison moitié belle, moitié laide

Moitié élégamment meublée et moitié nue;

Des vêtements moitié vieux, moitié neufs

Et une nourriture mi-rechercheé, et mi-simple;

Avoir des serviteurs ni trop intelligents, ni trop bêtes;

Une femme qui soit ni trop simple ni trop habile

Au fond, je me sens la moitié d’un Bouddha

Et presque la moitié d’un bienheureux taoiste.

La moitié de moi-même est tournée vers le Ciel,

L’autre moitié vers mes enfants,

Pensant à moitié comment assurer l’avenir de ma postérité,

Et à moitié comment me présenter devant Dieu,

Quand le corps sera laissé en repos.

Il est le plus sagement ivre, celui qui est à moitié ivre;

Et les fleurs à moitié en boutons sont les plus belles;

Les bateaux à demi voilés naviguent le mieux;

Et les chevaux avec les rênes à moitié tendues trottent le mieux.

Qui possède moitié trop est inquiet

Qui possède moitié trop peu désire posséder plus.

Puisque la vie est à la fois amère et douce

Celui qui n’en goute que la moitié est plus sage et plus intelligent.

Lin Yutang, L’Importance de vivre, p.123-124.

[3] Cố, quân tử chi đạo, bản chư thân, trưng chư thứ dân. Khảo chư tam vương nhi bất mậu; Kiến chư thiên địa nhi bất bội. Chất chư quỉ thần nhi vô nghi. Bách thế dĩ sĩ thánh nhân nhi bất hoặc. Chất chư quỉ thần nhi vô nghi, tri thiên dã. Bá thế dĩ sĩ thánh nhân nhi bất hoặc, tri nhân dã. 故 君 子 之 道, 本 諸 身, 征 諸 庶 民. 考 諸 三 王 而 不繆, 建 諸 天 地 而 不 悖. 質 諸 鬼 神 而 無 疑. 百 世 以 俟 聖 人 而 不 感. 質 鬼 神 而 無 疑 知 天 也. 百 世 以 俟 聖 人 而 不 感, 知 人 也 (Trung Dung, ch.29)

[4] Quảng đại phối thiên địa, biến thông phối tứ thời. Âm dương chi nghĩa phối nhật nguyệt, Dị giản chi thiện phối chí đức. 廣 大 配 天 地, 變 通 配 四 時. 陰 陽 之 義 配 日 月, 易 簡 之 善 配 至 德 (Hệ Từ Thượng)

[5] Trong khảo luận này, tác giả dùng chữ Trung để chỉ bất biến, chữ Dịch để chỉ biến thiên mà không dùng các nghĩa khác của chữ Dịch.

[6] Cf. Claude de Saint Martin, cité par Illan de Casa Fuerte, La Relligion essentielle, p.200: «… Le Principe suprême, source de toutes les puissances, soit de celles qui vivifient les pensées dans l’homme, soit de celles qui engendrent les oeuvres visibles de la nature matérielle; cet être nécessaire à tous les êtres germe de toutes les actions, de qui émanent (mot fatal, plume qui trahit) continuellement toutes les existences; ce terme fatal, vers lequel elles tendent, comme par un effort irrésistible, parce que toutes recherchent la vie; cet être dis-je, est celui que les hommes appellent généralement Dieu.

[7] Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ?                     

Dương khí sinh lai trần mộng tỉnh                     

Nhiếp tình hợp tính qui kim đỉnh                        

Vận phù tam bách túc chu thiên                       

Phục khí tứ thời qui tĩnh định                             

Thất nhật thiên tâm dương vị phục                  

Ngũ long bổng thánh côn lôn đỉnh                  

Huỳnh đình thập nguyệt sản linh đồng           

Giá hạc lăng tiêu nhiệm du sính                       

(Tiên thiên luận ngữ, tr.5)

[8] Xích quặc chi khuất, dĩ cầu thân dã. Long xà chi trập dĩ tồn thân dã. Tinh nghĩa nhập thần, dĩ chí dụng dã. Lợi dụng an thân dĩ sùng đức dã. 尺 蠖 之 屈, 以 求 伸 也. 龍 蛇 之 蟄 以 存 身 也. 精 義 入 神, 以 至 用 也. 利 用 安 身 以 崇 德 也 (Hệ Từ Hạ, V)

[9] Cours apparent du Soleil.

[10] Tri xu thời ứng biến. (Tính Lý, I,42)

[11] The Galaxy, Macrobius says, crosses the zodiac in two opposite points, Cancer and Capricorn, the tropical points in the sun’s course, ordinarily called the gates of the sun. These two tropics, before his time, corresponded with those constellations but in his day with Gemini and Sagittarius, in consequence of the procession of the equinoxes; but the signs of the Zodiac remained unchanged; and the Milky Way crossed at the signs Cancer and Capricorn though not at those constellations. Through these gates, souls were supposed to descend to earth and reascend to Heaven. One, Macrobius says, in his dream of Scipio, was styled the Gate of Men; and the other, the Gate of the Gods. Cancer was the former because souls decended by it to the earth; and Capricorn the latter, because by it they reascended to their seats of immortality, and because Gods… (Les Orphiques croyaient dans le Cancer le portail par où âmes entraient en incarnation sortant en multitude de la Voie Lactée…) (L’occultisme du Zodiaque, p.89)

….. Il est intéressant de voir que la naissance de l’univers se place tout au commencement du signe (Capricorne) était symbolisée par la naissance du Dieu solaire ou de l’enfant divin au solstice d’hiver, tandis que la dissolution de l’univers matériel, suivant les Écritures de l’Inde, se produit à la fin du signe… (ibid. 121)

[12] Năng u năng minh, năng tế năng cự, năng đoản năng trường. Xuân phân nhi thăng thiên, Thu phân nhi tiềm uyên. 能 幽 能 明, 能 細 能 巨, 能 短 能 長 春 分 而 升 天 秋 分 而 潛 淵 (Léon Wieger, Textes philosophiques. Le Dragon I,15)

[13] Soon they personnified the sun and worshipped him under the name of Osiris and transmuted the legend of his descent among the winter signs, into a fable of his descent into the infernal region, and his ressurrection.

[14] Đồ (Tiên thiên đồ dã) tuy vô văn, ngô chung nhật ngôn nhi vị thường ly hồ thị, cái thiên địa vạn vật chi lý tận tại kỳ trung hĩ. (Tính Lý 1: Kinh Thế, tr.58, 59)

[15] Trình Phu Tử viết: Tri vạn lý qui ư nhất lý nhi bất tri nhất lý tán ư vạn sự, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng, tự tha bất gián ư vi trần, thủy chung bất ly ư đương niệm, cùng huyền cực diệu, phi nhị thừa phàm phu chi sở năng tri dã. (Đạo dư lục 19).

[16] Thánh nhân chi ưu thiên hạ lai thế kỳ chí hĩ. Tiên thiên hạ nhi khai kỳ vật, hậu thiên hạ nhi thành kỳ vụ. (Dịch Kinh đại toàn, Dịch tự)

[17] Chí nhân chi tâm định vu nhất. 至 人 之 心 定 于 一 (Chẩm thượng ngữ, tr.1)

[18] Tâm phản vu tiên thiên chi tiên tắc siêu vụ hình số chi ngoại, xuất nhập sinh tử, bất vi hình số sở câu. 心 反 于 先 天 之 先 則 超 于 形 數 之 外, 出 入 生 死, 不 為 形 數 所 拘 (Chẩm thượng ngữ, tr.1)

[19] Cf. Dr. A. Besant, La Sagesse des Upanishads. p.92: Mais par la mort, s’ouvrent deux sentiers, le Pitriyâna ou sentier des Pitris, et le Devayâna ou sentier des Dieux. Ils nous sont très soigneusement, décrits dans quelques passages que je vais vous résumer, et que l’on trouve dans les Brihadaranyaka, Chândogya et Prasna Upanishads (Brah. Up. VI, II, 2-16; Chand. Up. V, II, Prasna I,9-10; Chand. 4. 15. 5; Chand. 5. 10. Bha. Gita 8,24-16)

Les mots indiquant obscurité tels que fumée, nuage, quinzaine sombre etc…) impliquent emprisonnement dans la matière et correspondent au retour sur la terre, par une nouvelle naissance; les mots signifiant lumière s’appliquent au triomphe du soi et correspondent au sentier des Dieux par lequel on ne retourne pas.

[20] Khổng Tử viết: Đạo nhị: nhân dữ bất nhân nhi dĩ hĩ. 孔 子 曰 道 二 仁 與 不 仁 而 已 矣 (Mạnh Tử, Ly lâu [thượng-2])

[21] Nhân sinh ngũ thập chi tiền vi tiến số, dụng thế chi học, đương nhất nhật chương nhất nhật. Ngũ thập dĩ hậu, vi thoái số, thùy thế chi học đương nhất nhật tích nhất nhật. 人 生 五 十 之 前 為 進 數, 用 世 之 學, 當 一 日 章 一 日. 五 十 以 後, 為 退 數, 垂 世 之 學 當 一 日 積 一 日.

[22] Tứ thập, ngũ thập nhi vô văn yên tư diệc bất túc úy dã dĩ. 四 十, 五 十 而 無 聞 焉 斯 亦 不 足 畏 也 已 (Luận Ngữ, Tử Hãn, câu 22)

[23] Cf: Marcel Granet, La Pensée Chinoise, p.103: Mais le Chef ne peut poursuivre indéfiniment sa circulation périphérique sous peine de ne jamais porter les insignes qui correspondent au centre qui sont l’apanage du suzerain – Aussi quand est fini le troisième mois de l’été interrompt-il le travail qui lui permet de singulariser les diverses durées. Il se vêt alors de jaune et cessant d’imiter la marche du soleil, va se poster au centre du Minh t’ang. S’il veut animer l’espace, il faut bien qu’il occupe cette place royale et dès qu’il s’y arrête, c’est d’elle qu’il semble animer le temps: il a donné un centre à l’année …

[24] Lão Tử, Đạo Đức Kinh, ch.2-2: Hữu vô tương sanh. Cao hạ chi tương khuynh. Nan dị chi tương thành. Âm thanh chi tương hòa. Trường đoản chi tương hình. Tiền hậu chi tương tùy. 有 無 相 生. 高 下 之 相 傾. 難 易 之 相 成. 音 聲 之 相 和. 長 短 之 相 形. 前 後 之 相 隨.

[25] Thiên phong 天 風 媾.

[26] Địa lôi phục 地 雷 復.

[27] Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ. 復 其 見 天 地 之 心 乎 (Dịch Kinh, Phục quái)

[28] Dịch chi vi thư, quảng đại tất bị, vô sở bất bao, nhi ngữ kỳ yếu quy, tắc vi minh: «Thiên nhân hợp nhất» chi đạo. , , , , 之道 (Sách dịch thật mênh mông bao quát, nhưng đại khái là cốt xiển minh lẽ «Thiên nhân hợp nhất») cf. Chu Dịch – Trương Kỳ Quân, Trung Quốc ngũ thiên niên sử, đệ nhị sách – đệ thập nhị chương, Trung Quốc nhất chu, số 588.

Thánh nhân dĩ Dịch tẩy tâm, tự dữ thiên lý đồng lưu, Quân tử dĩ tâm thể Dịch, đương tri thiên lý đồng bản. (Đào Hư Tử, Chẩm thượng ngữ, tr.8)

... Trung Quốc tự Đường Ngu dĩ lai, tức hữu thiên nhân hợp nhất chi tư tưởng. Kính thiên tức sở dĩ ái nhân, ái dân tức sở dĩ tôn thiên. Lịch đại thánh triết, mạc bất kế tục hoành dương thử «thiên nhân hợp nhất» chi đạo. Lão Tử tức kỳ nhất dã. 中國 自 唐 虞 以 來, 即 有 天 人 合 一 之 思 想. 敬 天 即 所 以 愛 人, 愛 民 即 所 以 尊 天. 歷 代 聖 哲 莫 不 繼 續 宏 揚 此 天 人 合 一 之 道.老 子 即 其 一 也 (Lão Tử, Trương Kỳ Quân, Trung Quốc nhất chu, số 623, tr.21)

... Từ thượng cổ người Tàu đã có tư tưởng cho người ta sinh ra ai cũng bẩm thụ cái tính của Trời. Cái tính ấy là một phần thiên lý. Vậy Trời với người quan hệ với nhau rất mật thiết lắm. Bởi thế, mới lấy pháp tắc tự nhiên của Trời làm cái mô phạm của người và cho thiên luân, thiên đạo là nhân đạo… (Trần Trọng Kim, Nho giáo, tr.39)

[29] Dịch đại khái dục nhân khủng cụ tu tỉnh. (Dịch Kinh đại toàn cương lĩnh, tr.11) – Trung Dung, ch.1.

[30] Cf.: L’Ecclésiaste 3,1 15, Bible Crampon p.745:

Pour tout, Il y a un moment, un temps pour chaque chose sous le ciel: temps d’enfanter, et temps de mourir; temps de planter, et temps d’arracher les plants;

Temps de tuer, et temps de guérir; temps de démolir et temps de bâtir; temps de pleurer, et temps de rire; temps de se lamenter, et temps de danser;

Temps de jeter des pierres, et temps de ramasser des pierres;

Temps d’embrasser, et temps d’écarter les embrassements;

Temps de chercher, et temps de perdre;

Temps de garder, et temps de rejeter;

Temps de déchirer, et temps de coudre,

Temps de se taire et temps de parler; temps de d’aimer,

et temps de haïr, temps de guerre, et temps de paix.

Quel profit, pour le travailleur, de la peine qu’il se donne?

J’ai considéré les occupations auxquelles Dieu

a donné aux enfants des hommes de s’occuper.

Toute chose, il l’a faite bonne pour tout temps;

C’est aussi l’infinité du temps qu’il a mis dans leur cœur,

Sans que l’homme puisse découvrir l’oeuvre

Que Dieu fait, de bout en bout.

…Tri xu thời ứng biến (Chính mông, Tính lý 1, 42)

[31] Thiên chi dũ dân                   

Như huân như trì                  

Như chương như khuê        

Như thủ như huề                  

Huề vô viết ích                      

Dũ dân Khổng dị                  

- Le ciel persuade le peuple doucement et sans violence L’obéissance du peuple suit l’influence du ciel spontanément comme la flute répond à l’ocarine, comme les 2 moitiés d’une tablette d’investiture s’adaptent, comme l’action de recevoir et celle de donner. Le peuple ne résiste pas à sa douce influence Gagner le peuple est chose facile. (Léon Wieger, Textes philosophiques 1,45)

- Heaven enlightens the people, as the bamboo flute respond to the porcelain whistle; as two half maces form a whole one; as you take a thing, and bring it away in your hand, bringing it away without any more ado. The enlightenment of the people is very easy. (James Legge, The She King, p.502).

» Mục lục » Chương: 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16