KHỔNG HỌC TINH HOA
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Lời nói đầu |
chương
1
2 3
4 |
Tổng luận | Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
 
Chương 1
Ý niệm về Thượng Đế qua
Tứ Thư, Ngũ Kinh và sử liệu Trung Hoa
Khảo sát ý
niệm về Trời, về Thượng Đế qua Tứ Thư, Ngũ Kinh và sử liệu Trung Hoa,
tức là khảo sát niềm tín ngưỡng của dân tộc Trung Hoa thời cổ, trong
khoảng hơn 2000 năm lịch sử trước đời Khổng Tử.
Sống thời
nay mà bàn chuyện xa xăm quá vãng từ ba, bốn nghìn năm về trước như vậy,
thoạt nghĩ, tưởng là viển vông, lỗi thời. Nhưng biết đâu trong cái thế
giới ngả nghiêng cả về tinh thần lẫn vật chất này, niềm tin của người
xưa lại chẳng làm vững mạnh lại lòng tin của người nay?
Khảo cứu
Tứ Thư, Ngũ Kinh, nhiều người vẫn tưởng rằng đức Khổng lập ra một đạo
mới, nhưng kỳ thực Ngài chỉ muốn làm sống lại những truyền thống, những
tín ngưỡng cao đẹp của người xưa, muốn xây dựng lại cho nước Trung Hoa
nền Thiên trị (Théocratie) chính thống của các thánh quân, hiền phụ thời
trước…
Ngài nói:
«Ta trần thuật chứ
không sáng tạo,
Tin cổ nhân, mộ đạo cổ
nhân.»
[1]
Thực vậy,
Ngài ra công sưu tầm, san định các tài liệu lịch sử, lễ nhạc, thi ca
thời cổ, ghi chép thành bộ Ngũ Kinh quí báu mà ngày nay chúng ta thừa
hưởng. Nhờ vậy mà bây giờ chúng ta mới còn có những quan niệm chính xác
về dân Trung Hoa thời cổ.
«Công Tôn
Triều, đại phu nước Vệ, hỏi Tử Cống: Thầy ông là Trọng Ni học với ai mà
giỏi như vậy ? Tử Cống đáp: Đạo thống của vua Văn, vua Võ chưa tan nát ở
cõi này, vẫn còn ở nơi người. Vì vậy trang hiền đức học nhớ được phần
trọng đại, kẻ tầm thường học nhớ được phần nhỏ nhít. Ở đâu lại chẳng có
đạo thống của vua Văn, vua Võ ? Thầy tôi há chẳng học ở đó sao? Cần gì
mà phải nhất định có một ông thầy?»
Nay thì
trái lại, đạo thống của vua Văn, vua Võ đã tan nát, chẳng còn ở nơi
người, nhưng vẫn còn nguyên vẹn trong sách vở. Ta hãy giở lại những
trang sách cũ để tìm ra những điều trọng đại…
Dân Trung
Hoa có ý niệm về Trời, về Thượng Đế tự bao giờ? Từ Bàn Cổ, từ Phục Hi,
hay từ Hoàng Đế?
Đó thực là
một câu hỏi khó trả lời…
Chúng ta
chỉ biết rằng: theo Trúc Thư Kỷ Niên thì từ thời Hoàng Đế (tức vị năm
2697 trước kỷ nguyên) đã thấy đề cập tới Trời, một cách kính cẩn nhưng
cũng rất tự nhiên, quen thuộc.
Trong
thiên đầu sách, nhan đề là «Hoàng Đế Hiên Viên Thị», Trúc Thư ghi:
Năm thứ 50
(đời Hoàng Đế), mùa thu, tháng bảy, ngày Canh Thân, phượng hoàng bay
đến, Hoàng Đế tế lễ ở sông Lạc.
Từ ngày
Canh Thân, trời sa mù ba ngày, ba đêm; ban ngày cũng hôn ám. Hoàng Đế
hỏi Thiên Lão, Lực Mục, Dung Thành xem sự thể thế nào ?
Thiên Lão
tâu: «Thần nghe khi nước yên và vua chuộng văn thì phượng hoàng tới ở;
lúc nước loạn và vua chuộng võ, thì phượng hoàng bay đi. Nay phượng
hoàng bay lượn vui vẻ ở bờ cõi Đông, tiếng kêu an hòa tiết tấu ứng hợp
với Trời. Suy ra thì biết: TRỜI ĐÃ BAN NHỮNG LỜI NGHIÊM GIÁO CHO ĐỨC
VUA, xin đức vua chớ nên bất tuân.»
Tài liệu
lịch sử này chứng minh rằng Hoàng Đế (2697 BC) và quần thần đã tin kính
Trời, đã đề cập tới Trời một cách rất là tự nhiên quen thuộc và trong
những tình thế nghiêm trọng bất thường, đã biết cùng nhau bàn bạc để tìm
hiểu ý Trời mà tuân cứ…
Vua Nghiêu
(tức vị 2356 BC) lại còn thánh thiện hơn nữa: Ngài đã biết sống thánh
thiện noi gương Trời!
Khổng Tử
đã viết về vua Nghiêu như sau: «Vua Nghiêu đức nghiệp lớn thay, chỉ có
Trời là lớn! Chỉ có vua Nghiêu là bắt chước Trời.»
Khi vua
Thuấn lên ngôi (2255) đã tế lễ Thượng Đế.
Vua Đại Võ
khi còn là hiền thần, đã biết khuyên vua Thuấn sống cuộc đời đức hạnh
«để có thể huy hoàng rước lấy Thượng Đế».
Lúc trị
thủy thành công trở về, Đại Võ dâng vua Thuấn một tấm ngọc huyền khuê,
để báo cáo công việc hoàn thành.
Phó Diễn
bình rằng: Võ dâng Thuấn ngọc huyền khuê là muốn nói cùng vua Thuấn:
«Đức hạnh của nhà vua đồng nhất với đức hạnh Trời.»
Các vua
sáng lập nhà Ân (1766-1122) cũng đã biết sống cuộc đời thánh thiện, phối
hợp với Thượng Đế.
Kinh Thi
viết:
«Thủa nhà Ân còn thời
thịnh trị,
Đã từng cùng Thượng Đế
tất giao.»
[9]
Sau khi
nhà Ân suy vi thì vua Văn (sinh năm 1258 BC), người được mệnh lệnh
Thượng Đế hưng binh đánh Trụ, lại biết sống phối hợp với Trời.
Kinh Thi
viết:
«Việc Trời chẳng tiếng
chẳng tăm,
Nên dùng dạng thức vua
Văn hiển hình,
Cho muôn dân thấy mà
tin.»
[10]
Vũ Vương
(1122 BC) đã điều động binh tướng đánh Trụ vương với danh nghĩa «thay
Trời trừ bạo».
Trong bài
diễn văn quan trọng để hô hào tướng sĩ ở Mạnh Tân, sau khi đã kể các tội
ác của Trụ vương, vua nói:
«Hoàng
Thiên đã chấn nộ, sai cố quân tôi là Văn Vương kính cẩn ra oai Trời,
nhưng đại sự chưa thành tựu. Tôi nay còn là trẻ nít, ngày đêm những lo
cùng sợ. Tôi đã nhận lãnh sứ mạng do cố quân tôi, tôi đã tế lễ Thượng
Đế, tôi đã làm lễ nghi kính đất đai, và tôi nay hướng dẫn chúng tướng sĩ
thi hành hình phạt của Trời. Trời thương dân chúng. Cái gì dân muốn,
Trời cũng sẽ nghe theo.
Xin các
tướng sĩ hãy giúp tôi quét sạch bốn biển. Thời cơ này xin chớ để mất.»
Lúc lâm
trận Mục Dã, đứng trước một đạo binh vô cùng đông đảo của Trụ vương, để
khuyến khích ba quân, Võ Vương đã kêu lên: «Thượng Đế ở với ba quân, ba
quân hãy vững lòng vững dạ.»
Kinh Thi
viết:
«Quân Thương Ân bạt
ngàn Mục Dã,
Một rừng người chật cả
sa tràng.
Cho ba quân thêm dạ sắt
gan vàng,
Võ Vương kêu: Thượng đế
ở cùng ta đó,
Ba quân hãy vững lòng
vững dạ.»
[12]
Sử còn cho
hay:
«Sau trận
Mục Dã, Trụ Vương trốn vào Lộc Đài tự thiêu chết. Còn vua Vũ, sau khi
nhận lời ca tụng của các vị vương bá về trận thắng, liền đuổi theo Trụ
Vương tới kinh đô. Dân chúng túc trực ngoài thành lũy, lo lắng sợ hãi.
Vua Vũ cho sứ giả tới phủ dụ dân bằng lời lẽ sau: «Trời cao gíng phúc
lành cho (anh em).» Dân chúng cúi chào vua Vũ. Vua Vũ cũng cúi chào đáp
lễ lại…»
Nếu ta đem
so sánh các nhân vật lịch sử Trung Hoa trên đây với các nhân vật lịch sử
Do Thái, và các giai đoạn lịch sử Do Thái ghi trong Cựu Ước với những
niên kỷ phỏng định tương ứng, ta mới thấy dân Trung Hoa ngay từ trước
Hồng Thủy,
từ lâu
trước thời Abraham
và Moïse
đã có một
niềm tín ngưỡng sâu xa, một lòng kính tôn tin cậy hết sức lớn lao đối
với Thượng Đế.
Bảng đối
chiếu sau đây sẽ giúp ta dễ lĩnh hội được điều đó.
BẢNG
NIÊN KỶ ĐỐI CHIẾU GIỮA TRUNG HOA, DO THÁI, VIỆT NAM VÀ ÍT NHIỀU CƯỜNG
QUỐC ÂU Á THỜI CỔ
TRUNG HOA |
DO THÁI |
CÁC NƯỚC |
VIỆT NAM |
Phục Hi 2852
Thần Nông 2737
Hoàng Đế 2697
Nghiêu 2356
Thuấn 2255 |
Adam 4004 BC
Hồng Thủy 2348 |
|
Hồng Bàng 2879 BC |
Hạ 2205-1766 |
Đại Võ 2205 |
Abraham 1800 |
Luật Hamourabi
(Babilone) 2000 |
|
Thương 1766-1122 |
Thành Thang 1766 |
Xuất Ai Cập Moïse 1240 |
Ai Cập thịnh trị từ
1600-1200 |
|
Chu 1122-255 |
Văn Vương sinh 1258
Võ Vương 1122
Chiêu Vương 1052
Mục Vương 1001
Linh Vương
(Khổng Tử sinh 571)
Liệt Vương
(Mạnh Tử sinh 357) |
Các quan xét 1160-1020
Samuel 1050
David 1000
Ezechiel giảng giáo ở
Babylone 594 |
Assyrie thịnh trị
900-607
Babylone thịnh trị
606-536
Ba Tư thịnh trị 536-330 |
|
Tần 249-206 |
Tần Thủy Hoàng (249) |
|
Hi Lạp thịnh trị 330
-146 BC |
|
Tây Hán |
Cao Tổ (206) |
|
La Mã thịnh trị 146 BC
- 476 AD |
Hồng Bàng 258 BC |
Thượng Đế
trong Tứ Thư, Ngũ Kinh, có nhiều danh hiệu:
Đế,
Thượng
Đế,
Thiên,
Hoàng
Thiên,
Thượng
Thiên,
Hoàng
Thượng Đế,
Thiên
Hoàng Thượng Đế,
Thượng
Thiên Thần Hậu,
Hoàng
Hoàng Hậu Đế,
v.v… Ấy
là chưa kể đến những danh từ trừu tượng siêu hình như Dịch,
Thần,
Thái Cực,
v.v…
Các giáo
sĩ Âu Châu rất bất mãn vì Trung Hoa lại có thể dùng chữ Thiên mà chỉ
Thượng Đế, vịn lẽ rằng trời là vòm trời, vô tri giác, sao lại có thể
kính tôn và thờ phụng được. Linh mục Ruggieri viết:
«Trời
không phải là thần minh mà là tòa của thần minh… Có thể ông Khổng đã
dùng chữ trời mà chỉ danh một trí tuệ tối cao cai trị trời đất, nhưng
tôi không biết ông Khổng đã nghĩ thế nào?»
Những lời
bắt bẻ ấy thật vô lý cứ: Trước hết, trong bất kỳ tiếng nước nào, mỗi chữ
thường có nhiều nghĩa. Muốn hiểu đúng nghĩa, phải đặt mỗi chữ vào đúng
chỗ của nó trong câu (contexte). Vả lại, nếu người xưa đã thờ một vòm
trời vô tri giác, thì sao lại nói Trời xem, Trời nghe, Trời muốn, Trời
giận, Trời phạt, v.v… thì tại sao trong đền thờ Thượng Đế ở Bắc Kinh lại
có bốn chữ đại tự thiếp vàng Hoàng Thiên Thượng Đế?
(scan)
Hơn nữa, theo nguyên tắc, không một người ngoại quốc nào có thể có đủ
thẩm quyền thay đổi từ ngữ của một dân tộc….
Theo Cha
Matteo Ricci (sinh tại Macerat ngày 6-10-1552, đến Macao ngày 7-8-1582,
mất tại Bắc Kinh ngày 11-5-1610;
cầm đầu
các cha Dòng Tên vào Trung Hoa từ năm 1583), Thiên và Đế trong sách cổ
điển Trung Hoa đều chỉ «một đấng chủ tể vạn vật; phải hiểu Thiên là đấng
ngự trị trên trời, theo kiểu nói thân mật của các dân tộc, đã được Thánh
Kinh phê nhận».
Nhưng những ý kiến xây dựng của cha Ricci đâu có được nghe theo.
Cha Pasio khuyến cáo cha Longobardo, người kế nghiệp cha Ricci, rằng nếu
dùng chữ Thượng Đế, chữ Thiên để chỉ Thiên Chúa e bất lợi cho công cuộc
truyền giáo, nhất là ở Nhật Bản.
Cuộc
tranh luận về từ ngữ kéo dài mãi cho tới hội nghị Kiating (1628). Các
giáo sĩ đành vấn ý Giáo Hội La Mã như sau: «Những chữ Thiên, chữ Thượng
Đế còn có nên giữ để chỉ Chúa người Công giáo không?» Mãi đến 1704 Giáo
Hội mới trả lời: «Không, hãy dùng chữ Thiên Chúa.»
Ngày
30-11-1700, Vua Khang Hi giáng chiếu như sau: «Đối với các việc tế lễ mà
các vua chúa thời xưa quen dâng kính Trời, đó là những việc tế lễ mà các
triết gia Trung Hoa gọi là … tế lễ Trời Đất, mục đích là để tôn kính
Thượng Đế… cho nên, đã hiển nhiên là không phải dâng tế lễ cho trời hữu
hình hữu chất, mà là dâng cho đấng chủ tể đã tạo thành trời đất muôn
vật. Và vì người xưa kính sợ Thượng Đế, không dám trực tiếp xưng tên
Ngài, nên họ thường xưng hô Ngài dưới danh hiệu là Thượng Thiên, Hoàng
Thiện, Mân Thiên. Y như ngày nay, khi đề cập tới Hoàng Đế, người ta
không gọi đích danh Hoàng Đế, mà lại gọi cửu trùng, chín bệ…
Như vậy
xét về từ ngữ thì có khác nhau, nhưng xét về ý nghĩa thì những danh từ
ấy đều là một…»
Vua Khang
Hi thực đã tỏ ra một thái độ sáng suốt và biết dung hòa hết sức...
Trong Cựu
Ước, nhiều khi Chúa mượn hình người xuống gặp gỡ các tổ phụ, ví dụ gặp
Abraham ở gốc sồi Mambré (Sáng Thế Ký 18-1, 23) hay Jacob (Sáng Thế Ký
32-22, 23) hay Moïse (Exode 33-10, 11), v.v…
Trong Tứ
Thư, Ngũ Kinh, trái lại, tuyệt nhiên không thấy có sự hiển linh đó, vì
Khổng giáo chủ trương Trời «không tiếng, không hơi» (vô thanh vô xú).
Tuy
nhiên, Thi, Thư cũng một đôi lần ghi chép những lời Thượng Đế phán bảo
cùng các thánh vương.
Kinh Thư,
thiên Duyệt mệnh thượng, ghi chép: Vua Cao Tông (Vũ Đinh 1325 BC) nằm
mộng thấy Thượng Đế ban cho một hiền thần. Vua tỉnh dậy, cho họa ảnh, đồ
hình, tìm tòi khắp trong nước. Quả nhiên gặp được Duyệt ở đất Phó Nham
đúng như hình vẽ. Vua liền phong cho Phó Duyệt làm tể tướng và giữ luôn
bên cạnh mình.
Kinh Thi
thiên Hoàng Hĩ có ghi những lời Thượng Đế phán bảo Văn Vương:
Thượng đế gọi vua Văn
phán bảo,
«Ngươi chớ nên trở tráo
đảo điên.
Đừng cho dục vọng tần
phiền,
Đừng vì ngoại cảnh rối
ren tơ lòng.»
Vua Văn tiến tới cùng
nẻo đức,
Đức vua văn rất mực cao
siêu…
Thế mà dân Mật dám điều
Manh tâm phản loạn, ra
chiều khinh khi.
Chiếm xứ Nguyễn, lại đi
Cung đánh,
Làm Văn Vương nổi thịnh
nộ lên.
Ba quân điều động một
phen,
Ngăn quân phản loạn dẹp
yên cõi bờ.
Để thiên hạ thấy cho
tường tận,
Khỏi hoang mang lo lắng
đợi trông.
Vua tuy vẫn ở trong
kinh khuyết,
Nhưng ba quân ra tít
Nguyễn thành,
Quản chi đồi núi chênh
vênh,
Núi non nào thấy bóng
hình địch quân.
Đồi cao, đồi thấp biệt
tăm.
Suối kia, ao nọ vẫn nằm
chơ vơ.
Địch quân đóng bên bờ
sông Vệ,
Đóng xứ Kỳ, đóng xế về
Nam,
Là nơi đồng ruộng mỡ
màng,
Là trung tâm điểm muôn
vàn lý hương.
oOo
Thượng đế gọi vua Văn
phán bảo:
«Ta ưa ngươi hoài bão
đức nhân,
Chẳng cần khoe tiếng
khoe tăm,
Chẳng cần thanh sắc lố
lăng bên ngoài,
Không hay, không biết,
thảnh thơi,
Thung dung theo đúng
luật trời ở ăn.»
Thượng đế gọi vua Văn
phán bảo:
«Hãy ra tay chinh thảo
địch quân.
Hãy cùng huynh đệ hợp
quần,
Sẵn sàng thang, móc,
xung, lâm phá thành.
Thành Sùng nọ, sẽ
phanh, sẽ phá,
Sẽ ra tay xô ngã thành
Sùng…»
[39]
… Trời oai
nghi,
nhưng luôn để mắt nhìn xuống muôn phương
để dìu
dắt ám trợ chúng dân.
«Kìa Thượng Đế muôn
trùng cao cả
Oai nghi nhìn thiên hạ
chúng dân
Nhìn quanh tứ phía hồng
trần
Tìm xem ai kẻ trị dân
an bình.»
[43]
Bởi vì:
«Sinh dân Trời chẳng bỏ
liều
Liệu người cai quản đến
điều mới thôi.»
[44]
Dĩ nhiên
là «Trời rất thông minh, nên các vị thánh quân phải bắt chước Trời, như
vậy quần thần sẽ khâm phục và dân chúng sẽ được cai trị hẳn hoi, yên
ổn.»
Trời không
thân ai, chỉ thân kẻ biết kính sợ Ngài.
Trời đôi
khi cũng phẫn nộ
vì những
lỗi lầm,
thất bại
hay tội
lệ
của các
nhà cầm quyền, có khi cũng ra uy,
giáng tai
ách,
nhưng,
thật ra Ngài thương muôn dân vô hạn,
đến nỗi
đồng hóa mình với chúng dân.
Kinh Xuân
Thu cũng viết:
«Trời rất
thương dân. Có lẽ nào Trời để cho một người trị dân theo ý riêng mình,
theo tính xấu mình mà phế bỏ tính trời đất, chắc không thể nào được.»
oOo
Khảo cứu
văn liệu, sử liệu Trung Hoa thời cổ, ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy
dân Trung Hoa xưa đã thờ Trời, tin Trời, kính sợ Trời. Hơn thế, họ còn
coi Trời như cha, vì thế mà vua nhiều khi còn được mệnh danh là
nguyên tử, là con đầu của Thượng Đế.
Trịnh
Khang Thành bàn rằng: «Phàm người ta ai cũng là con Trời, Thiên Tử là
con đầu hay là trưởng tử.»
Chính Trời
cai trị, hướng dẫn dân chúng.
Kinh Thi
viết:
«Trời xanh dẫn dắt
chúng dân,
Như là tấu khúc nhạc
huân, nhạc trì,
Trời, Người, đôi ngọc
chương khuê,
Bên cho, bên lấy, đề
huề, xiết bao,
Tay cầm, tay giắt, khéo
sao,
Trời xanh, dẫn dắt dân
nào khó chi.»
[58]
Như vậy,
các vua quan chỉ là những người đại diện, những thiên sứ,
những tôi
tá của Trời.
Một tổ
chức xã hội theo quan niệm như vậy là Thiên trị (Théocratie).
Các trang
hiền thánh, các thánh quân, hiền thần đều ước ao sống cuộc đời thánh
thiện, phối hợp với Thượng Đế.. Những chữ «phối Thiên», «khắc phối
Thượng Đế» (kết hợp với Thượng Đế)
được đề
cập nhiều lần trong Tứ Thư, Ngũ Kinh…
Thực là lạ
lùng khi nhận thấy người xưa đã có một niềm tín ngưỡng sâu xa về Thượng
Đế như vậy, và một lý tưởng đạo hạnh tuyệt vời như vậy …
Nhiều học
giả Âu Châu, khi khảo sát lại niềm tín ngưỡng Trung Hoa thời cổ cũng
phải bỡ ngỡ lạ lùng.
Cha Ricci
viết ngày 4-11-1595 như sau: «Tôi đã nhận thấy có nhiều đoạn [trong Tứ
Thư, Ngũ Kinh] phù hợp với tín ngưỡng chúng ta, ví như Thiên Chúa duy
nhất, linh hồn bất tử, các thánh nhân được vinh quang, v.v…»
Pascal
viết: «Ai đáng tin hơn: Moïse hay Trung Hoa?»
Cha
Lecomte viết:
«Đạo giáo
Trung Hoa hình như đã giữ được tinh toàn qua các thế hệ những chân lý
chính yếu mà Thiên Chúa đã mặc khải cho những người sơ
thủy. Trung Hoa
lúc sơ khai may mắn hơn các nước khác
trong hoàn võ, đã thâu lượm hầu như được chính mạch, chính nguồn những
chân lý thánh thiện và chính yếu cho đạo giáo cổ thời của họ. Những vị
hoàng đế đầu tiên đã xây đền thờ Thiên Chúa, và thực không phải là một
vinh dự nhỏ cho dân Trung Hoa vì đã tế lễ tạo hóa trong một đền thờ cổ
kính nhất thiên hạ. Niềm đạo hạnh ban sơ đã gìn giữ được trong dân chúng
nhờ công lao của các vị hoàng đế; vì thế tà đạo đã không lọt được vào
Trung Quốc.»
James
Legge, một giáo sĩ Thệ Phản và một học giả lừng danh về Hán học, đã viết
trong bài phi lộ quyển Kinh Thư mà ông bình dịch như sau:
«Thiên
Chúa được gọi là Đế, là Thượng Đế, tức là đề cao tính cách hữu ngã, chí
tôn và duy nhất của Ngài. Chúng ta thường thấy những danh hiệu trên được
dùng thay đổi với chữ Thiên. Thiên vẫn hàm ngụ ý nghĩa chí tôn, và duy
nhất, còn tính cách hữu ngã thì được ám chỉ tới một cách không rõ rệt,
như là bằng một sự liên tưởng.
Vua chúa
cai trị là do Trời. Vua chúa bắt buộc phải thi hành công lý cũng là vì
Trời. Mọi người đều phải sống dưới lề luật của Ngài, và có bổn phận tuân
theo ý chỉ của Ngài. Ngay hạ dân, Ngài cũng ban cho một ý thức về luân
lý, theo ý thức ấy, sẽ làm tỏ rõ nhân tính hằng cửu chân thiện. Mọi uy
quyền đều do nơi Ngài. Ngài cất nhắc kẻ này lên ngôi báu và hạ bệ kẻ
khác xuống. Tuân phục Ngài sẽ được phúc lộc; bất tuân Ngài sẽ bị Ngài
trách phạt. Bổn phận các vua chúa là phải cai trị cho công bình và nhân
hậu, cho dân chúng được hạnh phúc, sung sướng. Vua chúa phải nêu gương
mẫu cho đình thần, bá quan, và muôn dân. Sự thành công lớn lao nhất của
vua chúa là khiến cho dân chúng được sống yên bình, thảng đãng tiến bước
theo lời chỉ giáo của lương tâm họ. Khi vua chúa lầm lỗi, Trời sẽ chỉnh
huấn bằng những phán quyết như giông tố, đói khát, hay các thiên tai
khác; nếu vua chúa không chịu sửa đổi, thì hình phạt sẽ nặng nề hơn.
Họ sẽ mất
quyền cai trị, và quyền ấy sẽ sang tay người khác xứng đáng với nhiệm vụ
ấy…»
Mấy hàng
của James Legge có thể dùng để toát lược chương này.
Thực ra
quan niệm về Thượng Đế là một quan niệm rất phức tạp. Nó biến ảo vô
cùng, và thay đổi tùy nơi, tùy thời, tùy sự nhận thức của từng người. Đề
cập thế nào về Thượng Đế cũng thấy là bất xứng, diễn tả thế nào về
Thượng Đế cũng vẫn thấy sai ngoa. Cho nên, nơi đây chúng ta đã không có
tham vọng bao quát mọi ý niệm về Thượng Đế trong Nho giáo, chúng ta đã
thu hẹp phạm vi, không đề cập tới những quan niệm siêu hình, những danh
từ trừu tượng về Thượng Đế của các triết gia về sau, nhất là của Tống
Nho.
Chúng ta
đã đề cập tới Thượng Đế bằng những quan niệm của đại chúng, của các vị
hiền thánh thời xa xưa, chứ không muốn đề cập tới Thượng Đế bằng khối óc
của những nhà triết học.
Cũng vì
vậy mà chúng ta đã không đi sâu vào những ý kiến dị biệt, những tranh
luận kéo dài hằng mấy thế kỷ của các giáo sĩ, các học giả Âu Châu quanh
chữ Thiên, quanh ý niệm về Trời, về Thượng Đế trong Nho giáo.
Chương này
chỉ là chương dẫn đầu để xây nền đắp tảng cho các chương sau, vì Thượng
Đế chính là căn bản cho nền đạo giáo và chính trị Trung Hoa thời trước.
Chương
này ngoài ra còn có mục đích dùng sử liệu văn liệu để chứng minh Thượng
Đế chẳng phải là của sở hữu của cá nhân nào, quốc gia nào, dân tộc nào
hay thời đại nào, mà Thượng Đế là của chung cho hoàn võ và nhân loại.
Trời chẳng thân ai, chỉ thân người biết kính sợ Ngài (Kinh Thư – Thái
Giáp hạ 1)
CHÚ THÍCH
Ngũ
thập niên thu thất nguyệt, Canh Thân, phượng điểu chí, Đế tế ư Lạc
Thuỷ. Canh Thân, thiên vụ tam nhật tam dạ; trú hôn. Đế vấn Thiên
Lão, Lực Mục. Dung Thành viết: ư công hà như ? Thiên Lão viết: «Thần
văn chi quốc an, kỳ chủ hiếu văn, tắc phượng hoàng cư chi. quốc
loạn, kỳ chủ hiếu vũ, tắc phượng hoàng khứ chi. Kim phượng hoàng
tường ư Đông giao nhi lạc chi kỳ minh âm trung di tắc dữ Thiên tương
phó. Dĩ thị quan chi, thiên hữu nghiêm giáo dĩ tứ đế. Đế vật phạm
dã.» 五
十
年
秋
七
月,
庚
申,
鳳
鳥
至,
帝
祭
於
洛
水.
庚
申,
天
霧
三
日
三
夜;
晝
昏.
帝
問
天
老,
力
牧.
容
成
曰:
於
公
何
如?
天
老
曰:
臣
聞
之
國
安,
其
主
好
文,
則
鳳
凰
居
之.
國
亂,
其
主
好
武,
則
鳳
凰
去
之.
今
鳳
凰
翔
於
東
郊
而
樂
之
其
鳴
音
中
夷
則
與
天
相
副
以
是
觀
之,
天
有
嚴
教
以
賜
帝,
帝
勿
犯
也.
(Trúc Thư Kỷ Niên, quyển chi nhất, chương Hoàng Đế Hiên Viên thị).
(James Legge, The Chinese Classics, vol III, The Annals of the
Bamboo Books, page 108)
Khổng
Tử viết: Đại tai Nghiêu vi quân, duy thiên vi đại, duy Nghiêu tắc
chi.
The
name by which God was designated, was the Ruler, and the Supreme
Ruler, denoting emphatically His personality, supremacy, and unity.
We find it constantly interchanged with the term Heaven, by which
the ideas of supremacy and unity are equally conveyed, while that of
personality is only indicated vaguely, and by an association of the
mind. By God kings were supposed to reign, and princes were required
to decree justice. All were under law to Him; and bound to obey His
will. Even on the inferior people He has conferred a moral sense,
compliance with which would show their nature invariably right. All
powers that be are from Him. He raises one to the throne and puts
down another. Obedience is sure to receive His blessings;
disobedience, to be visited with His curse. The business of kings is
to rule in righteousness and benevolence, so that the people may he
happy and good. They are to be an example to all in authority, and
to the multitudes under them. Their highest achievement is to cause
the people tranquilly to pursue the course which their moral nature
would indicate and approve. When they are doing wrong. God
admonishes them by judgments, – storms, famine and other calamities;
if they persist in evil, sentence goes forth against them. The
dominion is taken from them, and given to others more worthy of
it...
Đối
với những độc giả nào muốn đi sâu vào vấn đề, tôi xin giới thiệu ít
nhiều sách vở, tài liệu như sau:
- Henri Bernard Maître, Sagesse
chinoise et philosophie chrétienne (Cathasia).
- Amaury de Riencourt, L’Âme de la
Chine. (Librairie Arthème Fayard. Viện Khảo Cổ, thư viện số 3086).
- Bùi Hữu Ngạn, Thượng Đế trong Nho
giáo (Tủ sách Ra Khơi).
- Tien Tcheu Bang, L’idée de Dieu dans
les huit premiers classiques chinois. Fribourg 1942.
- De Harlez, Les religions de la
Chine. Leipzig 1891.
- H.G. Creel, La naissance de la
Chine. Paris 1937.
- Kou Mou Je, L’évolution de la
théologie chinoise avant les Ch’in. Shanghai 1936.
Mục
lục | Lời nói đầu |
chương
1
2 3
4 |
Tổng luận | Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
 
|