THIÊN VĂN HỌC CỔ TRUNG HOA
» [mụclục]
[phi lộ] [chương
1] [chương 2]
[chương 3] [chương
4] [chương 5]
[chương 6] [chương
7] [chương 8]
Chương 3
Những dụng cụ dùng trong
Thiên
văn học Trung Hoa
Nói về thiên văn
học cổ Trung Hoa, ít có người nghĩ rằng người xưa cũng đã có nhiều dụng
cụ và nhiều phương pháp để quan sát tinh tượng, ghi chú thời gian, đo
đạc vòm trời, v.v.
Chúng ta đọc các
chuyện cổ thường chỉ thấy các danh nhân đêm đêm ra xem tinh tượng trên
trời để rồi suy đoán ra họa phúc, suy thịnh ở trần gian.
Đọc Tây Hán
Diễn Nghĩa chẳng hạn, ta thấy khi Hạng Võ kéo quân vào Quang Trung,
viết thư bức bách Bái Công mở ải dâng thành, quân sư Phạm Tăng và tướng
Hạng Bá đêm đến rủ nhau ra Hồng Nhạn Xuyên xem thiên văn để luận thời
cuộc.
Phạm Tăng hỏi nhỏ
Hạng Bá: «Hiền công cũng biết xem thiên văn chứ?»
Hạng Bá nói: «Tôi
từ nhỏ có một người bạn hữu là người ở nước Hàn, va thường nói với tôi
rằng: ‘Hễ đạo làm tướng thì phải biết xem thiên văn, xét địa lợi, biện
mây gió, xem khí sắc, mới nên hành binh.’ Bởi đó nên tôi thường đọc sách
ấy, cũng biết đại lược, xin tiên sinh dạy bảo thêm.»
Rồi đó, Phạm Tăng
và Hạng Bá lẳng lặng mà xem, trước phân triền cơ, sau xem kinh vĩ, có 5
sao triền độ, có 12 chu thiên, có Nhị thập bát tú, có Cửu châu phân dã,
có khải, bế, hối, sóc, huyền, vọng. Làm sao gọi là Bắc Thần, làm sao gọi
là Nam Cực, làm sao gọi là Tả Phụ, làm sao gọi là Hữu Bật, chỗ nào ứng
vận về Lỗ Công, chỗ nào ứng điềm về Bái Công, v.v.
Thật là ly kỳ,
thật là giản dị.
Nhưng khi khảo
các sách thiên văn học Trung Hoa, ta thấy người xưa thực ra cũng có một
số dụng cụ, tuy không phức tạp, tuy không tinh xảo bằng nay, nhưng cũng
giúp họ rất nhiều trong công cuộc suy toán và khảo sát.
Hơn nữa họ cũng
có một số phương pháp để quan sát tinh tượng. Cho nên trong chương này,
chúng ta đề cập «những dụng cụ thiên văn xưa». Còn «những phương pháp
khảo sát dùng trong thiên văn học xưa» sẽ được trình bày ở chương 4.
NHỮNG DỤNG CỤ
THIÊN VĂN XƯA
Trong tiết mục
này ta sẽ đặc biệt chú ý đến những dụng cụ sau đây:
1. Cây nêu (biểu
can) và thổ khuê (gnomon and gnomon shadow template; gnomon et
tablette).
2. Các dụng cụ đo
thời gian:
a. Nhật quỹ
(cadran solaire; sun-dial): đồng hồ đo bóng mặt trời.
b. Lậu khắc,
lậu hồ (clepsydre; clepsydra, water-clock).
- Lậu
hồ nước (water-clock)
- Lậu
hồ cát (sablier; sand hour glass)
c. Hương
triện (đồng hồ hương: incense clock).
d. Đồng hồ
đèn.
3. Ống vọng đồng
(tube de visée; sighting-tube) và Tuyền ky (tablette de constellation
circumpolaire; cicumpolar constellation tem[late).
4. Các loại Hồn
nghi (armillaires; armillaries).
5. Hồn tượng
(globe céleste; celestial globe).
1. CÂY NÊU VÀ THỔ KHUÊ
Cây nêu tên chữ
là biểu can hoặc bi, hoặc bễ, hoặc bài.
Thoạt kỳ thủy, nó
chỉ là một khúc cây thẳng, dài ngắn khác khác nhau tùy thời, dùng để cắm
xuống đất mà đo bóng mặt trời.
Mới đầu, người ta
dùng biểu can dài 10 thước (khoảng 2m4); khoảng từ năm 600 đến 800 tcn.
Dùng
Thổ Khuê và Biểu Can để đo nhật ảnh, xác định ngày Đông Chí.
Tới khoảng thế kỷ
2 tcn, người ta chấp nhận một loại biểu can chính thức dài 8 thước
(khoảng 1m64).
Đến đời nhà
Nguyên (1280-1333) người ta lại còn dùng những biểu can dài 40 thước,
hoặc xây những trắc ảnh đài cao lớn đồ sộ để đo bóng mặt trời.
Hiện nay ở Dương
Thành còn có loại trắc ảnh đài nói trên, tục truyền do Chu Công khởi
tạo; sau này đến đời Nguyên, Quách Thủ Kính đã cho xây cất, sang sửa
lại, và đến đời Minh cũng được tân trang lại.
Đài Chu
Công ở Dương Thành,
xây
khoảng 1276, trùng tu đời Minh
Dùng biểu can 8
thước để đo bóng mặt trời trưa ngày Hạ Chí ở vĩ tuyến Lạc Dương, ta sẽ
được một bóng dài 1 thước 55 (tức 36 cm). Nếu dùng một biểu can dài 10
thước, ta sẽ được một bóng dài 1 thước 94. Muốn đo bóng cho chính xác,
người ta dùng những miếng ngọc gọi là thổ khuê.
Henri Michel đã
tìm ra được những miếng ngôc thổ khuê.
- Một thứ dài 36
cm (1thước 55).
- Một thứ dài 44
cm (1thước 94).
Nhưng sách Chu Lễ
cho rằng: nếu cây nêu dài 8 thước thì bóng sẽ là 1 thước 5, như vật thổ
khuê chính thức cũng phải là 1thước 5 (nếu bóng được đo ở Dương Thành,
cách Lạc Dương 50 dăm về phía Đông Nam).
Theo nguyên tắc,
cây nêu phải được cắm trên một mặt phẳng. Linh mục Du Halde mô tả biểu
can thấy ở Thiên văn đài Bắc Kinh hồi thế kỷ 17 như sau:
«Ở thiên văn đài
Bắc Kinh có một cột đồng hình trụ cao 8 thước 3 tấc, dựng trên một mặt
bàn đồng dài 18 thước, rộng 2 thước, dày 1 tấc. Bàn đó được chia làm 17
thước bắt đầu từ chân cột đồng; mỗi thước chia thành 10 tấc; mỗi tấc
chia thành 10 phân.
«Chung quanh bàn
có một đường soi, rộng và sâu chừng ½ đốt ngón tay. Người ta đổ nước đầy
vào đường soi ấy để đánh thăng bằng và kê bàn cho phẳng. Dụng cụ này xưa
dùng để đo bóng kinh tuyến.
«Nhưng theo đà
thời gian cột đồng này đã bị nghiêng, không còn thẳng góc với mặt bàn
nữa.»
Trong quyển Trung
Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử của Joseph Needham, tập 3, tr.300, ta thấy có
hình chụp biểu can này.
Đọc đoạn này ta
thấy:
- Biểu can làm
bằng đồng.
- Thổ khuê biến
thành mặt bàn có ghi thước tấc.
- Ngoài ra còn có
đường soi để đánh thăng bằng.
Khảo sát lại trắc
ảnh đài ở Dương Thành do Quách Thủ Kính xây năm 1276 và đến đời nhà Minh
được trùng tu lại, ta thấy:
- Biểu can 40
thước được đặt giữa đài. Trên biểu can có một lỗ để cho ánh mặt trời soi
qua.
- Thổ khuê đây là
một thước đá dài xây trên mặt đất gọi là lượng thiên xích.
- Trên mặt đá có
những đường rãnh song song để đựng nước.
Tóm lại biểu can
có thể bằng cây, bằng đồng, bằng gạch; thổ khuê có thể bằng đất nung,
bằng ngọc dài 1th5, hoặc 1th94, hoặc là những bàn bằng đồng, bằng đá có
ghi sẵn thước tấc.
Công dụng của cây
nêu
1. Xem bóng
mặt trời dài ngắn bao nhiêu
Một công dụng
giản dị nhất của cây nêu chính là để xem bóng mặt trời dài ngắn bao
nhiêu để áng chừng là mấy giờ trong ngày. Xưa ở Việt Nam trong các sân
nhà quan, nhà giàu thường dựng cây nêu, để biết giờ mà thổi cơm cho thợ
gặt ăn cho kịp giờ trưa.
2. Cây nêu
cốt là để đo bóng mặt trời để xác định các ngày Đông Chí, Hạ Chí, Xuân
Phân, Thu Phân, v.v.
Theo Đổng Tác
Tân, tác giả bộ Ân đại chi lịch pháp nông nghiệp dữ khí tượng, từ
đời Thương người ta đã biết dùng cây nêu để đo bóng mặt trời.
«
cây nêu
Xuân Thu Tả
Truyện viết: «Năm thứ 5 đời Hi Công (654) mùa xuân, mồng 1, tháng giêng,
ngày Tân Hợi, mặt trời tới cực Nam.Hi Công truyền báo cáo ngày sóc; sau
đó vua lên quan sát đài để xem [bóng nêu] và [các thiên văn gia] ghi [độ
dài của bóng] như thường lệ. Các ngày Đông Chí, Hạ Chí, cũng như các
ngày Xuân, Thu Phân, và các ngày đầu mùa Xuân Hạ (khải) đầu mùa Thu Đông
(bế) đều ghi chú các hiện tượng mây để dự phòng và tiên liệu.»
Trong Thi Kinh ta
cũng thấy đề cập đến công dụng của cây nêu. Xưa người ta dùng cây nêu đo
bóng mặt trời, để định phương hướng. (Xem Thi Kinh- Dung Phong, bài
Đính chi phương trung.)
Lê Quí Đôn, trong
Vân Đài Loại Ngữ, có ghi chú nhiều tài liệu về công dụng của cây nêu ở
Trung Hoa. Thiên Hình Tượng của sách Vân Đài Loại Ngữ viết:
«Sách Thượng
Thư vĩ khảo tinh diệu chép rằng: ‘Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1
th 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 th 3 tấc.’ Sách Dịch Vĩ
nói: ‘Ngày Đông Chí trồng một cây nêu cao 8 thước, đến trưa xem bóng mặt
trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho
biết ngày Hạ Chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông Chí bóng dài 1
trượng 3 thước.»
«Sách Chu Bễ
nói: Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ Chí, bóng mặt trời dài 1 thước 6
tấc; ngày Đông Chí, dài 1 trượng 5 thước 5 tấc.»
3. Đo bóng
mặt trời để xác định ngày Phân, ngày Chí
Xác định được
ngày Phân, ngày Chí bằng cách đo bóng mặt trời, sẽ giúp ta làm được
lịch.Lịch Thụ thời hay Thái Sơ đời Hán Nguyên Đế (148-33 tcn) do Hứa
Hành và Quách Thủ Kính làm đã căn cứ vào bóng mặt trời. Lê Quí Đôn viết:
«Quĩ ảnh (cột đo bóng mặt trời) lấy cọc đánh dấu đo bóng mặt trời là
thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy khí trung
bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ
trời.»
4. Đo bóng
mặt trời để tính chiều cao của mặt trời
Từ thế kỷ 2 trước
công nguyên, người ta đã biết áp dụng đặc tính của hình tam giác vuông
góc và bóng của mặt trời để đo chiều cao của trời và mặt trời.
Chu Lễ viết:
«Quan đại tư đồ dùng biểu can và thổ khuê để định khoảng cách giữa đất
và mặt trời, định chiều dài của bóng mặt trời, và định tâm điểm của trái
đất. Tâm điểm trái đất là nơi mà bóng mặt trời ngày Hạ Chí đo được là 1
thước 5.»
Hoài Nam Tử viết:
«Muốn đo chiều cao của trời (tức là của mặt trời) ta phải cắm một cây
nêu 10 thước và đo bóng cây nêu trong cùng một ngày ở hai nơi cách xa
nhau 1.000 dặm trên cùng một đường kinh tuyến. Nếu cây nêu ở phía Bắc có
bóng là 2 thước, thì cây nêu ở phía Nam có bóng là 1 thước 9. Và cứ mỗi
nghìn dặm về phía Nam bóng cây nêu sẽ giảm đi 1 tấc.
«Ở 20.000 dặm về
phía Nam, cây nêu sẽ không có bóng, và nơi ấy ở ngay dưới mặt trời.
«Như vậy, bắt đầu
với một bóng là 2 thước và một cây nêu 10 thước, ta thấy rằng một thước
bóng mất đi ta sẽ được 5 thước cao của cây nêu. Lấy số 20.000 dặm nhân
với 5, ta được 100.000 dặm, đó là chiều cao của trời (của mặt trời).»
5. Đo bóng
mặt trời để tính độ lệch của vòng Hoàng Đạo
Đo bóng mặt trời
ngày Đông Chí và Hạ Chí còn cho biết độ lệch của vòng Hoàng Đạo.
Độ lệch của vòng
Hoàng Đạo có lẽ đã được biết khoảng thế kỷ 4 trước công nguyên, khi mà
Thạch Thân, Cam Đức bắt đầu tính độ vị của các sao.
Trong Hậu Hán
Thư, Cổ Quì năm 89 đã viết: «Ngày Đông Chí mặt trời cách Bắc Cực 115o;
ngày Hạ Chí cách 67o.» Chia đôi sự sai biệt này ta có (115o
-
67o):2= 24o.
Sau này các nhà
thiên văn học Trung Hoa và các học giả Pháp như Laplace, Gaubil, Cassini
đã nhiều lần khảo sát lại độ lệch của vòng Hoàng Đạo theo sự suy toán
của các thiên văn gia Trung Hoa, và thấy:
- Khoảng năm 1000
độ lệch là 24o54.
- Năm 1 độ lệch
là 23o50.
- Năm 1000 độ
lệch là 23ò42.
- Năm 1900 độ
lệch là 23o27.
Thiên văn học
ngày nay cũng đã nhận chân rằng độ lệch của vòng Hoàng Đạo không cố định
và xê xích đôi chút với thời gian.
6. Đo bóng
cây nêu để định khoảng cách giữa các tỉnh
Nguyên tắc: Chọn
một thành phố làm tâm điểm để tiện việc so sánh. Xưa người ta chọn Dương
Thành cách Lạc Dương 50 dặm về phía Đông Nam, ở vĩ tuyến 34o26.
- Đo các thành
phố trên cùng một đường kinh tuyến.
- Dùng cây nêu
cùng một loại kích thước.
- Định xem hai
thành phố cách nhau một ngàn dặm thì chênh nhau bao nhiêu tấc bóng.
Trương Hành,
Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích cho rằng 1 tấc bóng ăn 1.000 dặm.
Hà Thừa Thiên
toán rằng cứ 3 tấc 56 bóng mới ăn 1.000 dặm. Lưu Trác cũng đồng quan
điểm như vậy.
Nhất Hạnh và Nam
Cung Thuyết toán rằng ngót 4 tấc bóng mới ăn 1.000 dặm.
Dẫu sao thì lịch
sử cũng cho thấy người Trung Hoa xưa thường đo bóng nêu ở khắp các tỉnh,
các miền họ đến.
Năm 445, Hà Thừa
Thiên đo bóng nêu ở Giao Châu (Hà Nội) và cho hay Giao Châu cách Dương
Thành 5.000 dặm.
Năm 349, Quán
Thúy đo bóng nêu ở Chiêm Thành khoảng vĩ tuyến 13o (Tuy Hòa)
hoặc vĩ tuyến giữa 17o05 và 19o35 (khoảng Đồng Hới
- Thanh Hóa).
Trong khoảng
những năm từ 721 đến 725, Nam Cung Thuyết và Nhất Hạnh cũng đo bóng nêu
ở nhiều nơi từ vĩ tuyến 17o4 (gần Đồng Hới) cho đến vĩ tuyến
40o, tại Weichow, gần Vạn Lý Trường Thành, và kết luận:
- 1o
là cách 351 dặm 80 bộ.
- Gần 1 tấc bóng
là 1.000 dặm cách xa.
Vân Đài Loại Ngữ
ghi: «Khi tăng Nhất Hạnh làm lịch Đại Diễn, vua Đường có hạ chiếu cho
quan thái sử phải đo bóng khắp thiên hạ mà lấy chỗ đất giữa làm định số.
Khi họp bàn có nói rằng: Chu Quan (sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng
mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm
trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho bóng chiếu
xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy về phía Nam xứ Đái Nhật Hạ,
xa cách 15.000 thì sai mất 1 thước 5 tấc. Đất cùng với tinh thần tứ du,
lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa
trung. Đĩnh Xuyên quận, đất Dương Thành ngày nay, tức là địa trung đó.
«Trong khoảng năm
Nguyên Gia (424-454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày
tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu;
ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải
Nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông) đo bóng mặt trời ở Giao Châu
(tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ Chí, thì thấy bóng ở
phía Nam cây nêu 3 tấc 3 phân, cùng với sự đo vào năm Nguyên Gia nói
trên giống nhau.»
7. Cây nêu
cũng có thể dùng để xem sao
Cắm một cây nêu
cao, ngồi quay mặt về hướng Nam, ta có thể quan sát và nhận định dễ dàng
những ngôi sao qua kinh tuyến (qua đỉnh đầu).
Tóm lại, biết sử
dụng cây nêu, ta cũng thấy nó hết sức ly kỳ. Sau này, nếu có dịp, ta sẽ
đề cập đến chuyện linh mục Ferdinand Verbiest hồi thế kỷ 17 chỉ nhờ biết
toán trước chiều dài của bóng nêu mà chinh phục được cả triều đình Mãn
Thanh, y như xưa Khổng Minh dùng ba tấc lưỡi khuất phục được quần nho
nước Đông Ngô.
2. CÁC DỤNG CỤ ĐO THỜI GIAN
Đời xưa không có
đồng hồ như ngày nay, nhưng cũng có những dụng cụ để đo thời gian. Ta sẽ
khảo cứu:
a. Nhật quỹ
(cadran solaire; sun-dial): đồng hồ đo bóng mặt trời.
b. Lậu khắc,
lậu hồ (clepsydre; clepsydra, water-clock).
- Lậu
hồ nước (water-clock)
- Lậu
hồ cát (sablier; sand hour glass)
c. Hương
triện (đồng hồ hương: incense clock).
d. Đồng hồ
đèn.
a. Nhật quĩ
Trên nguyên tắc,
nhật quĩ là một vòng tròn, chung quanh có ghi giờ hoặc ghi khắc. Giữa
vòng tròn có một cây trục để lấy bóng mặt trời. Nhật quĩ có thứ để
thẳng, có thứ để nghiêng theo độ dốc của đường xích đạo. Cũng có thứ
nhật quĩ hình chữ nhật.
Nhật quĩ hình chữ nhật
|
|
Hình trên nhật quĩ |
Nhật quĩ đào được ở Lạc Dương |
Năm 1932, người
ta đào được ở Lạc Dương một thứ nhật quĩ để thẳng. Đó là một vòng tròn,
có lỗ ở tâm điểm để cắm cọc lấy bóng. Chung quanh vòng tròn chia thành
100độ tức 100 khắc. Nhưng 32/100 thì để trống; 68/100 còn lại chia thành
68 khắc. Khắc đầu và khắc cuối của nhật quĩ này cho thấy hướng mặt trời
mọc và lặn ngày Hạ Chí.
Trên nhật quĩ này
ta còn thấy những hình tương tự như các mẫu tự T, L, V. Cho đến nay
người ta cũng chưa biết được ý nghĩa của những hình ấy.
Có cái lạ nữa là
những hình T, L, V này còn được thấy khắc trên cái gương đời Hán, cũng
như trên nhiều đồ chơi của người xưa. Nhật quĩ ít nhất là có từ đời Hán.
Sách Tiền Hán Thư
viết: «Các vị bác sĩ họp nhau tại kinh đô, đã định các hướng chính Đông,
chính Tây, sử dụng nhật quĩ cây nêu và lậu khắc. Với những dụng cụ ấy,
họ định phương vị của Nhị thập bát tú, định các ngày hối, sóc, nhị Phân,
nhị Chí, sự vận chuyển của tinh cầu và tuần tiết của mặt trăng.»
b. Lậu khắc
hay lậu hồ
* Nguyên tắc:
Dùng lượng nước chảy nhỏ giọt đều đặn từ bình nọ sang bình kia, sẽ định
được thời khắc.
Trong hồ có để
một cái thẻ có ghi sẵn giờ khắc. Thẻ này sẽ nhô lê (phù tiễn), hoặc tụt
xuống (trầm tiễn) tùy theo lậu hồ có nước chảy vào hay có nước thoát ra.
Trông giờ khắc ghi trên thẻ nơi ngang miệng bình sẽ biết được giờ khắc.
* Phân loại:
Lậu hồ có hai
loại chính:
(1) Một thứ là
những bình có lỗ ở đáy để cho nước thoát ra. Người ta gọi là hạ lậu
(outflow type). Thẻ ghi khắc trong hạ lậu được gọi là trầm tiễn,
vì nó tụt xuống dần với mực nước.
(2) Một thứ là
những bình không có lỗ ở đáy để hứng nước chảy vào. Người ta gọi là
phù lậu (inflow type). Thẻ ghi giờ khắc trong phù lậu sẽ tùy theo
mực nước chảy vào hồ mà nhô lên dần, vì thế gọi là phù tiễn.
«
Hai loại
lậu hồ
Thường thì lậu
khắc kềnh càng, cần phải để ở một nơi cố định, nhưng sau người ta cũng
chế ra những lậu khắc nhỏ dùng thủy ngân (lưu châu) thay nước và có thể
đem theo xe, để xem giờ dọc đường.
Joseph Needham
cho rằng có thể người Trung Hoa đã học cách chế lậu khắc của người
Babylone hoặc Ai Cập, và lậu hồ chỉ có từ đời nhà Thương (1500). Thuyết
này không lấy gì làm đúng. Người Trung Hoa cho rằng lậu hồ đã có từ thời
Hoàng Đế (2616).
Ngoài ra ta còn
thấy có những loại lậu khắc cát. Dùng cát chảy thay nước. Vương Chấn Đạc
cho rằng người Hòa Lan và người Bồ Đào Nha đã cho du nhập những loại lậu
hồ cát này vào Trung Hoa. Trái lại, Lâm Ngữ Đường, dẫn chứng vài đoạn
sách của Tô Đông Pha, đã cho rằng lậu khắc cát đã có từ đời Tống. Dẫu
sao thì đầu đời Minh đã thấy có lậu hồ cát. Những lậu hồ lớn còn ghi
được tất cả những tiết khí quanh năm.
Vân Đài Loại Ngữ
của Lê Quí Đôn ghi chú về lậu hồ như sau:
«Sách Sơ Học Ký
chép rằng: ‘Việc chế tạo ra lậu khắc (dụng cụ đo thời giờ bằng nước nhỏ
giọt) có từ thời Hoàng Đế truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương.’ Theo phép
ấy, sáng sớm tiết Đông Chí, giọt nước chảy đến khấc 45, sau tiết Đông
Chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm 1 khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ Chí,
giọt nước chảy đến khấc 65, sau tiết Hạ Chí, ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm
đi một khấc.
«Dụng cụ dùng
nước có ba tầng ấy, đường kính đều 1 thước, để trên cái thùng hứng nước
(trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng
hứng nước; nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở
dưới, gọi là cái cừ. Trên cái cừ ấy có đặt một hình người tên là Quan
Tư Thần (giữ việc giờ khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm
cái tên. Ấy là phép lậu khắc (xem giờ bằng giọt nước của Ân Quì).
«Lại còn một phép
nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước (gọi là khát ô) hình dáng
như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào
chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được một thưng, trọng lượng hai cân
là một khắc. Ấy là phép lậu khắc của Lý Lan.
«Hà Thừa Thiên
đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân Phân và Thu Phân
sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc. Đến đời Lương, Vũ Đế cho ngày đêm có 100
khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi ngày 8 khắc, thì còn có phần thừa,
nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngày lẫn đêm. Số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì
mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại Đồng thứ 10 (tức 544), lại đổi làm 108
khắc. Tiết Đông Chí giờ ban ngày là 48 khắc, giờ ban đêm là 60 khắc.
Tiết Hạ Chí giờ ban ngày là 70 khắc, giờ ban đêm là 38 khắc. Ngày Xuân
Phân, Thu Phân, giờ ban ngày là 60 khắc, giờ ban đêm là 48 khắc. Còn các
buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép có cả
ngày lẫn đêm là 100 khắc.
«Đời Đường lại
chế ra phép thủy hải phù tiễn (tên nổi trong biển nước), có 4 cái
thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ,
mỗi giờ là 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái tên; 2 cái tên
là một khí; một năm cộng có 2.191.000 phân đều có khắc ở trên cái tên;
có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ chia biết ngày
đêm, chia tiết hậu, ngày Đông Chí, Hạ Chí; mùa hạ ngày dài, mùa đông
ngày ngắn, buổi sớm, buổi tối, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo
bóng của sách Chu Quan, không sai chút nào. Cách thức chế tạo lậu khắc
đời Tống và đời Nguyên không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép
áp dụng cả.»
c. Đồng hồ
hương
(Hương triện)
Tiết Quí Tuyên,
một học giả đời Tống khoảng giữa thế kỷ 12 cho rằng: ngoài lậu hồ và
nhật quĩ, người ta còn có thể dùng hương triện để xem giờ, nhất là ban
đêm.
Hương triện có
thể là hương vòng (nhang vòng). Trên hương vòng có vẽ 5 dấu để định 5
canh. Nếu muốn thức dậy canh nào, người ta có thể buộc một vật nặng nhỏ
vào vòng hương, vào khoảng giờ muốn dậy.
Hương cháy đến đó
sẽ làm rơi vật nặng ấy xuống một cái chậu đồng, gây nên tiếng động, đánh
thức ngày ta dậy. Người ta cũng có thể dùng những hộp hương khắc hình
chữ thọ theo lối chữ Triện. Hương cháy đến đâu sẽ cho biết đêm đã canh
mấy.
d. Đồng hồ
đèn
Gọi là đồng hồ
đèn cũng hơi quá đáng. Nhưng trên nguyên tắc một ngọn đèn để ở một chỗ
kín gió, cháy bằng một loại dầu nhất định cũng có thể dùng để kiểm soát
thời gian, nhất là để xem các nhật quĩ, các lậu hồ có được chính xác hay
không.
Dương Vũ trong
tập Sơn Cư Tân Thoại có đề cập đến những loại đèn này được thắp
trong một ngôi đền. Ông thuật lời một nhà thiên văn học đời Tống tên là
Phạm Thuấn Thần, kể lại rằng một ngọn đèn như vậy mỗi năm tiêu thụ một
số lượng dầu nhất định là 27 hộp dầu.
Joseph Needham
gọi những loại đồng hồ này là lamp clock hay là time
indicating lamp.
Ông còn lưu ý
rằng: Theo Hough thì ở bên Đức khoảng thế kỷ 18 người ta cũng hay dùng
những loại đồng hồ đèn này.
3. ỐNG VỌNG ĐỒNG VÀ TUYỀN KY
a. Ống vọng
đồng
(tube de
visée, sighting tube)
Chắc chắn là ống
vọng đồng đã được dùng từ lâu. Cuối đời Chu và đầu đời Hán, các thiên
văn gia đã dùng ống vọng đồng để quan sát tinh tượng, vì thế mới có
thành ngữ «dĩ quản khuy thiên» 以 管 窺 天.
Hoài Nam Tử (120
tcn) cũng viết: «Có người muốn đo chiều cao sự vật mà chịu không biết
phải làm sao. Họ sẽ mừng nếu ta dạy họ dùng ống vọng đồng và
quản chuẩn (thăng bằng nước).»
Nhìn qua ống vọng
đồng sẽ thấy sao rõ hơn, vì như vậy sẽ bớt được ánh sáng lóe.
Thời cổ xưa người
Hi Lạp cũng hay nhìn xuống giếng nước sâu để xem sao ban ngày. Có lẽ vì
vậy mà Platon đã kể chuyện Thalès de Milet đã ngã xuống giếng khi xem
sao.
Trầm Quát, thế kỷ 11, đã dùng ống vọng đồng để tìm phương vị Bắc Cực và
quan sát các vì sao xoay quanh Bắc Cực.
Trong sách Chu Bễ
Toán Kinh cũng có một đoạn nói về cách dùng ống vọng đồng để đo đường
kính mặt trời.
b. Tuyền ky
(tablette de
constellation circumpolaire; circumpolar constellation template)
Một loại ống đồng
cổ kính nhất đã được đề cập trong Thư Kinh, thiên Thuấn Điển. Thư Kinh
viết: «Vua Thuấn quan sát tuyền ky và ống ngọc hành, để điều chỉnh thất
chính.»
Đó là một đoạn
văn hóc búa làm điên đầu không biết bao nhiêu học giả. Các nhà dịch giả
và bình giải xưa nay đều không biết tuyền ky là gì, và dùng để làm gì,
nên thường dịch tuyền ky là quả cầu quay nạm ngọc (Legge, Couvreur).
Mã Dung, Thái
Ung, Trịnh Huyền giải Tuyền ky là một dụng cụ thiên văn. Phục Thắng cho
rằng đó là một đám sao ở Bắc Cực.
Mãi đến năm 1959,
học giả Henri Michel mới khám phá ra rằng tuyền ky là một dụng cụ để
quan sát sao Bắc Thần, và định vị trí Bắc Cực.
Michel giải tuyền
ky là một miếng ngọc dẹt chung quanh có một số khía. Miếng ngọc này có
thể xoay quanh một cái ống để nhòm. Nếu quay đúng vị trí, các sao Bắc
Đẩu và hàng sao Tả Khu, Thượng Tể, Thượng Phụ, Thượng Thừa, v.v. sẽ lọt
đúng vào chỗ các khía đã làm sẵn của tuyền ky, còn sao Bắc Thần (étoile
polaire) sẽ hiện ra ở gần nơi tâm điểm tuyền ky.
Như vậy tuyền ky
sẽ định được chính Bắc Cực (pôle nord).
Phỏng theo
Michel, ta có thể giải đoạn Thư Kinh ở trên như sau:
1. Tuyền ky là
miếng ngọc hình tròn, dẹt, chung quanh có khíâ Miếng ngọc này có thể
xoay quanh (tuyền) một ống nhòm, tức là ngọc hành.
2. Ngọc hành là
ống nhòm có thể tra vào miếng tuyền ky.
3. Thất chính ở
đây là 7 sao Bắc Đẩu chứ không phải là mặt trời, mặt trăng, và ngũ tinh
như người ta thường giải.
4. Điều chỉnh
được 7 sao Bắc Đẩu cho lọt vào các khía tuyền ky, ta sẽ thấy được Bắc
Thần và Bắc Cực hiện ra ở chính giữa lòng tuyền ky.
Michel cũng giải:
Tuyền ky là một dụng cụ để quan sát các tinh tú. Nó có thể quay được.
Phần quay được gọi là tuyền ky, ta dùng nó để nhìn độ quay. Bắc Cực ở
chính giữa tuyền ky.
Hiểu được đoạn
này ta mới hiểu được tại sao Chu Bễ Toán Kinh lại viết: «Chính Bắc Cực ở
giữa tuyền ky. Chính Bắc là tâm điểm của trời. Bắc Cực ở chính giữa
tuyền ky gọi là Thiên Tâm, vì thế nên gọi là tuyền ky.»
Trên mặt tuyền ky
còn có một đường thẳng đứng. Henri Michel giảng rằng: Nếu điều chỉnh các
sao Bắc Đẩu cho lọt vào các khía rồi, ta dùng tuyền ky để quan sát mặt
trời, thì ngày Đông Chí mặt trời sẽ ở trên đường kinh tuyến định bởi
đường thẳng đứng ấy.
Ống tuyền ky,
ngọc hành sau này biến thành những dụng cụ trang trí như:
- Ngọc bích và
ống đại tông.
- Ngọc bích và
ngọc khuê.
4. HỒN NGHI (Armillaires, Armillaries)
Hồn nghi là một
dụng cụ để xem xét sự vận hành của mặt trời, mặt trăng, và sự
xuất-một (mọc và lặn) của các vì sao. Trung Quốc Sử Lược của
Phan Khoang chép: «Đời vua Hoàng Đế, Dung Thành đã phát minh ra cái máy
Cái Thiên để quan sát tinh tượng. Đến đời Đông Hán có Trương Hành chế ra
hai thứ máy gọi là Hồn thiên nghi, xem biết sự vận hành của mặt
trời, mặt trăng, và sự xuất-một của các ngôi sao, và Địa động nghi
để xem nơi nào có địa chấn. Hai thứ máy ấy rất có giá trị; đời sau nhiều
người bắt chước làm theo.»
Hồn
nghi tân tiến
Hồn
thiên nghi tại Bắc Kinh |
Hồn nghi tại Bắc Kinh
Hồn nghi tại Nam Kinh
Hồn nghi trên núi Tử
Kim Sơn, Nam Kinh
|
Hồn nghi có thể
phân thành ba loại:
a. Xích đạo
hồn nghi
(equatorial
armilliary sphere)
Trên hồn nghi này
chỉ có một vòng xích đạo và vòng kinh tuyến. Người Trung Hoa xưa dùng
loại này.
b. Hoàng
Đạo hồn nghi
(eclytic
armilliary sphere)
Trên hồn nghi này
chỉ có một vòng Hoàng Đạo. Người Hi Lạp xưa ưa dùng loại hồn nghi này.
c. Hồn nghi
tân tiến
Hồn nghi này gồm
đủ các vòng: Hoàng Đạo (écliptique; ecliptic), Xích đạo (équateur;
equator), Nhẫn giới (horizon).
Một hồn nghi tân
tiến đại loại gồm các bộ phận sau đây:
a. Các bộ phận
phía ngoài:
(1) Vòng Thiên
kinh hay Dương kinh (thiên kinh hoàn, dương kinh hoàn: prime
meridian circle).
(2) Vòng Âm vĩ
(âm vĩ hoàn, địa hồn hoàn: horizon circle).
(3) Vòng Xích
đạo ngoài (outer equatorial circle).
b. Các bộ phận
phía giữa:
(1) Tam thần nghi
song hoàn (vòng kinh tuyến mặt trời ngày Đông Chí : solstitial colure
circle).
(2) Vòng Hoàng
Đạo (hoàng đạo hoàn: ecliptic circle).
(3) Vòng Xích đạo
phía trong (inner equator circle)(không thấy).
(4) Hệ thống máy
móc để vận chuyển hồn nghi (diurnal motion gearing connecting with the
power drive).
c. Các bộ phận
phía trong:
(1) Tứ du hoàn
(polar mounted declination ring or hour angle circle).
(2) Vọng đồng
(sighting tube).
(3) Trực củ
(diametral brace).
d. Các bộ phận
khác:
(1) Ngao văn trụ
(concealing the transmission shaft).
(2) Long trụ
(supporting columns in the form of dragon).
(3) Thủy phu,
thủy chuẩn (cross-piece of the base, incorporating water-level).
(4) Nam cực
(south polar pivot).
(5) Bắc cực
(north polar pivot).
Hồn nghi thô sơ
nhất có lẽ có từ thời Thạch Thân, Cam Đức (thế kỷ 4 tcn). Lạc Hà Hoành
và Tiên Vu Vọng Nhân cuối thế kỷ 2 và đầu thế kỷ 1 tcn cũng vẫn còn dùng
những loại hồn nghi cổ ấy.
Năm 52 tcn, Cảnh
Thọ Xương làm cho vòng xích đạo trờ nên cố định.
Dương Hùng (52
tcn- 18 cn) cũng biết làm cầu hồn nghi.
Năm 84 cn, Cổ Quì
gắn thêm vòng Hoàng Đạo vào hồn nghi.
Khoảng năm 125
cn, Trương Hành
gắn thêm vòng nhãn giới và các vòng kinh tuyến (vòng âm vĩ, tam thần, tứ
du, v.v.). Trương Hành mô tả về hồn nghi như sau:
Vòng Xích đạo
chạy quanh hồn nghi và cách Bắc Cực 915/19o.
Vòng Hoàng Đạo
cũng chạy quanh hồn nghi và tạo với vòng Xích đạo 24o.
Như vậy thì ngày
Hạ Chí, vòng Hoàng Đạo cách Bắc Cực khoảng 67o, và ngày Đông
Chí, cách Bắc Cực là 115o.
|
Trương Hành (78-139 cn) |
Nơi vòng Hoàng
Đạo và Xích đạo gặp nhau sẽ cho biết độ cách Bắc Cực của ngày Xuân Phân,
Thu Phân.
Ngày Xuân Phân,
Hoàng Đạo cách Bắc Cực là 94o¼. Ngày Thu Phân, Hoàng Đạo cách
Bắc Cực là 92o¼.
Những độ cách
trên được chấp nhận vì phù hợp với phương pháp đo bóng mặt trời theo
lịch nhà Hạ.
Sau này, Trương
Hành còn dùng sức nước làm cho hồn nghi quay được đều đặn, và còn gắn
các sao vào cầu hồn nghi để mô phỏng bầu trời và tinh tượng. Hồn nghi
của ông quay phù hợp với sự vận chuyển của tinh cầu trên trời.
Tấn Thư- Thiên
văn chí
viết: «Trương Hành làm hồn nghi và cho đặt trong phòng kín. Hồn thiên
nghi, nhờ sức nước chảy, có thể quay. Ông cho đóng cửa lại. Người ở
trong buồng sẽ thông báo cho ngày ở trên nóc thiên quan đài biết rằng
hồn nghi (trong buồng) cho thấy sao nào vừa mọc, sao nào vừa lặn, nhất
nhất đều đúng như hai mảnh tre ghép lại. Thôi Tử Ngọc đã viết trên mộ
của Trương Hành như sau: Số thuật của ngày bao quát trời đất; tài sáng
chế của ngài ngang với tạo hóa. Ngài tài cao, nghệ trổi sánh ngang thần
minh.»
Hồn nghi của Tô Tụng |
Tô Tụng
蘇 頌
(1020-1101)
Tân Nghi Tượng Pháp Yếu
của Tô Tụng |
5. HỒN THIÊN TƯỢNG (globe céleste)
Hồn thiên tượng
là những bầu trời nhân tạo, có gắn đủ tinh tú, và có thể quay theo nhịp
vận chuyển của trời. Đọc Tấn Thư, ta có thể nói được rằng Trương Hành
chẳng những đã chế được hồn nghi mà cũng đã tạo ra những hồn thiên tượng
có thể quay được. Câu chuyện vừa kể trên về sự thí nghiệm của ông đã
chứng tỏ điều đó.
Đời Lương (khoảng
550 cn) đã thấy có những hồn thiên tượng được tàng trữ trong bí phủ.
Tùy Thư - Thiên
văn chí có ghi: «Cuối đời nhà Lương, ở trong bí phủ đã có hồn thiên
tượng. Hồn thiên tượng làm bằng gỗ, tròn như trái cầu, to nhiều sải tay
ôm mới xuể; có thể quay quanh trục Nam Bắc cực.
«Quanh cầu có Nhị
thập bát tú và các tinh tú mà ba nhà thiên văn xưa (Thạch Thân, Cam Đức,
Vu Hàm) đã tìm ra được, có Hoàng Đạo, Xích đạo, Ngân hà, v.v.Khi quả cầu
quay từ Đông sang Tây, các sao qua kinh tuyến (qua đỉnh đầu) buổi sáng
và buổi tối, ứng đúng với độ vị của nó, và các điểm nhị Phân cũng như 24
khí đều có ghi chú, chẳng khác gì trên bầu trời vậy.»
Hồn thiên tượng
khác với hồn nghi, vì hồn nghi thì phải có gắn một ống vọng đồng
(sighting tube) để độ lượng suy toán sự vận chuyển của mặt trời, mặt
trăng, cũng như vị trí và độ số các vì sao.
Theo Nguyên sử,
thì thiên văn đài Trung Hoa thuở Nguyên đã được trang bị lại trong
khoảng những năm từ 1276 đến 1279, và có những dụng cụ sau:
|
Hồn
thiên tượng do F. Verbiest
tạo cho thiên văn đài Bắc Kinh năm 1673 |
1. Linh lung nghi
(Igenious armillary sphere)
2. Giản nghi
(Simplified instrument)
3. Hồn thiên
tượng (Celestial globe)
4. Ngưỡng nghi
(Upward looking instrument)
5. Cao biểu (câu
nêu cao: Lofty gnomon)
6. Lập vận nghi
(Vertical revolving circle)
7. Chứng lý nghi
(Verification instrument)
8. Ảnh phù
(Shadow definer)
9. Khuy kỷ
(Observing table)
10. Nhật nguyệt
thực nghi (Instrument for observation of solar and lunar eclipses)
11. Tinh quĩ
(Star dial)
12. Định thời
nghi (Time determining instrument)
13. Chính phương
nghi (Direction determining table)
14. Hầu cực nghi
(Pole observing instrument)
15. Cửu biểu
huyền (Nine suspended indicator)
16. Chính nghi
(Rectifying instrument)
17. Tòa chính
nghi (Rectifying instrument on a stand)
Năm 1267, Hulagu
Khan gởi dâng cho vua Thiết Mộc Chân (Khubilai Khan) ít nhiều dụng cụ
thiên văn Âu Châu, lại sai Trác Mã Lỗ Đình (Jamal-al-Din) mang sang
Trung Hoa để chỉ cho người Trung Hoa cách sử dụng. Những dụng cụ đó là:
1. Hồn thiên nghi
(armillary sphere)
2. Trắc nghiệm
chu thiên tinh diệu chi khí (instrument for observing and measuring the
rays of the stars of the celestial vault)
3. Đông Hạ Chí
quĩ (solstitial dial)
4. Xuân Thu Phân
quĩ (equinoctial dial)
5. Trắc hoàn hồn
thiên đồ (obiquely set globe with map of the stars)
6. Địa lý chí
(terrestrial globe)
7. Kính trắc tinh
(astrolabe)
***
Năm 1599, linh
mục Ricci đi thăm thiên văn đài Nam Kinh, đã thấy những dụng cụ thiên
văn sau đây:
- Hồn nghi
(armillaire)
- Nhật quĩ
(cadran solaire)
- Những kính trắc
tinh (astrolabes) với những thước chuẩn xích (alidades) và những chiêu
chuẩn (pinnules).
Những hồn nghi
rất lớn, 3 người ôm không xuể, đều làm bằng đồng đúc trông rất đẹp. Ở
thiên văn đài Bắc Kinh cũng có những dụng cụ tương tự.
Từ khi các linh
mục dòng Tên làm giám đốc thiên văn đài Bắc Kinh, các dụng cụ thiên văn
cũ dần dần bị đào thải.
|
Matteo Ricci (Lợi Mã Đậu,1552-1610)
và Từ Quang Khải (Paul Từ, 1562-1633), một tín đồ Thiên Chúa giáo và
là thiên văn gia Trung Hoa |
Năm 1669, linh
mục Ferdinad Verbiest, giám đốc thiên văn đài Bắc Kinh, đã cho cất hết
các dụng cụ thiên văn cũ đi, và trang bị thiên văn đài bằng những dụng
cụ mới. Ngài trang bị như sau:
- Hoàng Đạo kinh
vĩ nghi (simple ecliptic armillary sphere)
- Xích Đạo kinh
vĩ nghi (simple equatorial armillary sphere) đặt trên lưng một con rồng.
- Thiên thể nghi
(large celestial globe) đặt trong một khung tròn ngang có 4 chân.
- Địa bình kinh
nghi (horizon circle for azimuth measurements)
- Địa bình vĩ
nghi (hay Tượng hạn nghi: quadrant)
- Kỷ hạn nghi
(sextant)
- Địa bình kinh
vĩ nghi (quadrant altazimuth)
- Ky hành vũ thần
nghi (elaborate equatorial armillary sphere)
- Hồn tượng
(smaller celestial sphere)
Sau này, linh mục
Bernard Kilian Stumpf (Kỷ Lý An), giám đốc thiên văn đài Bắc Kinh từ
1712 đến 1720, đã đem phá hủy các dụng cụ cũ bằng đồng đúc, để lấy đồng
đúc những dụng cụ mới.
Cái đại bình kinh
vĩ nghi (quadrant altizimuth) của Bernard Kilian Stumpf đúc có lẽ là
bằng đồng của các dụng cụ thời Nguyên và Minh. Mai Cốc Thành
(1633-1721), một toán học gia Trung Hoa, rất bực với linh mục Stumpf về
chuyện này.
Sự phá hủy ấy dẫu
sao cũng rất đáng tiếc.
Cuối cùng, thiết
tưởng cũng nên nhắc đến những hàn thử biểu (airthermometer) và thấp kế
(hygrometer) của linh mục Verbiest hay trắc vũ đài (rain gauge) để đo
lượng nước mưa.
CHÚ THÍCH
Tây Hán Diễn Nghĩa, Thanh Phong
dịch, tr.117-118.
[2]
Thước Trung Hoa thoạt kỳ thủy bằng 100 hạt kê xếp liền, tức là khoảng 22
cm 85. Thước nhà Chu dài 21 cm 25, thước nhà Hán dài 23 cm 41.
[3]
J.B. Du Halde, Description géographique, historique, chronologique,
politique et physique de l’Empire de la Chine et de la Tartarie chinoise,
tập 3, tr.350.
[4]
Văn Hóa, Vân Đài Loại Ngữ, q.1, tr.98.
[5]
Ibid. p.89.
[6]
Ibid. p.83-84.
[7]
Cf. Chu li, trad. Biot, vol. I, p. 200; Needham, Science and
Civilisation in China, Vol.III, p. 286.
[8]
Cf. Hoài Nam Tử, trad. Chatley; J. Needham, Science and
Civilisation in China, Vol.III, p. 225.
[9]
Lê Quí Đôn, Vân Đài Loại Ngữ, tr. 90-91.
[10]
Needham, Science and Civilisation in China, Vol.III, p. 302.
[11]
Lê Quí Đôn, Vân Đài Loại Ngữ, tr. 99-100.
[12]
Hoài Nam Tử, ch.20, tr. 15a.
Joseph Needham, Science
and Civilisation in China, Vol.III, p. 332.
[13]
Theaet., 174 A.
[14]
Joseph Needham, Science and Civilisation in China, Vol.III, p.
332.
[15]
Henri Michel, Méthodes astronomiques des hautes époques chinoises,
p. 10-13; và Joseph Needham, Science and Civilisation in China,
Vol.III, p. 332-339.
[16]
Chu Bễ Toán Kinh, q. hạ, tr. 3.
[17]
Phan Khoang, Trung Quốc Sử Lược, tr. 157.
[18]
Trương Hành cũng đồng thời với Ptolémée; quyển Almagest của
Ptolémée hoàn thành vào khoảng 144 cn.
[19]
Cf. Hậu Hán Thư, lời bình. Needham, Science and Civilisation
in China, Vol.III, p. 355.
[20]
Tấn Thư - Thiên văn chí, q. 2, tr.3b.
[21]
Needham, Science and Civilisation in China, Vol.III, p. 384.
[22]
Tùy Thư - Thiên văn chí, chương 19, tr. 17. Needham, Science
and Civilisation in China, Vol.III, p. 384.
[23]
Needham, Science and Civilisation in China, Vol.III, p. 369-370.
[24]
Needham, Science and Civilisation in China, Vol.III, p. 373-374.
[25]
Needham, Science and Civilisation in China, Vol.III, p. 451-452.
[26]
Needham, Science and Civilisation
in
China, Vol.III, p. 380-452.
» [mụclục]
[phi lộ] [chương
1] [chương 2]
[chương 3] [chương
4] [chương 5]
[chương 6] [chương
7] [chương 8]
|