TƯỢNG NGÔN PHÁ NGHI
NGỘ
NGUYÊN LÃO NHÂN
trước
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch
»
MỤC LỤC »
Quyển Thượng
| Quyển Hạ |
Phá nghi thi
|
Huyền tẫn chân khiếu thuyết
|
Tu
chân yếu quyết
QUYỂN THƯỢNG
THÊ VÂN SƠN, NGỘ
NGUYÊN LÃO NHÂN TRƯỚC
棲 雲 山 悟 元 老 人 著
MÔN NHÂN NGỤY
DƯƠNG THÀNH KHAN TỬ
門 人 魏 陽 誠 刊 梓
HẬU HỌC LƯU BỐC
VÂN TRÙNG KHAN
後 學 劉 卜 人 重 刊
Tu chân chi đạo,
sách xưa thường nói tới đạo Vô Vi, mà ít nói tới Đạo Hữu Vi. Vả Đạo Vô
Vi thì chỉ có những bậc thượng trí mới đốn ngộ viên thông nó được. Biết
một thông trăm lập tức bước lên thánh vức. Còn những hạng Trung Hạ, thì
Tính Chất Ngu Độn, căn trần nặng nề, kiến thức hẹp hòi, nếu theo đạo Vô
Vi thì lực lượng không bắt kịp, nên ắt không thể vạn duyên câu không,
trực đăng bỉ ngạn. Ngụy Bá Dương tiên ông đời Hậu Hán chuẩn theo Kinh
Dịch mà soạn ra bộ Tham Đồng Khế, dẫn dắt những người bậc Trung, bậc Hạ,
lấy Hữu Tượng thí dụ vô tượng, lấy hữu hình dụ vô hình, nên bắt đầu mới
có danh từ Kim Đơn, Duyên Hống, Sa Ngân, Ô Thố, Long Hổ, Anh Xá, Dược
Vật, Lô Đỉnh, Phanh Luyện. v.v... Phép Pháp Tượng bắt đầu từ đó, và
thành ra như một Đạo. Các vị Chân Nhân đều lấy Tham Đồng Khế làm tổ kinh
mà soạn ra Đơn Kinh, bàn rõ Diệu Lý. Ý các Ngài dạy cho Hậu Học thấy cái
này suy ra cái kia, mượn cái này chứng cái nọ.
Nếu học giả không
tìm hiểu ý của ngụ ngôn, không biết lý của phép thủ tượng, thấy nói Kim
Đơn, Duyên Hống, Lô Đỉnh thì nghĩ ngay đến ăn uống (phục thực) và cứ lo
về Lô Hỏa; thấy nói Ô Thố, Long Hổ thì nghĩ là Tạng Phủ, và chuyên lo
Tồn Tưởng; thấy nó Nhà Người, Nhà Ta, Nam Nữ, thì tưởng là Khuê Đơn
(chuyện phòng the) nên lo Thái Thủ; thấy nói Nghịch Thuận Điên Đảo thì
nghĩ là Cưỡng Tác, và nghĩ đến Vận Chuyển; thấy nói Tu Tính Vô Vi chi
thuyết, thì nghĩ ngay đến Tịch Diệt và chủ trương Ngoan Không; thấy nói
Tu Mệnh là Hữu Vi chi thuyết thì nghĩ là Bãi Lộng, và lo Chấp Tướng
v.v... Tất cả đều là thấy hươu tưởng ngựa, thấy chim tưởng loan, không
những vô ích cho Tính Mệnh, mà còn làm hại Tính Mệnh nữa. Đó đâu phải ý
của tổ sư khi lập ra phép Thủ Tượng Dụ Ngôn đâu?
Tượng là Tượng
Hình. Nói vật này mà tượng là vật khác, nói vật kia mà tượng vật này.
Ví dụ lấy chuyện
mắt thấy nhãn tiền, mọi người đều hay biết mà luận, ví dụ như nấu nướng
đồ ăn, thì cái Nồi là Đỉnh, Bếp là Lò. Trong nồi chứa nước, dưới bếp đốt
lửa. Lửa bốc lên, nước chảy xuống. Để cho nước trong nồi ở trên, để cho
lửa dưới bếp ở dưới. Thế là Thủy Hỏa điên đảo, hai bên tương tế, nhờ vậy
mà đồ ăn mới chín. Phàm thủy phàm hỏa giúp nhau là như vậy. Ở nơi con
người cương tính thì khô táo và động. Cho nên động thời thuộc Hỏa.Nhu
Tính thời hoãn và Tĩnh. Tĩnh thuộc thủy. Dùng Nhu để dưỡng Cương, dùng
Cương để đến với Nhu. Cương Nhu tương đáng không táo không hoãn, trở về
trung chính, đại đạo dễ thành. Đó là cái lý của Thần Thủy Thần Hỏa tương
tế. Lấy cái tượng của Phàm Thủy Phàm Hỏa tương tế mà ví dụ cái Lý của
Thần Thủy Thần Hỏa tương tế, làm cho cái Lý ấy trở thành hiển nhiên vậy.
Lại như một người
vốn có gia tài sản nghiệp phong phú, mà không biết an phận lại phá tán
hết gia tài. Rồi hốt nhiên tự tri hối quá, khổ tâm lao lực trùng vụ sinh
hoạt, dần dần tích tụ được tài vật, từ ít đến nhiều, cuối cùng tất phục
hồi lại được gia nghiệp, thế là Hoàn Nguyên Phản bản được gia sản cũ.
Con người vốn có
Tinh Thần, Linh Khí viên mãn, đầy đủ; khi giao vào Hậu Thiên, thuận
chiều Tạo Hóa, phí Tinh, lao Thần, Nguyên Khí suy bại, Nguyên bản tiêu
hao cho đến hết, nếu biết cải đầu hoán diện, trừng phẫn, trật dục, nhàn
tà tồn thành, tiệm thứ dụng công, cuối cùng sẽ qui căn phục mệnh. Đó là
Lý của Hoàn Nguyên Phản bản. Dùng cái tượng của Hoàn Nguyên Phản Bản, để
ví dụ cái Lý của Hoàn Nguyên phản bản, làm cho cái Lý trở nên Hiển Nhiên
vậy.
Lại như thế gian
nam nữ tương phối, đôi bên hợp nhất, nên mới sinh con, sinh cháu. Thế là
cái tượng Sinh Sinh của nhân loại, dùng để ví dụ cái Lý Sinh Sinh của
Đơn Đạo, làm cho cái Lý trở nên hiển nhiên vậy.
Đơn Kinh chuyên
dùng Tượng để ví dụ Lý, dạy người từ Tượng mà suy ra cái lý của sự việc,
chứ không dạy người đi ngược với Chân Lý, rồi cứ bám vào tượng mà hoạt
động, làm cho mọi người không chịu tìm cho ra nghĩa lý, chỉ nhận biết có
tượng. Buồn thay!
Đơn kinh dùng
Tượng thật nhiều. Học giả nên từ Tượng tìm cho ra nghĩa lý, mà được
tượng thì phải quên lời, hiểy ý thì phải quên tượng, như vậy mới được.
.Thuận
nghịch thuyết
Người thế gian
chỉ biết Thuận hành mà không biết Nghịch Vận. Thế nào là Thuận? Thuận là
thuận theo Tạo Hóa. Thế nào là Nghịch? Nghịch là đi ngược Tạo Hóa.
Tạo hóa là sinh
nhân, sinh vật, sinh lão bệnh tử, luân hồi không ngừng, Nghịch Tạo Hóa
là thành Tiên, thành Phật, bất sinh bất diệt, thọ cùng Trời Đất,
Con người từ khi
thành thai sinh thân về sau, hai tám số đủ, giao vào Hậu Thiên, trong
thì Thất tình Lục dục làm mê cái Chân, ngoài thì Vạn Duyên Vạn Sự làm
mệt cái Hình, nhận Giả làm Chân, lấy Tà làm Chính, coi Khổ làm Sướng,
thuận theo sở dục, không gì không làm, đem Tinh, Khí, Thần tam bảo bản
lai của mình, tiêu hao cho hết. Làm cho Chân Tính viên minh của mình bị
lu mờ đi. Đến khi khí nơi yết hầu bị đứt đoạn, mà cũng không biết ngừng
nghỉ, cho nên bị Sinh Sinh, Tử Tử vạn kiếp trầm luân, cho nên nói Diêm
La không gọi mà mình tự đến nộp mạng. Còn những bậc Đại Trí Tuệ, thì
nghịch vận Tạo Hóa, không để cho tạo hóa câu thúc, không để cho Âm Dương
hun đúc, không để cho vạn vật khiên dẫn, không dễ cho vạn duyên khiên
di, trong lửa trồng sen, trong bùn chèo thuyền, mượn thế pháp để tu đạo
pháp, y nhân đạo để toàn Thiên Đạo, đem vạn kiếp căn trần vứt bỏ
đi, quét sạch mọi khách khí, mệnh do ta làm chủ không do Trời, trở lại
bộ mặt Càn Nguyên xưa của ta, thoát Luân Hồi siêu xuất Tam Giới, trở
thành Kim Cương bất hoại chi vật.
Vả trong chiều
Thuận của Tạo Hóa mà vẫn vận dụng được Chiều Nghịch, có khẩu truyền tâm
thụ hẳn hoi, thì ắt phải có Chân Sư điểm hóa, không thể tự nhiên mà
biết. Học giả thế gian tự phụ vào ánh sáng đom đóm của mình, lại nhìn
qua ống quản, chỉ biết vài thoại đầu, nhớ vài Công Án, mà đã cho mình là
Biết Đạo, không chịu hỏi han ai, chỉ dùng mấy lời loạn đàm nơi cửa mồm,
như người mù dẫn bọn mù, thật là tội lỗi.
Lại như một kẻ hồ
đồ, không nhận được Chân Sư, sáng nói Vương chiều nói Lý. Học với hạng
Tiều Thừa, mà cho mình là có Đạo, dù có người hay trước mắt cũng không
chịu hạ mình cầu học, làm bậy làm bạ. Hoặc coi Tâm Khí hạ giáng, Thận
Khí thượng thăng là Nghịch Hành, hoặc vận khí Hậu Thăng Tiền Giáng làm
Nghịch Hành, hoặc coi Hoàn Tinh Bổ Não làm Nghịch Hành, hoặc coi Bế Khí
Định Thần làm Nghịch Hành, hoặc Thái Âm bổ Dương làm Nghịch Hành, hoặc
đàn bà nằm trên, đàn ông nằm dưới là Nghịch Hành, cứ như thế, trăm đường
nghìn nẻo đều là đi Nghịch Thánh Đạo, không phài là Thuận Nghịch Tạo
Hóa, không phải là Chí Sinh chi Đạo. Có biết đâu rằng Nghịch là trở về
với Phụ Mẫu Sinh Thân chi sơ, như người bỏ nhà đi xa, nay lại trở về
nhà. Tuy nói là Nghịch Hành nhưng kỳ thật là đi theo đúng lý (thuận lý
nhi hành), đó chính là Nghịch trung chi Đại Thuận. Chỉ vì nó đi ngược
với đường lối của thế nhân, nên gọi là Nghịch vậy. Bàng môn tả đạo, vì
hiểu lầm chữ Nghịch, nên bày vẽ ra trăm nghìn công tác cho cái thân xác
thịt này, để rồi ra đọa lạc vào không vong, Thật là ngu si vậy.
.Dược
Vật Thuyết
Đơn kinh Tử thư nói tới Thái Dược để phanh luyện Kim Đơn đều là Tiên
Thiên Vô Hình Vô Chất chi chân, không phải là Thế Gian Hữu Hình Hữu Chất
chi dược, cũng không phải là vật gì hữu hình hữu chất trong thân thể con
người.
Bởi vì từ sau khi con người sinh ra, đã Nhận Giả và đã Thất Chân, đem
viên ngọc quí mình vốn có thủa ban đầu, tiêu hao cho đến hết. Trong con
nghì chỉ còn toàn Âm chất và Tà Khí, như người mắc bệnh, chỉ còn chờ
chết, nếu không có Linh Dược Chân Chính, thì làm sao biến Âm thành
Dương, làm sao bảo toàn được Tính Mệnh? Chân Chính Linh Dược
真 正 靈 藥
là gì? Đó là Tiên Thiên Nhất Khí
先 天一 氣
vậy. Là Tiên Thiên Tinh Khí Thần Tam Bảo
先 天 精 氣 神 三 寶
vậy, Tiên Thiên Chân Nhất chi khí
先 天真 一 之 氣
còn gọi là Chân Chủng Tử
真 種 子.
Cái Khí này không rơi vào Sắc Tượng, nó là Chí Vô nhưng hàm Chí hữu,
Chí Hư nhưng hàm Chí Thực, nó là Chân Không Diệu Hữu
真 空 妙 有.
Nó thống nhiếp Tinh Khí Thần Tam Bảo. Tam Bảo này cũng không phải là Hữu
Hình Chi Vật. Nó là Vô Hình Chi Chân
無 形 之 真.
Ngọc Thiềm
Ông viết: Cái Tinh này không phải là Giao Cảm Tinh, mà là nước rải của
Ngọc Hoàng, cái Khí này không phải là cái Khí Hô Hấp, mà là cái khói của
Thái Tố, cái Thần này không phải cái
Thần Tư Lự, nhưng nó sánh được với Nguyên Thủy. Tuy chia thành Ba Nhà
nhưng vẫn qui lại là một Tiên Thiên Nhất Khí, Tam gia hợp nhi
thành Nhất Khí, Nhất Khí Phân nhi thành Tam Gia. Hái thuốc chính là hái
cái Nhất Khí Tam Bảo đó. Dùng Chân Hỏa Đoàn Luyện nó sẽ thành Đơn, nó sẽ
điểm hóa cho tất cả Âm Khí trong ta biến thành Thuần Dương. Thanh Tịnh
không dính bụi bặm trần ai. Như người có bệnh dùng thuốc trị liệu cho
thành người thường. Gọi là Dược Vật, là dùng phép Tượng Hình.
Hậu thế học giả thấy đơn kinh nói về Dược Vật, lầm tưởng là cái gì Hữu
Hình Hữu Chất chi vật 有 形 有 質之 物, nên đi vào núi hái dược thảo, phối hợp
mà dùng mơ tưởng sẽ được trường sinh, hoặc lấy Ngũ Kim Bát Thạch luyện
thành Đơn Dược mà dùng, mơ tưởng sẽ bay bổng lên Trời. Có biết đâu rằng
Thuốc hữu hình chỉ chữa được những bệnh hữu hình, không thể chữa những
bệnh vô hình. Muốn chũa những bệnh vô hình nếu không lấy được Tiên Thiên
Chân Nhất chi khí thì không có thuật nào khác vậy. Tham Đồng Khế
viết: Đồng
loại dị thi công hề, phi chủng nan vi xảo
同 類 易 施 工 兮 非 種
難 為 巧.
Ngộ Chân Thiên viết:
Trúc phá tu
tương trúc bổ nghi,
竹 破須 將 竹 補 宜
Bão kê
đương dụng noãn vi chi.
抱 雞當 用 卵 為 之
Vạn ban phi
loại đồ lao lực,
萬 般非 類 徒 勞 力
Tranh tự
Chân Diên hợp thánh ky.
爭 似真 鉛 合 聖 機
Phải có Chân
Duyên mới hành nghề.
Chân Diên chính
là Tiên Thiên Chân Nhất chi khí. Đọc đoạn này xong, mới thấy tưởng phàm
dược là tiên dược thật là sai lầm vậy.
.Hỏa
Hầu thuyết
Đơn Kinh Tử Thư
đều nói đến Hỏa Hầu, để ví dụ Công Phu vàThứ Tự Chuẩn Tắc tu trì. Vì
Công Phu Tu Trì có trước có sau, có nhanh có chậm, có tiến, có thoái.
Đáng đi trước mà lại đi sau, đáng đi sau mà lại đi trước, đáng nhanh lại
chậm; đáng chậm lại nhanh; đáng tiến, lại thoái, đáng thoái lại tiến;
lại như lửa trong lò, có Văn Hỏa, có Vũ Hỏa, có lúc phải ngừng. Cho nên
cái thứ tự trong việc Tu Chân, nói theo Tượng thì là Hỏa Hầu. Vả dụng
công Hỏa Hầu, không kể năm tháng, ngày giờ. Khắc khắc hành nó, đáng
trước thì trước, đáng sau thì sau, đáng nhanh thì nhanh, đáng chậm thì
chậm, đáng tiến thì tiến, đáng thoái thì thoái, tùy thời biến thông, tóc
tơ không nhầm. Đáng trước thì trước nghĩa làtrước hết phải nghiêm bên
trong; đáng sau nghĩa là phải đề phòng bên ngoài; đáng nhanh là phải
nhanh khi dụng công; đáng chậm là chậm khi ôn dưỡng; đáng tiến là khi
Dương chưa đủ thì phải tiến; đáng thoái là khi Âm vừa sinh thì phải
thoái Âm. Đó là Thực Lý về Hỏa Hầu. Chứ không phải là như Công gia
nói:Tí thời tiến Dương Hỏa, Ngọ thời thoái Âm Phù, Mão Dậu nhị thời nghi
Mộc Dục; cũng không phải là Đông Chí tiến Dương Hỏa, Hạ Chí thoái Âm
Phù; Xuân Phân Thu Phân thời Mộc Dục. Vả Trời có Tí Ngọ Mão Dậu; Người
có Tí Ngọ Mão Dậu, chứ đâu phải Tí Ngọ Mão Dậu của Trời là Tí Ngọ Mão
Dậu của người.
Trong con người lúc nào cũng có Tí Ngọ Mão Dậu. Cổ Kinh nói: «Bất tất
Thiên biên tầm Tí Ngọ, Thân trung tự hữu nhất Dương sinh»
不 必 天 邊 尋 子 午,
身 中 自 有 一 陽 生.
Vả coi Dương sinh là Tí, coi Âm sinh là Ngọ, Dương với Âm
hợp nhau là Mão, Âm với Dương hợp nhau là Dậu, nên gọi là Hoạt Tí, Ngọ,
Mão, Dậu vậy. Đâu phài là Tí Ngọ Mão Dậu chết trên khung Trời đâu? Sách
Kim Đơn Tứ Bách Tự viết: «Hỏa Hầu không có thời, Đông Chí không
tại Tí, cũng như nói Mộc Dục là Mão Dậu chỉ là cách so sánh mà thôi.»
Ngộ Chân Thiên nói:
Tổng thức Chu
Sa dữ Hắc Diên,
總 識朱 砂 與 黑 鉛
Bất tri Hỏa
Hậu dã như nhàn,
不 知火 候 也 如 閑
Đại đô toàn tạ
tu trì lực,
大 都全 藉 修 持 力
Hào phát sai
thù bất kết đơn.
毫 髮差 殊 不 結 丹
»
MỤC LỤC »
Quyển Thượng
| Quyển Hạ |
Phá nghi thi
|
Huyền tẫn chân khiếu thuyết
|
Tu
chân yếu quyết
|