PHẦN I - KHẢO LUẬN
»
mục lục
| chương
1
2 3
4 5
6
CHƯƠNG 1
Những
khái niệm cơ bản của đạo Lão
Xưa nay rất nhiều người
thường cho rằng các đạo giáo và triết thuyết Á Đông hết sức là mơ hồ,
huyền ảo. Khảo về các học thuyết Á Đông nhiều người cảm thấy như mình
lạc vào một mê đồ trận, hay vào một khu rừng rậm giữa đêm tăm, không còn
biết đầu đuôi phương hướng ra sao. Ấy chính là vì họ không có những khái
niệm cơ bản chỉ nam. Cho nên muốn khảo sát các đạo giáo Á Đông nói
chung, đạo Lão và Huỳnh Đình kinh nói riêng, chúng ta phải nắm vững ít
nhiều tư tưởng then chốt của Tam giáo Đông phương.
1.
Đầu tiên có nhất thể
Trước hết các đạo giáo Đông
phương đều xác tín rằng có một thực thể tuyệt đối, một bản thể duy nhất
uyên nguyên, vô hình vô ảnh, nhưng lại linh động biến hóa không cùng.
Bản thể ấy đã sinh xuất ra vũ trụ hiện tượng hữu hình, hữu tướng này. Đó
là thuyết thiên địa vạn vật nhất thể 天 地 萬 物 一 體.
2.
Nhất thể biến vạn thể
Bản thể duy nhất vô sinh, vô
diệt, vô thuỷ, vô chung ấy là căn nguyên sinh xuất ra vũ trụ hữu hình,
hữu sinh, hữu diệt, hữu thuỷ, hữu chung này. Nó mang muôn vàn danh hiệu.
Dưới đây chỉ đan cử ít nhiều danh hiêu để rọi sáng vào ít nhiều tính
cách của bản thể uyên nguyên ấy.
3.
Danh hiệu của nhất thể
Bản thể ấy trước hết được
gọi là Nhất 一 vì cũng như số một sinh ra mọi con số khác, bản thể duy
nhất ấy cũng sinh ra mọi hiện tượng, mọi sinh linh.
Bản thể ấy cũng còn được gọi
là Trung 中 vì nó lồng trong mọi hiện tượng, mọi sinh linh, để làm chân
tâm, làm khu nữu, làm cốt lõi, nâng đỡ giữ gìn vạn sự, vạn loài.
Trung này vừa vô định tại,
vô phương sở, vì bao trùm vũ trụ, vì là bản thể vũ trụ; vừa hữu định
tại, hữu phương sở, vì nằm sâu trong lòng muôn loài muôn vật, từ tinh
tú, nhật nguyệt đến vi tử, vi trần.
Phật giáo gọi bản thể ấy là:
- Tâm địa 心 地, vì sinh xuất
muôn loài.
- Bồ đề 菩 提, vì đó là sở đắc
của chư Phật.
- Pháp giới 法 界, vì dung
nhiếp vạn tượng.
- Niết bàn 涅 槃, vì tịch
nhiên thường lạc.
- Bất lậu 不 漏, vì không tì ố
bợn nhơ.
- Chân như 真 如, vì vô vọng
bất biến.
- Phật tính 佛 性, vì siêu
xuất thị phi.
- Viên giác 圓 覺, vì phá sạch
quần mê.
- Như lai 如 來, vì hàm nhiếp
vạn linh.
- Mật nghiêm quốc 密 嚴 國, vì
siêu việt huyền bí.
- Bản lai diện mục 本 來 面 目,
vì là bộ mặt thật của con người từ muôn thủa.[1]
- Kim cương 金 剛, vì là bản
thể bất diệt, trường sinh, vĩnh cửu nơi con ngườ i.[2]
Lão giáo gọi bản thể đó là:
- Tạo hóa chi nguyên 造 化 之
元, vì là căn cơ sinh hóa.
- Tiên thiên chủ nhân 先 天 主
人, vì sẽ tạo dựng ra đất trời vạn hữu.
- Vạn tượng chủ tể 萬 象 主 宰,
vì sinh xuất mọi hiện tuợng.
- Huyền tẫn chi môn 玄 牝 之 門,
vì bao quát âm dương (huyền 玄: dương; tẫn 牝: âm).
- Tổ khiếu 祖 竅, vì là nơi
xuất phát muôn loài.
- Cốc thần 谷 神, vì ở sẵn
ngay trong đầu não con người.
- Chân nhất xứ 真 一 處, vì bản
thể ấy duy nhất.
- Trung hoàng cung 中 黃 宮,
Mậu kỷ môn 戊 己 門, Chân thổ 真 土, Huỳnh đình 黃 庭, Qui trung 歸 中, v.v. vì
là tâm điểm của vạn hữu.
- Ngưng kết chi sở 凝 結 之 所,
vì có đắc nhất thì công cuộc luyện đơn mới thành.
- Qui căn khiếu 歸 根 竅, Phục
mệnh quan 復 命 關, vì đó là cùng đích muôn loài.
- Huyền quan khiếu 玄 關 竅, vì
là cửa sinh xuất vạn loài. (...)
Thực không sao kể xiết. Quí
vị độc giả nào muốn thâu lượm thêm các danh từ về bản thể mà đạo Lão
thường dùng, xin đọc Tính Mệnh Khuê Chỉ 性 命 圭 旨 nơi các hình: Phổ
chiếu đồ 普 照 圖 (quyển Nguyên, tr. 7b), Tâm trung đồ 心 中 圖 (quyển Nguyên,
tr. 10b), Thái dược qui hồ đồ 採 藥 歸 壺 圖 (quyển Lợi, tr.1b), Kiền khôn
giao cấu đồ 乾 坤 交 媾 圖 (quyển Lợi, tr. 8a), An thần tổ khiếu 安 神 祖 竅
(quyển Hanh, tr. 9a).
Khổng giáo gọi bản thể đó
là: Vô cực 無 極, Thái cực 太 極, Nhất 一, Trung 中; và Dịch kinh 易 經 cũng
triển khai mấy quan niệm đó.
Nhất thể ấy, khi thì được
đạo Lão coi là vô ngã 無 我, và được hài danh bằng những danh từ như: Đạo
道, Hư vô 虛 無, Hư 虛, Vô 無, Vô cực 無 極, Đơn 丹, Tiên thiên nhất khí 先 天 一
氣, Thái hòa nguyên khí 太 和 元 氣, Hạo nhiên chi khí 浩 然 之 氣. Lão Tử và
Trang Tử theo chủ trương này. Đó cũng chính là chủ trương của Phật, của
các đại hiền triết Hy Lạp cổ thời như Pythagore, Héraclite, Parménide,
Platon, Anaximandre, v.v.[3]
Đó là quan niệm Nhất nguyên vô ngã 一 元 無 我 theo danh từ triết học ngày
nay.
Cũng nhất thể ấy, khi thì
được đạo Lão coi như là hữu ngã 有 我, và được gọi là Thái Thượng Lão Quân
太 上 老 君, Nguyên Thuỷ Thiên Tôn 原 始 天 尊, Ngọc Hoàng Thượng Đế 玉 皇 上 帝. Đó
là quan niệm Nhất nguyên hữu ngã 一 元 有 我, tương đương với quan niệm Đại
Nhật Như Lai 大 日 如 來 trong Phật giáo, và Thượng Đế 上 帝 trong các đạo
giáo.
Đạo Lão có khi còn dung
thông hai quan niệm nói trên làm một và gọi bản thể vũ trụ là Tiên Thiên
Nhất Khí Thái Thượng Lão Quân 先 天 一 氣 太 上 老 君.[4]
4.
Tâm điểm và vòng tròn (nhất thể và vạn thù)
Quan niệm Thiên địa vạn vật
nhất thể, nhất thể biến vạn thù, vạn thù qui nhất thể còn được kinh Dịch
và các Đạo gia thuở xưa biểu hiệu, tượng trưng bằng Tâm điểm và Vòng
tròn.
Tâm điểm tượng trưng cho bản
thể, căn nguyên, gốc gác, cùng đích của muôn loài.
Vòng tròn bên ngoài tượng
trưng cho hiện tượng, cho luân lưu biến hoá. Trong Huỳnh Đình nội cảnh
do Tử Hà Hàm Hư Tử chú có một câu hết sức ý vị:
«Nhất thần chính vị nhi
trung lập,
一 神 正 位 而 中 立
Vạn thần triều củng nhi hoàn
trần.»
萬 神 朝 拱 而 環 陳
(Một thần chính vị nơi
trung điểm,
Vạn thần chầu chực thành
vòng quanh.)
Thể và dụng của Huỳnh Đình
nằm trong hai câu đó.[5]
5.
Nhất thể vạn thù ở hai thế đối đỉnh
Từ hình vẽ tâm điểm và vòng
tròn ta dễ dàng suy diễn được rằng vũ trụ này gồm có hai phần:
- Một thế giới của Bản Thể,
của thực thể, lý tưởng, siêu việt, thế giới của chân thiện mỹ, vĩnh cửu
trường tồn. Đó là thế giới khinh thanh, bao la, tiềm ẩn và đồng đẳng, vô
phân biệt. Đó là Chân như môn 真 如 門 theo danh từ Phật giáo, là Vô vi 無
為, là Diệu 妙 theo danh từ Lão giáo, là Thể 體 theo danh từ Nho giáo.
- Một thế giới của hiện
tượng, của giác quan, của thiên nhiên, của những gì phù du, biến ảo,
những gì trọng trọc, chất chưởng, hữu hạn, những gì bị chi phối bởi sự
duyên. Ở nơi con người nó bao quát tất cả tâm tư, trí não, giác quan,
hình hài, tóm lại là tất cả những gì là vọng tâm 妄 心, vọng ngã 妄 我, là
tứ đại giả hợp 四 大 假 合 theo từ ngữ Phật giáo. Đó là Sinh diệt môn 生 滅 門
theo Phật giáo, là Hữu vi 有 為 hay Khiếu 竅 theo Lão giáo, là Dụng 用 theo
Nho giáo.
Phàm nhân thì sống phù
phiếm, lênh đênh chìm nổi trên cái thế giới hiện tượng ấy, chỉ biết
những gì là sắc tướng, chỉ thích những gì là phù hoa, chỉ mê những gì là
hào nhoáng bên ngoài, lạc lõng trong muôn vàn sai biệt, bị ngoại cảnh
chi phối, thất tình lục dục đẩy đưa, từ ngữ và tư tưởng ám nhãn, manh
tâm; thu hẹp con người vô hạn của mình vào trong gông cùm không gian và
thời gian, hình hài sắc tướng hữu hạn.
Thánh nhân trái lại, đi
xuyên qua được bức màn hiện tượng ấy để vào thế giới chân tâm, vô biên
vĩnh cửu, thế giới bản thể vĩnh cửu trường tồn, xuyên qua được tâm thức
để vào tới cõi hư vô chân thể, đồng đẳng với Thái hư.
Chính vì thế mà Tham Đồng
Khế 參 同 契 có câu: «Chân nhân tiềm thâm uyên, phù du thủ qui trung.»
真 人 潛 深 淵 , 浮 游 守 歸 中.[6]
Tạm dịch:
Chân
nhân sống rất thâm trầm,
Nhởn nhơ
khinh khoát ôm cầm khuông thiêng.
Tính Mệnh Khuê Chỉ có
câu: «Ly chủng chủng biên, doãn chấp quyết trung.» 離 種 種 邊 允 執 厥 中.[7]
Tạm dịch:
Lìa xa
hết mọi vòng ngoài,
Trung
tâm giữ vững, chẳng rời tấc gang.
6.
Nhất thể vạn thù với hai chiều thuận nghịch
Tâm điểm và vòng tròn còn
giúp ta nhìn thấy được hai chiều thuận nghịch biến hoá của trời đất và
của con người.
Ở nơi trời đất, thì chiều từ
Bản thể ra Hiện tượng là chiều từ tâm ra biên, từ nhất sinh vạn, là
chiều thuận, là chiều sinh hoá ra vạn hữu. Đó là chiều đi ra, chiều ly
tâm, và đồng thời cũng có thể gọi là chiều đi xuống, chiều thoái hoá, từ
khinh thanh xuống dần, ra dần tới trọng trọc, từ phác giản xuống dần, ra
dần tới tần phiền.
Ở nơi con người thì chiều
thuận chính là chiều ly tâm, là chiều phóng ngoại, hướng ngoại, từ Thần
ra tới tâm tư, ý thức, hình hài, ngoại cảnh.
Theo Tính Mệnh Khuê Chỉ,
chiều thuận nơi con người được phác hoạ như sau: Tính 性
➔ Tâm 心 ➔ Ý 意
➔ Tình 情 ➔
Vọng 妄 (Mê vọng 迷 妄).[8]
Ở nơi trời đất thì chiều từ
hiện tượng biến hoá trở ngược mãi về bản thể, chiều từ biên trở về tâm
điểm, từ vạn qui hoàn về nhất, là chiều nghịch, là chiều thăng hoa, sinh
thánh sinh thần. Đó là chiều đi vào, chiều hướng tâm, đồng thời cũng
được gọi là chiều đi lên, chiều tiến hoá, từ trọng trọc trở lại dần tới
khinh thanh, từ tần phiền trở ngược về phác giản.
Ở nơi con người thì chiều
nghịch đó chính là chiều hướng tâm, chiều hồi hướng, hướng nội, từ hình
hài quay trở về với thiên tính, với thần linh, với Đạo tâm, Chân tâm nội
tại.
Theo Tính Mệnh Khuê Chỉ,
chiều nghịch nơi con người được phác hoạ như sau: Vọng 妄 (Mê vọng 迷 妄)
➔ Tình 情 ➔ Ý 意
➔ Tâm 心 ➔ Tính
性.[9]
Chiều nghịch này mới là quan
trọng. Đạo Đức Kinh viết: «Phù vật vân vân, các qui kỳ căn, qui căn viết
tĩnh, tĩnh viết phục mệnh, phục mệnh viết thường.» 夫 物 芸 芸, 各 歸 其 根, 歸 根
曰 靜, 靜 曰 復 命, 復 命 曰 常 (chương 16). Tạm dịch:
Muôn
loài sinh hoá đa đoan,
Rồi ra
cũng phải qui hoàn bản nguyên.
Hoàn bản
nhiên, an nhiên phục mệnh,
Phục
mệnh rồi, trường vĩnh vô cùng.
Ở nơi vòng Dịch, thì chiều
thuận là chiều Quan nguyệt quật 觀 月 窟 theo từ ngữ của Thiệu Khang Tiết 邵
康 節, từ quẻ Cấu 姤 đến quẻ Khôn 坤. Còn chiều thuận là chiều Kiến thiên
căn 見 天 根 theo từ ngữ của Thiệu Khang Tiết, từ quẻ Phục 复 đến quẻ Kiền 乾
rồi vào trung cung Thái cực, «Hoàng trung thông lý, chính vị cư thể» 黃 中
通 理 正 位 居 體. Dịch chủ trương chiều nghịch mới là chiều quan trọng, và
thánh hiền xưa đã định nghĩa Dịch là Nghịch số.[10]
7.
Con đường trở về nhất thể phải là con đường qui tâm hướng nội
Hiểu được hai chiều biến hoá
ngược xuôi ấy ta thấy ngay:
– Đi ra ngoại cảnh là đi ra
Đời bất kể ngoại cảnh ấy là đền đài, miếu mạo, thần phật chi chi đi nữa.
– Đi vào nội tâm mới là đi
vào Đạo.
Có như vậy ta mới hiểu lời
lẽ sau của Tính Mệnh Khuê Chỉ: «Muốn thoát luân hồi, phải thể hợp
với Chí đạo. Muốn thể hợp với Chí đạo, tất phải quán chiếu bản tâm. Muốn
quán chiếu bản tâm, tất phải nhắm mắt hồi quang nhìn vào hư không, đem
ánh sáng tuệ quang chiếu diệu vào nơi thất tình lục dục chưa nhen nhúm,
nơi mà bản thể chưa bị bát thức làm ô nhiễm. Ngoài thì tuyệt hết chư
duyên, trong thì tuyệt hết chư vọng, hợp nhãn quang, ngưng nhĩ vận, điều
tị tức, khoá thiệt khí, tứ chi bất động, để cho ngũ thức của tai, mắt,
mũi, lưỡi, thân quay trở về gốc gác. Như vậy tinh, thần, hồn, phách, ý
sẽ an vị. Suốt cả 12 giờ trong ngày, mắt luôn luôn nội quan quán chiếu
nhìn vào khiếu ấy, tai trở ngược lại lắng nghe khiếu ấy, đầu lưỡi thường
phong bế khí ấy, vận dụng thi vị,niệm niệm không rời khỏi khiếu ấy.»
[11]
Khiếu ấy chính là bản thể thần linh của con người, là bản thể tuyệt đối
mà chúng ta đã đề cập trong suốt chương này.
Thái Thượng nói: «Ta từ vô
lượng kiếp đã quan tâm đắc đạo, và tới được hư vô.»[12]
Hiểu được bản thể là hiểu được căn nguyên và cùng đích của vũ trụ và con
người. Hiểu được hai chiều thuận nghịch nói trên là hiểu được lẽ biến
dịch tuần hoàn của vũ trụ và vạn hữu và của con người.
8.
Chung qui: Hiểu chữ Nhất là hiểu được tinh hoa đạo giáo Á Đông nói
chung, Lão giáo nói riêng
Dù đứng trên lập trường hữu
ngã hay vô ngã mà nhìn vào Nhất thể, dù gọi Nhất thể đó là Khí, Thể,
Thần, Lão, hay Thiên, khái niệm cơ bản vẫn là: Nhất thể đó linh minh,
huyền diệu, có khả năng sinh xuất biến hoá ra vạn sự, vạn hình.
– Nhất thể đó có thể biến
thành tam thể, vạn thể.
– Nhất khí đó có thể biến
thành tam khí, vạn khí.
– Nhất thần đó có thể biến
thành tam thần, vạn thần.
– Nhất lão đó có thể biến
thành tam lão, vạn lão.
– Nhất thiên đó có thể biến
thành tam thiên, vạn thiên.
Thế tức là hiểu lẽ Một sẽ
hiểu được căn cơ gốc gác của muôn loài muôn vật, và có thể đi đến một
kết luận hết sức triết học và khoa học sau đây: Thiên địa, nhân vật nhất
tính, đồng thể.[13]
Suy ngược lại ta có:
– Nếu nhất thần hoá chúng
thần thì chúng thần qui nhất thần; nhất khí hoá vạn khí thì vạn khí qui
nhất khí.
– Nếu con người có chúng
thần thì cũng có nguyên thần, nhất thần.
– Nếu trong người có vạn
khí, ngũ khí, tam khí, thì ắt cũng có chân nguyên nhất khí hay nguyên
khí.
Vì hiểu lẽ Một nên người đạo
sĩ: Chọn cái tinh hoa, bỏ cái bác tạp. Chọn cái giản dị, bỏ cái tần
phiền. Chọn cái chân tâm, bỏ cái thất tình lục dục, tứ đại, tam thi, âm
dương đối đãi.
Vì hiểu lẽ Một, người đạo sĩ
biết rằng mình là Tiên thiên Nhất Khí hoá thân, nghĩa là đồng thể với
Tối Thượng thần trong trời đất.
Vì hiểu lẽ Một nên hiểu rằng
mình và chân thần trong mình và chân thần trời đất là một. Mình đây
chẳng qua là hoá thân của chân thần đó mà mình chẳng hay.
Hoạ sĩ Wyzowa đã viết năm
1893: «Cái mà ta gọi là thực tại, chẳng qua chỉ là hình ảnh của bản thể
thầm kín nơi ta, phóng phát ra hư cảnh bên ngoài mà thôi.»
[14]
Tính Mệnh Khuê Chỉ
viết: «Vì thế nói thánh nhân tẩy rửa tâm hồn, trở về náu ẩn trong nơi
thầm kín. Trong đó vốn đã có bản thể uyên nguyên cùng với thái hư hỗn
thành nhất khối. Vì thế nói: Thánh nhân đồng thể với thái hư.»
[15]
Lão giáo vì thế mà chủ
trương Thủ trung bão nhất 守 中 抱 一, Khổng giáo vì thế mà chủ trương Ngô
đạo nhất dĩ quán chi 吾 道 一 以 貫 之. Tính Mệnh Khuê Chỉ chép: «Xưa
Hoàng Đế lên núi Nga Mi gặp thiên chân Hoàng Nhân ở Ngọc Đường và hỏi về
cái đạo Chân Nhất. Hoàng Nhân đáp: Đó là điều quí trọng nhất của Đạo
gia. Kinh của đạo này, Thượng Đế giấu trong năm thành của núi Côn Lôn,
cất trong hòm ngọc, viết vào thẻ vàng, phong bằng bùn tía, đóng ấn bằng
chữ Trung. Nhất đó ở Thái uyên Bắc cực, trước có Minh đường sau có Ngọc
chẩm, trên là Hoa cái, dưới là Giáng cung.»
[16]
Với những lời lẽ mơ hồ đó, ta thấy Hoàng Nhân muốn nói như sau:
Muốn tìm Trời, tìm Chân đạo, tìm Nhất, tìm Trung,
phải tìm nơi trung điểm đầu não con người.
Trước đó vài dòng, Tính
Mệnh Khuê Chỉ đã khéo léo đề cập Nê hoàn cung và trích dẫn lời kinh
Huỳnh Đình:
Nê hoàn cửu chân giai hữu
phòng, 泥 丸 九 真 皆 有 房
Phương viên nhất thốn xứ thử
trung. 方 圓 一 寸 處 此 中
Đồng phục tử y, phi la
thường,
同 服 紫 衣 飛 羅 裳
Đãn tư nhất bộ thọ vô cùng.
但 思 一 部 壽 無 窮
Viết đến đây tôi liên tưởng
đến lời chú của Phật giáo Tây Tạng: Um Mani Padme Hum (Ôi ngọc châu viên
giác nằm tại liên hoa tâm). Liên hoa tâm, theo lời bình giải của các đạo
sư Tây Tạng, chính là trung tâm đầu não con người.
Mở đầu chương bằng bản thể
uyên nguyên của vũ trụ và của con người, kế đến bàn hai chữ Trung và
Nhất, cuối cùng kết thúc bằng chữ Nhất, và đem chữ Nhất ấy vào trung tâm
đầu não con người, vào nê hoàn cung nơi mà từ vô lượng kiếp đức Thái
Thượng đã dạy đạo cho chúng ta, đúng như lời kinh Huỳnh Đình nơi chương
7: «Thị tích Thái Thượng cáo ngã dã.» 是 昔 太 上 告 我 也 (Ấy chính là nơi mà
xưa kia đức Thái Thượng đã dạy ta), thiết tưởng tôi cũng đã phát quang
được gai góc và để lộ ra con đường Đại đạo.
CHÚ THÍCH
Doãn chân nhân
尹
真
人,
Tính Mệnh Khuê Chỉ
性
命
圭
旨,
quyển Hanh
亨,
tr. 2b.
»
mục lục
| chương
1
2 3
4 5
6
|