PHẦN I - KHẢO LUẬN
»
mục lục
| chương
1 2
3 4
5
6
CHƯƠNG 6
Ít nhiều nhận định về kinh Huỳnh Đình
A. Người xưa nhận định về kinh Huỳnh Đình
- Huỳnh Đình và Đạo Đức kinh
bổ túc lẫn nhau.
- Huỳnh Đình dạy về sở cư
của thần Chân Nhất.
B. Những nhận định của riêng tôi về kinh Huỳnh
Đình
1. Huỳnh Đình có nhiều bản
văn khác nhau.
2. Huỳnh Đình là một kinh
khó hiểu.
3. Huỳnh Đình chủ trương
Tính mệnh song tu.
4. Những khám phá của Huỳnh
Đình về các xoang não.
5. Huỳnh Đình kinh coi con
người là toàn thể vũ trụ.
6. Đọc Huỳnh Đình và các
kinh đạo Lão cần thấu triệt chủ trương:
Nhất thể biến vạn thù, vạn
thù qui nhất thể
7. Huỳnh Đình kinh dạy phép
quán tưởng thần linh, tồn thần linh, hô thần linh, cầu thần linh
8. Huỳnh Đình dạy cầu thần
khi đau ốm.
9. Huỳnh Đình là Thái Cực là
Cốc Thần ở Nê Hoàn cung.
10. Huỳnh Đình kinh bàn
nhiều về ngũ tạng và đởm.
|
A.
Người xưa nhận định về kinh Huỳnh Đình
Trước khi trình bày nhận
định riêng tư của tôi về Huỳnh Đình, tôi thu nhập ít nhiều nhận định của
người xưa về Huỳnh Đình.
Sách Đạo Học từ điển
道 學 辭 典 xếp hạng các kinh đạo Lão như sau:
– Đại Đỗng Ngọc Kinh
大 洞 玉 經 dạy siêu phàm nhập thánh.
– Xướng Đạo Chân Ngôn
唱 道 真 言 dạy luyện tâm.
– Tham Đồng Khế 參 同
契, Ngộ Chân Thiên 悟 真 篇, Thanh Hoa 青 華 và Huỳnh Đình
kinh 黃 庭 經 dạy phép tu mệnh. (Mà tu mệnh, liễu mệnh như đạo Lão
thường hiểu, bao quát tất cả những phương thuật, giúp con người khỏe
mạnh tăng thêm tuổi thọ.)
– Tam Hoàng Nội Văn 三
皇 內文 cốt để độ người.
[1]
Huỳnh Đình kinh của Tử Hà
nơi phần phụ lục cuối sách nhận định: Huỳnh Đình thường bàn về hữu vi
(Khiếu). Đạo Đức kinh thường bàn về vô vi (Diệu).
[2]
Tuy nhiên cả hai quyển Huỳnh
Đình của Tử Hà và của Vụ Thành Tử ở nhiều trang khác chủ trương rằng
Huỳnh Đình thực ra giúp cho con người có được một lối sống toàn diện,
viên mãn.
Huỳnh Đình kinh chẳng những
dạy điều hòa ngũ tạng lục phủ 調 和 五 臟 六 腑, lại còn khiến cho hồn sướng 魂
暢, phách an 魄 安.[3]
Chẳng những làm cho con người đẹp ra, trẻ lại, lại còn có thể giúp con
người nhìn thấy quỉ thần. Tóm lại giúp ta: Toàn vẹn được hình hài, tập
hợp chư thần, giúp cho ta có khí chính 氣 正, tâm thanh 心 清.[4]
Nhưng thực ra, Huỳnh Đình
còn dạy con người một điều rất vi diệu, đó là chỉ cho con người biết đâu
là tòa ngôi của Thần Chân Nhất 真 一 神, dạy con người biết đường, biết
phép qui hướng về Nhất. Vì đây là điều cao quí nhất của Huỳnh Đình, bí
ẩn nhất của Huỳnh Đình, nên tôi muốn sao lục lại các đoạn kinh văn, hoặc
bình giải, hoặc phụ chú, để làm nổi bật lên Chí Đạo 至 道.
Trong bài tựa Huỳnh Đình
kinh của Vụ Thành Tử có lời rất lạ lùng sau: «Bạn có tướng tiên, gặp
được sách này của ta. Trong sách này đã mô tả sở cư của chư thần trong
thân hình con người và nơi cư ngụ của thai thần 胎 神.»
Vụ Thành Tử giải: «Chư thần
trong con người kể làm sao xiết. Nhưng thấy được nơi cư ngụ của chư
thần, cũng là cùng đạt được điều bí mật vậy. Thai thần 胎 神 tức là Minh
đường Tam lão 明 堂 三 老. Cũng gọi là Thai linh đại thần 胎 靈 大 神. Đó chính
là căn bản của Huỳnh Đình vậy.»
[5]
Rồi đọc Ngoại Cảnh thấy đây
đó có những lời chú giải rời rạc. Nhưng nếu đem lắp tất cả lại sẽ được
một sự chỉ dẫn hết sức là mạch lạc về Chân Nhất Thần 真 一 神.
Câu trên cho ta ba yếu tố:
– Minh đường tức là khoảng
giữa hai làn mi, nơi trán.
– Thai thần là Minh đường
Tam Lão, tức là Thần ngự nơi Minh Đường.
– Huỳnh Đình chi bổn, đó là
gốc gác, căn cơ, đó là điều căn bản chính yếu của Huỳnh Đình.
Nơi quyển Ngoại Cảnh, khi
bình giải câu: «Tâm hiểu căn cơ, dưỡng hoa thái.» 心 曉 根 基 養 華 采 (chương
14), Lương Khưu Tử giải: «Căn cơ chỉ người biết giữ được nhất; Dưỡng hoa
thái nói về mặt mũi sáng láng, người có quang hoa.»
[6]
Nơi chương 1 của Huỳnh Đình
Ngoại Cảnh Lương Khưu Tử chú, ta thấy bàn về họ tên và sắc phục cùng nơi
sở cư của Nhất.
Nhất hay là Xích Tử hay là
Chân Nhân, tên là Tử Đan, ở Minh Đường.
Huỳnh Đình ở trong đầu gồm
ba cung Minh Đường, Đông Phòng, Đan Điền. Ba nơi đó đều gọi là Thượng
Nguyên. Đó là Nhất vậy ... Cho nên người biết Nhất, là biết Nhất ở tại
Minh Đường vậy.[7]
Nơi cuối kinh Huỳnh Đình
Ngoại Cảnh, Lương Khưu tử dành cả một trang để bàn về Nhất. Lại dùng tài
liệu của Cát Hồng Bão Phác Tử mà cho biết tính, tử, phục sắc của Nhất.
Phục sắc của Nhất được ghi là Xích y (Áo đỏ).
[8]
Thứ đến ông bàn về bí quyết
Thủ Nhất 守 一 của Trang Tử và Bão Phác Tử. Trang Tử thì nói: «Ngã thủ kỳ
nhất, nhi xử kỳ Hòa.» 我 守 其 一 而 處 其 和. Bão Phác tử thì nói: «Nhân năng
thủ Nhất vạn sự tất.» 人 能 知一 萬 事 畢. Tiên Kinh thì nói: «Tử dục trường
sinh, thủ Nhất đương minh... Thủ Nhất tồn chân, nãi năng thông Thần,
v.v.» 子 欲 長 生 守 一 當 明 ... 守 一 , 存 真 乃 通 神.
Cuối cùng viện dẫn lời Cao
Tử 高 子 mà cho rằng: «Muốn thu thập toàn bộ tinh thần, chỉ có một nơi duy
nhất. Đó là tĩnh tọa đem toàn bộ tinh thần về nơi giữa hai làn mi.»
[9]
Và lập luận của Nội Cảnh và
Ngoại Cảnh chung qui vẫn là: Muốn trường sinh phải Đắc Nhất 得 一,[10]
bè bạn với Nhất.[11]
Nghiên cứu hai chữ Tử Đan 子
丹,[12]
ta thấy:
– Tử 子 là liễu Nhất 了 一.
– Đan 丹 là Âm Dương hợp nhất
陰 陽 合 一, Thần Khí hợp nhất 神 氣 合 一.
Thần Tử Đan ngự nơi Tâm, mà
Tâm màu đỏ nên nói mặc xích y 赤 衣. Nhưng theo kinh Dịch, thì Tâm 心 (Nê
Hoàn 泥 丸, Minh Đường 明 堂) cũng là Trung điểm, nên cũng có màu vàng, vì
thế đôi khi thấy nói: Thần Tử Đan mặc hoàng thường 黃 裳 (váy vàng), hay
thần Tử Đan cho ăn cỗ màu vàng.[13]
Có vậy ta mới hiểu được
những lời lẽ bí ẩn nơi chương 17 và chương 35. Chương 17 viết:
Linh đài uất ái vọng Hoàng
dã,
靈 臺 鬱 藹 望 黃 野
Tam thốn dị thất hữu thượng
hạ.
三 寸 異 室 有 上 下
Gian quan doanh vệ cao huyền
thụ,
間 關 營 衛 高 玄 受
Động phòng tử cực linh môn
hộ,
洞 房 紫 極 靈 門 戶
Thị tích Thái Thượng cáo ngã
giả.
是 昔 太 上 告 我 者
Tả thần công tử phát thần
ngữ,
左 神 公 子 發 神 語
Hữu hữu Bạch Nguyên tính lập
xứ.
右 有 白 元 併 立 處
Linh đường, Kim quĩ, Ngọc
phòng gian.
明 堂 金 匱 玉 房 間
Thượng Thanh chân nhân đương
ngô tiền,
上 清 真 人 當 吾 前
Hoàng thường Tử Đan, khí tần
phiền
黃 裳 子 丹 氣 頻 煩
Tá vấn hà tại lưỡng mi đoan.
借 問 何 在 兩 眉 端
Nội hiệp nhật nguyệt liệt tú
trần
內 俠 日 月 列 宿 陳
Thất diệu Cửu nguyên quán
Sinh môn...
七 曜 九 元 冠 生 門
Tạm dịch:
Linh đài
chơi vơi vọng Huỳnh dã,
Nê Hoàn
cung thất phân thượng hạ.
Doanh vệ
u huyền oai phong giữ,
Động
phòng, Tử cực có cửa linh,
Nơi xưa
Thái Thượng dạy ta đó.
Tả thần
công tử phát thần ngữ,
Hữu thần
Bạch Nguyên cùng đứng chỗ.
Minh
đường, Kim quĩ, Động phòng gian,
Thượng
Thanh chân nhân tại mục tiền,
Hoàng
thường Tử Đan, khí cương kiên
Dám hỏi
đầu này sao đứng đó
Trong
gồm nhật nguyệt với tinh quang,
Thất
diệu, Cửu nguyên chiếu Sinh môn...
Nơi chương 35, ta thấy viết:
Đạm nhiên vô vị Thiên nhân
lương,
淡 然 無 味 天 人 糧
Tử Đan tiến soạn, hào chính
hoàng.
子 丹 進 饌 肴 正 黃
Tạm dịch:
Lượng
của trời, người nhạt vô vị,
Tử Đan
mời ăn, cỗ màu vàng...
Tất cả đều cho thấy: Muốn
tìm Chân Nhất, phải tìm nơi lưỡng mi gian. Vào sâu ba tấc thấu Nê
Hoàn...
Trong sách Huyền
Diệu Cảnh 玄 妙 景 của Ly Trần Tử 離 塵 子 Lý Xương Nhân 李 昌 仁 (q.
trung, tr.47) có hình vẽ Diện bích đồ 面 壁 圖 và thấy vẽ một hình người
nơi giữa trán điểm một vòng với hai chữ Nê Hoàn 泥 丸.
Trong quyển Tính
Mệnh Pháp Quyết Minh Chỉ 性 命 法 訣 明 指 của
Triệu Tị Trần 趙 避 塵, đầu trang 27 có hình vẽ: giữa hai làn mi định là Tổ
Khiếu 祖 竅. Nơi hình Phổ chiếu đồ 普 照 圖 trong Tính Mệnh Khuê Chỉ 性 命 圭 旨
(q. Nguyên, tr.7b), ta thấy giữa trán có một vòng lớn bao quát cả hai
chữ Tính Mệnh 性 命. Trên có bài thơ:
Tam tuế chi
khiếu, 三 歲 之竅
Khiếu trung hữu
diệu. 竅 中 有妙
Diệu khiếu tề
quan, 妙 竅 齊觀
Thị vị phổ
chiếu: 是 謂 普照
Tạm dịch:
Ba tuổi
ấy khiếu,
Trong
khiếu có Diệu,
Diệu
khiếu thấy đều,
Thế là
phổ chiếu...
Trong quyển Tu Thiền Định
của Pháp sư Giác Nhiên nơi trang 58 viết: «Tập trung tư tưởng: Tư tưởng
con người là một luồng điện mạnh nhứt, làm việc gì mà được thành công
đều do tập trung tư tưởng lại (gọi là gom thần, trụ tâm), không cho thần
lực tán loạn; cũng chẳng hay dòm ngó, nói làm thường thường gom kết tư
tưởng lại, an tâm trụ thần ngay giữa chính giữa hai chơn mày (gọi là mắt
giữa) chỗ ấn đường hay minh đường là Cửa sáng... vì ở nơi đây có cục
hạch mà người Nhật gọi là Tổng Thủy Truyền, là nơi phát sinh trí huệ...»
[14]
Tất cả những luận cứ trên,
cho thấy rằng người xưa chẳng những cho rằng Huỳnh Đình dạy Tính mệnh
song tu, nhưng thực ra cũng dạy cho ta phương pháp Liễu Nhất, Đắc Nhất.
Và xin kết thúc nhận định của người xưa về Huỳnh Đình bằng câu: «Tử dục
đắc Nhất vấn lưỡng đồng.» 子 欲 得 一 問 兩 瞳 (Nếu Bạn muốn được Nhất, hỏi
đồng tử mắt.)[15]
Và bằng lời của Vụ Thành Tử:
«Kinh này lấy Vô vi làm chủ, nên dùng hai chữ Huỳnh Đình làm tiêu đề.»
[16]
B.
Những nhận định của riêng tôi về Huỳnh Đình
1. Vấn đề
dị bản của Huỳnh Đình kinh
Huỳnh Đình kinh vì truyền từ
lâu đời, nên mỗi bản mỗi khác. Trong bài Huỳnh Đình dẫn 黃 庭 引, Tử Hà
cũng đã viết:
«Trên
trời bay xuống hai nguyên quân,
Đan Hà,
Thanh Hà đều Thiên quân,
Truyền
cho Nam Nhạc, Tử Hư nói:
Cõi thế
Huỳnh đình nhiều văn sái.
Tiên sư
trên trời xuống nhân gian,
Bản kín truyền cho phải
chép lại.»
[17]
Riêng hai bản Huỳnh Đình Nội
Cảnh mà tôi có (một của Tử Hà chú, một của Vụ Thành Tử chú) so ra cũng
thấy có nhiều chữ khác nhau. Thành thử mỗi khi gặp chữ khác nhau, tôi
ghi chú lời kinh của cả hai bản để đối chiếu.
2. Huỳnh Đình kinh viết rất khó hiểu.
Khó hiểu vì từ ngữ khó hiểu,
văn mạch khó hiểu, ý tứ khó hiểu. Nên nhiều khi phải dựa vào lời bình
mới tìm ra được manh mối ý nghĩa. Những phải cái, cũng một câu, mà lời
bình mỗi sách lại một khác, có khi lại mâu thuẫn nhau, thế thì còn biết
làm sao mà tìm cho ra chính ý.
Đối với người có căn cơ cao,
thì sự khó hiểu đó sẽ thúc đẩy suy tư và tìm hiểu, nhân đó hiểu thêm mãi
ra. Còn người có căn cơ thấp, đọc không hiểu, hay hiểu sai hiểu quấy,
thành thử nhiều khi ích không thấy lại thấy hại, hoặc ít là không thấy
được hứng thú khi đọc kinh này...
Tôi thiết nghĩa rằng muốn
hiểu rõ kinh này, phải có hai loại chìa khóa:
– Một loại chìa thông
thường, là làm sao hiểu được hai chữ Tính Mệnh của Đạo lão, nhân đó hiểu
được nhẽ Tính Mệnh song tu, có vậy sẽ hiểu Huỳnh Đình.
– Một loại chìa khóa đặc
biệt là làm sao hiểu được tầm quan trọng của Nê Hoàn cung, nơi sở cư của
Thượng thần trời đất trong con người.
Chính vì vậy mà nơi đây tôi
sẽ cố trao lại cho độc giả hai loại chìa khóa ấy.
3. Thế nào là Tính Mệnh và Tính Mệnh song tu?
Tử Hà chân nhân khi giải
Huỳnh Đình Nội Cảnh, thường thiên về tu Tính 修 性, nên thường lấy vô vi,
lấy các từ ngữ luyện đan mà giải Huỳnh Đình, nên làm cho Huỳnh Đình càng
thêm khó hiểu.
Trái lại, Vụ Thành Tử khi
giải Huỳnh Đình thì lại bao quát cả hai phương diện Tính Mệnh song tu 性
命 雙 修, nên khi cần giải thấp, thì giải thấp, khi cần giải cao thì giải
cao, từ hữu vi đến vô vi, từ hữu tướng đến vô tướng, không có gì là
vướng mắc.
Tôi cũng theo đường lối của
Vụ Thành Tử, và nhờ đó, bình giải Huỳnh Đình, dựa trên một căn bản vững
chãi, và cũng hiểu rõ thêm được lẽ Tính Mệnh song tu của đạo Lão.
Nhiều đạo giáo, nhiều nhà tu
hành cho rằng tu thân là tu tâm, luyện tính, nên khinh khi thân xác, coi
xác thân thù địch, hành hạ xác thân đánh đập xác thân, nhiều khi ở dơ,
ăn dơ, và cho đó là tinh tiến... Chính vì thế mà có nhiều thánh nhân các
đạo giáo khác có khi đau ốm bệnh hoạn suốt đời.
Đạo Lão tuyệt đối không có
chủ trương ấy. Trái lại chủ trương phải giữ gìn xác thân cho thanh
khiết, mạnh khỏe, tập luyện cho khí lực dồi dào, cố thủ kiên trì cho
tinh huyết được đầy đủ, cốt là làm sao cho mình sống lâu, sống vui, sống
khỏe. Tất cả những cái đó gọi là tu Mệnh 修 命. Rồi ra mới luyện Thần, tập
trung tinh thần, vô vi, định tĩnh. Tất cả những cái đó gọi là tu Tính 修
性.
Cái gì thuộc về Tiên thiên,
vô vi thì gọi là Tính 性. Cái gì thuộc về Hậu thiên, hữu vi, hữu tướng
thì gọi là Mệnh 命. Nơi con người, thì Thần là Tiên thiên, là Tính. Còn
hồn xác khí phách, đều là Hậu thiên, là Mệnh.
Sách Đạo Học
từ điển (tr. 139) cũng viết: «Tính là Tiên thiên, bất sinh bất
diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm... Hồn là Hậu thiên, hữu sinh
hữu diệt, hữu cấu hữu tịnh, hữu tăng hữu giảm...»
[18]
Tính là Thần, là cái gì hết
sức khinh thanh, nên dĩ nhiên là phải ở nơi cao nhất trong người, chính
vì thế mà đạo Lão cho rằng Tính căn 性 根 ở đỉnh đầu, ở Nê Hoàn, ở Càn
đỉnh 乾 鼎.
Mệnh thuộc phần hình hài nên
dĩ nhiên là phải ở chỗ chứa thấp trong người. Chính vì thế mà đạo Lão
cho rằng Mệnh 命 蒂 ở nơi xoang bụng phía sau rốn. Đó là Khôn lô 坤 爐 .
Giữa hai cực Càn Khôn đó là
phần khí lưu chuyển tuần hoàn. Ta trình bày lại con người, theo đường
hướng trên, bằng đồ bản sau:
TÍNH
性 |
Thần
神 |
Thái Cực
太 極 |
Tiên
thiên nhất khí 先 天 一 氣 |
Chân
真, vô vi 無 為, vô dục 無 欲, bất sinh 不 生, bất tử 不 死. |
MỆNH |
hồn phách
魂 魄 |
Âm dương
陰 陽
|
Khí 氣
(khí hô hấp và khí tiềm tàng trong châu thân) |
Vọng
妄, hữu vi 有 為, hữu tướng 有 相, sinh diệt 生 滅, sinh tử luân hồi 生 死 輪
回 |
命 |
Lục phủ ngũ tạng
六 腑 五
臟 |
Ngũ hành
五 行 |
Tinh
hoa ngũ cốc 五 谷, ngũ vị 五 味 |
|
Nhìn vào bản đồ này, ta sẽ
thấy ngay rằng các phương pháp dưỡng sinh như ẩm thực, phương dược, án
ma, đạo dẫn, các phương pháp yết tân dịch, thổ nạp, v.v. hoặc vận khí
điều tức, đều thuộc phần hình khí, có thể làm cho con người sống lâu
thêm ít nhiều kỷ, mạnh khỏe, tươi trẻ, linh sảng, chứ không thể làm cho
con người đắc Nhất, đắc Đạo được.
Thế mới gọi là liễu Mệnh 了
命, và công phu tu luyện mới được có nửa phần, còn nửa phần nữa chính là
liễu Tính 了 性, chính là ngưng thần nhập định, kết hợp với Thái Hư Vô
Cực, trở nên đồng nhất cùng Bản thể huyền linh của vũ trụ, an nghỉ trong
Thượng đế (tức là Hưu hồ Thiên quân 休 乎 天 鈞 theo lời Trang Tử trong Nam
Hoa kinh, chương Tề vật luận). Đó là một điều hoàn toàn khác biệt với
các công phu tu luyện để điều hòa, di dưỡng xác thân nói trên, mặc dầu
hai đàng có liên lạc mật thiết với nhau.
Tu Tính mới thực sự là phép
luyện tiên đan tối thượng của Lão giáo. Nó tương ứng với Chánh pháp nhãn
tàng 正 法 眼 藏 của Phật giáo, với vi chỉ của khoa Huyền học các đạo giáo
Âu châu: Sống kết hợp với Thượng Đế. Cho nên tu mệnh là siêu phàm, còn
tu tính mới là nhập thánh.
Chính vì vậy mà người xưa
cho rằng cần phải phân biệt thấp cao. Nuốt tân dịch, thổ nạp, hô hấp bất
quá là cho thân xác khỏe mạnh, chứ làm sao mà thành thánh, thành tiên
cho được? Đó chính là ý nghĩa những câu:
– Yết tân, nạp khí thị nhân
hành; hữu dược phương năng Tạo hóa sinh. 咽 津 納 氣 是 人 行 ; 有 藥 方 能 造 化 生
(Yết tân, nạp khí ấy nhân hành; có «thuốc» mới mong Tạo hóa sinh.)
[19]
– Nhiêu quân thổ nạp kinh
thiên tải; tranh đắc kim ô, nặc thố nhi. 饒 君 吐 納 經 千 載 ; 爭 得 金 烏 搦 兔 兒
(Dẫu anh thổ nạp nghìn năm suốt; cũng chẳng làm sao được tiên đan.)
[20]
Dẫu sao thì đạo Lão cũng chủ
trương tính mệnh song tu. Cổ tiên nói: «Tu tính tiên tu mệnh; phương
nhập tu hành kính 修 性 先 修 命 ;方入 修 行 徑 (Muốn tu tính, trước phải tu mệnh;
thế mới vào đường tu chân chính.)
[21]
Trong quyển Tiên
Học Từ Điển (tr. 10) có bài ca của Xao Hào 敲 爻 như
sau:
Mệnh phải truyền,
Tính phải ngộ,
Siêu phàm nhập thánh, do
mình cả.
Chỉ tu tính, không tu mệnh,
Đó là tu hành đệ nhất bệnh,
Chỉ tu tổ tính, chẳng tu
đơn,
Vạn kiếp âm linh, khó thành
thánh
[22]
Đạt mệnh tông, mê tổ tính,
Khác nào soi gương không bửu
kính,
Thọ cùng trời đất, một ngu
phu,
Tuy được gia cơ, dùng chẳng
biết.
Tính mệnh song tu, huyền hựu
huyền,
Sóng thần, đáy biển đẩy pháp
thuyền,
Giao long vùng vẫy, tay
không bắt,
Mới hay tay thợ chẳng hư
truyền.
[23]
Tính mệnh song tu đại khái
là như vậy.
Còn như nói Tính Mệnh song
tu chính là chìa khóa giúp ta mở cửa Huỳnh Đình, thì tôi đã chứng minh
nơi chương Nội dung chính yếu của Huỳnh Đình: Nhờ hiểu thế nào là Tính
Mệnh song tu, tôi đã phơi bày, toát lược lại được nội dung Huỳnh Đình từ
thấp đến cao.
4. Huỳnh Đình kinh có từ hơn 1600 năm nay, mà đã
bàn được về các xoang não, về Nê Hoàn cung thật là một điều kỳ lạ.
Kỳ lạ hơn nữa, là các nhà
bác học, y học ngày nay, tuyệt nhiên không hề đả động đến não thất ba
với những ý nghĩa huyền học của nó. Riêng tôi, tôi cho rằng phải hiểu
đại khái về óc não, và ý nghĩa, nhiệm vụ của các tầng óc não, ta mới có
thể tu luyện dễ dàng hơn.
Sau nhiều năm để tâm suy cứu
về vấn đề, lại tham bác đông tây, y khoa, triết học, đạo giáo đông tây,
tôi đã đi đến những nhận định sau:
1. Nơi tâm điểm Não thất ba:
Hư vô 虛 無, Thần 神, Tiên thiên chi khí 先 天 之 氣, Thiên tâm 天 心, Thiên tính
天 性. (Nơi đó thực là hư linh).
2. Não thất ba, và các xoang
não: Hồn 魂. Nê Hoàn cung 泥 丸 宮, Thiên cốc 天 谷, Tổ khiếu 祖 竅, Huyền quan
khiếu 玄 關 竅. (Trong các xoang não này có Khí 氣. Mà hồn là khí. Đây cũng
là Nhân tâm 人 心, là Linh Đài 靈 臺, Linh Sơn 靈 山 của đạo Lão, trong quyển
Tiên Học Từ Điển nơi chữ Tâm Tính có câu Tâm bao tính ngoại 心 包 性 外 [Tâm
bao ngoài tính], nên tìm ra Tính sẽ tìm ra Tâm.)
3. Thể Lam (Thalamus), hay
Động phòng 洞 房, hay Thị tầng 視 層 - Thể Hạ Lam (Hypothalamus) hay Hạ thị
tầng 下 視 層 - Não đế 腦 蒂 (Brainstem, hay Myélencéphale). (Xét về cơ cấu,
thì là Tinh 精. Xét về quan năng, chức vụ, thì gọi là Phách 魄. Có sách
đạo Lão chủ trương Phách chủ cảm xúc (émotions), mà theo khoa học hiện
đại thì nơi đây chủ trì các cảm giác. Xét về hoạt động, thì đây cũng có
liên quan đến Ý 意, vì chuyên tâm chú ý, là nhiệm vụ nơi đây.) Như vậy,
ta thấy vị trí của Tinh, Thần, Hồn, Phách, Ý đều nằm trong não bộ.
4. Vỏ não (cortex cérébral):
Trí lự 智 慮, ý thức 意 識 (raisonnement et idées).
Đồ bản dưới đây cho thấy:
Tinh, Hồn, Phách, Ý vây quanh một Thần. Có vậy thì Tinh, Thần, Hồn,
Phách, Ý mới dễ qui trung, đoàn tụ...
[24]
SƠ ĐỒ ÓC
NÃO
I . Nê Hoàn cung (Não thất
ba) (Thần, Hồn)
II. Thể Lam (Thalamus) =-
Động Phòng (Tinh, Phách, Ý)
- Thể Hạ Lam (Hypothalamus)
- Diencéphale (Tinh, Phách, Ý)
- Não đế (Mésencéphale và
myélencéphale) (Tinh, Phách, Ý)
III. Cortex cerébral: Vỏ não
(Télencéphale) (Niệm lự).
Tại sao nói được rằng hiểu
biết về óc não là chìa khóa giúp ta hiểu vi ý của đạo Lão, của Huỳnh
Đình?
Bởi vì có minh định được đâu
là Linh Đài, đâu là tâm khảm, đâu là Kiền đỉnh, đâu là Tổ khiếu, thì mới
có thể thu thần định trí, mới hiểu thế nào là Tạo hóa qui trung chi
diệu.
Huỳnh Đình kinh cho rằng não
là Côn Lôn. Não ở trên và tượng Trời. Nên nói bổ thiên là bổ não. Chính
vì vậy mới nói Tử dục bất tử tu Côn Lôn.[25]
Tung Ẩn Tử trong quyển
Huỳnh Đình Ngoại Cảnh do ông giải, đã gọi Huỳnh
Đình kinh là Thân Học 身 學.[26]
Có học biết về cơ thể, về
thân thể con người, rồi ra mới biết rành đường quán tâm đắc đạo.
Nguyễn Đình Chiểu cũng nhận
định rằng muốn tu tiên, muốn tìm đến chốn Đan Kỳ, thời trước hết phải đi
qua cửa ải xác thân, mà Cụ gọi là ải Nhân xu. Cụ viết trong quyển Ngư
Tiều Vấn Đáp Y Thuật như sau:
Ngư
rằng: Nhắm chốn Đan kỳ,
Éo le
khúc nẻo, đường đi chẳng gần,
Nhiều
non, nhiều núi nhiều rừng.
Nhiều
đèo, nhiều ải, nhiều chừng động hang,
Chút
công khó nhọc chẳng màng,
Chỉn lo
góc hiểm mối đàng Nhân xu.
Tiều
rằng: Ta dốc tầm phương,
Xin phân
cho rõ cái đường Nhân xu.
Ngư
rằng: Một ải Nhân xu,
Lấy da
bao thịt làm bầu hồ lô.
Trổ
thông chín ngách ra vô,
Mươi hai
kinh lạc chia đồ dọc ngang,
Ngoài
thời sáu phủ Dương quan,
Trong
thời năm tạng xây bàn âm đô.
Hai bên
tả hữu vách tô,
Có non
Nguyên khí, có hồ huyết quan,
Có nơi
Hồn Phách ở an,
Có nơi
Thần chủ sửa sang việc mình.
Rước đưa
có đám Thất tình,
Có vườn Ngũ vị nuôi mình
tốt tươi...[27]
Huỳnh Đình kinh như vậy có
một chủ trương hết sức rõ rệt. Đó là: Muốn tìm Đạo, tìm Trời, phải tìm
trong thân, trong tâm. Và hai chữ Huỳnh Đình làm ta liên tưởng đến cuốn
sách nổi tiếng của thánh Thérese d’Avila: Le Château intérieur (Lâu đài
bên trong).
Bà viết: «Tôi đã coi tâm hồn
chúng ta như một tòa lâu đài, thành bởi một khối kim cương hay thủy tinh
trong vắt. Cũng như trên trời có nhiều nơi ở, lâu đài ấy cũng có nhiều
phòng: phòng thì ở trên, phòng thì ở dưới, phòng thì ở bên, rốt cuộc ở
trung tâm lâu đài, có một phòng chính, ở đó thường diễn biến ra các điều
bí ẩn giữa Trời và Người. Các bạn cũng đã biết rằng thân cây cọ có nhiều
lớp, bao quanh và che chở lớp tâm cây, ngon ngọt nhất. Cũng y thức thế,
giữa lâu đài, có nơi sở cư của Vua, còn chung quanh là các phòng ốc
khác.»
[28]
Môn phái Tam Điểm cũng cho
rằng đền thờ Jérusalem là hình ảnh con người. Đền thờ có hai cửa âm
dương là Jachin và Boaz (Jachin: cửa Nam hay cửa Hữu. Boaz: cửa Bắc hay
cửa Tả). Ở nơi con người thì hai cửa Âm Dương chính là không gian và
thời gian. Tạo hóa đã dựng hai cột ấy trong não chất con người,và đã đặt
chính nơi biên cương giữa tinh thần và vật chất.[29]
Còn Trung Cung thời là nơi
hàm tàng Chân lý. Vào tới đó con người sẽ trở thành toàn mãn, thành chân
nhân và sẽ biết rõ đường hướng phương cách tìm Thượng đế. Những bậc
thang đưa tới Trung cung đó thời quanh co khúc khuỷu...
[30]
5. Coi con người là toàn thể vũ trụ, gồm đủ các
tầng trời, gồm đủ muôn vì tinh tú, gồm đủ chúng thần là một quan niệm
khá độc đáo của Huỳnh Đình.
Nhưng thực ra các nhà huyền
học đông tây xưa nay cũng đã chủ trương tương tự như vậy. Vivekananda
chẳng hạn đã viết: «Mỗi một người chứa trong mình toàn thể vũ trụ.»
[31]
Câu «Thử nhân hà khứ nhập Nê
Hoàn» 此 人 何去 入 泥 丸 chương 19 Huỳnh Đình Nội Cảnh làm ta liên tưởng đến
câu sau đây của Vivekananda: «Từ đó, thần Civa nhập vào óc tôi, và Ngài
nhất định không muốn ra nữa.»
[32]
Chủ trương Thượng đế ngự tại
trung tâm đầu não con người cũng chính là của Áo Nghĩa thư, Bà La Môn
giáo. Chandogya Upanishad viết:
Kìa xem
trong chốn thiên đường,
Có cung
nho nhỏ, nhỏ dường Liên hoa,
Bên
trong là một tiểu tòa,
Trong
tòa ai đó, tìm ra mới tình.
... Tuy
là một khoảng tâm linh,
Nhưng mà
trời đất trong mình gồm thâu,
Gồm thâu
gió lửa tinh cầu,
Hai vầng
nhật nguyệt, cũng đâu có ngoài,
Gồm thâu
muôn sự trên đời,
Gồm thâu ngàn vạn khúc
nhôi sự tình...
[33]
Katha Upanishad viết:
Chân tâm
chủ tể muôn loài,
Thể thời
duy nhất, hình thời ngàn muôn,
Biết
ngài ngự giữa tâm hồn,
Mới mong
hạnh phúc trường tồn vô chung.
Biết
ngài bất biến thung dung,
Lồng
trong trời đất lao lung chuyển vần,
Biết
Ngài thần giữa chúng thần,
Biết
Ngài duy nhất giữa quần sinh ban.
Bao niềm
mơ ước chứa chan,
Biết
Ngài phân phát cho toàn sinh linh,
Biết
Ngài ngự giữa lòng mình,
Mới mong hạnh phúc siêu sinh trường
tồn...
[34]
Gần đây, trong quyển Thông
điệp tình yêu nhân hậu gởi cho các tâm hồn nhỏ, tức là Nhật ký của
Margarita (người Bỉ) mà Chúa Giê su nhận mình là tác giả, ta thấy có câu
sau: «Nếu người ta không có cảm giác như một giác quan thứ sáu về sự
hiện diện của Cha trong họ cho dầu cảm giác đôi khi mờ ảo, thì Cha cho
con hay, không ai có thể nên thánh được. Đối với một số đông người, than
ôi, giác quan thứ sáu ấy bị bóp nghẹt bởi nết xấu dưới mọi hình thức.»
[35]
Đọc Huỳnh Đình ta thấy phát
ra một niềm tin sắt đanh rằng con người nhờ công phu tu luyện có thể trở
thành thần linh. Quan niệm này thực ra không phải là dị đoan mê tín. Gần
đây Vivekananda viết: «Không có giáo lý nào khác ngoài niềm tin rằng khả
năng trở thành thần linh đã được ghi tạc vào trong con người, và con
người có khả năng tiến hóa vô tận...»
[36]
6. Đọc Huỳnh Đình kinh, và các kinh của
đạo Lão cần phải thấu triệt chủ trương: Nhất thể biến vạn thù, vạn thù
qui nhất thể. 一 體 變萬 殊 , 萬 殊 歸 一 體
Khi đã nắm được chốt then
ấy, thì dẫu Huỳnh Đình kinh và các nhà bình giải có nói:
Nhất khí sinh tam khí, vạn
khí,
Nhất thần sinh bá thần, vạn
thần,
Nhất Thiên sinh Tam thiên,
cửu thiên,
Nhất Lão sinh Tam Lão, vạn Lão.
Nhất Thể sinh Tam thể, vạn thể.
Người tu đạo cũng không vì thế mà
lạc lõng bối rối, bởi vì họ chỉ việc thu nhiếp tất cả lại thành Một mà
thôi:
Vạn thiên, tam thiên trở lại thành
Nhất Thiên.
Vạn thần thu nhiếp lại còn độc Thần.
Tam Lão trở về cùng Nhất Lão.
Tam đan thu nhiếp lại còn
Nhất đan.
Chính vì vậy mà Tử Hà khi
bình chương nhất, Nội Cảnh đã có viết: «Người tu đạo, ở nơi trung tâm
điểm, hợp Tam Đan thành Nhất Đan. Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.»
[37]
Theo từ ngữ Huyền học Âu
Châu, thì ta có thể nói như sau: «Thượng đế là bản thể mọi thể xác và
mọi tâm hồn như lời Saint Hilaire.»[38]
Hay nói: «Thượng đế là Khuôn
thiêng duy nhất muôn loài muôn vật» như lời Robert Grosse Tête.[39]
Chủ trương Nhập Nê Hoàn là
thăng thiên cũng đã được các nhà huyền học Âu Châu diễn tả như sau:
«Trời ở trong mỗi người chúng ta chứ không ở bên ngoài.»
[40]
Albert le Grand cũng viết:
«Lên cùng Thượng đế là đi vào tâm hồn. Ai vào được tới tâm khảm mình, sẽ
siêu thoát, và đạt tới Thượng đế ...»
[41]
Bà thánh Thérèse d’Avila nói
cách khác: «Thực đó là một ân sủng lớn mà Thượng đế ban, khi ngài giúp
ta tìm Ngài trong ta.»
[42]
Tử Hà chân nhân bình về
Huỳnh Đình như sau: «Huỳnh là màu của Trung ương. Đình là Trung điểm của
bốn phương. Luyện đan tại đó. Kết đan tại đó. Hoàn đan tại đó. Dưỡng
thần tại đó. Một Thần chính vị nơi trung điểm. Vạn thần triều củng thành
vòng quanh. Đó là gồm đủ hết thể và dụng Huỳnh Đình.»
[43]
Tôi góp ý thêm: Trung ương,
trung điểm ấy là tại trung tâm óc não, tại Nê Hoàn cung, tại Thiên cốc.
«Một Thần chính vị cư Thiên cốc, vạn thần triều củng thành vòng quanh.»
Và tôi tin chắc rằng tư tưởng trên của tôi ăn khớp với tư tưởng của các
vị đạo gia chân chính xưa nay.
Hoàng Nguyên Cát nói: «Đầu
người ta có chín cung, trong đó có một nơi gọi là Thiên cốc, thanh tĩnh
không bụi bậm. Nếu có thể an thần ở trong, hào ly không cho rong ruổi ra
ngoài, sẽ thành Chân, chứng thánh ... Huỳnh Đình kinh nói: Tử dục bất tử
tu Côn Lôn. Đủ biết rằng trì thủ được thiên cốc ấy, là điều huyền diệu
vô cùng vậy.»
[44]
Doãn chân nhân 尹 真 人 nói:
«Thiên cốc Nguyên Thần, giữ được là Chân ...»
[45]
Khưu Xử Cơ 邱 處 機 có thơ:
Cửu thị Côn Lôn, thủ Chân
Nhất,
久 視 崑 崙 守 真 一
Thủ đắc Ma-ni viên hựu xích.
守 得 摩 尼 圓 又 赤
Thanh hư hạo khoáng Đà la
môn,
清 虛 浩 曠 陀 羅 門
Vạn Phật thiên tiên tòng thử
xuất.[46]
萬 佛 千 仙 從 此 出
Triệu Thai Đỉnh 趙 台 鼎 cho
rằng: «Côn lôn là óc não. Bổ thiên là Bổ não.»
[47]
Doãn Chân Nhân cho rằng:
«Hỗn bá linh ư Thiên cốc. Lý ngũ khí ư Nê Hoàn.» 混 百 靈 於 天 谷 . 理 五 氣 於 泥
丸.[48]
Nói thế tức là chấp nhận Nê
Hoàn là nơi hội tụ mọi tinh hoa.
7. Huỳnh Đình kinh chuyên dạy phép QUÁN TƯỞNG THẦN
LINH, TỒN THẦN LINH, HÔ THẦN LINH, CẦU THẦN LINH.
Thế nào là Quán tưởng thần
linh? Đó là luôn luôn mường tưởng trong thân mình có chư vị thần linh ở.
Về phương pháp quán tưởng
thần linh này, đầu sách Huỳnh Đình Nội Cảnh của Vụ Thành Tử có ghi rõ.
Xin toát lược đại khái như sau:
Thanh Hư chân nhân nói rằng:
«Phàm tu Huỳnh đình nội cảnh kinh, thời nên y theo phép Điền thần hỗn
hóa 填 神 混 化 của Đế quân. Sau khi đã đọc kinh và Lễ xong, thời ngồi ngay
ngắn hướng về phương Đông, nhắm mắt lại tưởng chừng như thấy hình sắc,
kích thước các vị thần trong mình, kêu tính danh các vị thần đó, và đặt
để vào mỗi cung tương ứng. Nếu không tu theo phép này thì dẫu tụng kinh
Huỳnh Đình vạn lần, cũng không gìn giữ được Chân thần, và cũng không cảm
ứng được cùng thần linh, như vậy chỉ tổ làm hao tổn khí lực, bì quyện
tinh thần, không ích lợi gì cho công trình tu dưỡng cả...
Sau đó Vụ Thành Tử liệt kê
tính danh, sắc phục, kích thước 13 vị thần chính trong người.
Trong 13 vị thần đó, đã có 7
vị ở trên đầu mặt, còn 6 vị ở tạng phủ, 7 vị thần ở đầu mặt:
1. Thần tóc tên Thương Hoa 蒼
華, tự Thái Nguyên 太 元, hình dài 2 tấc 1 phân.
2. Thần óc tên Tinh Căn 精 根,
tự Nê Hoàn 泥 丸, hình dài 1 tấc, 1 phân.
3. Thần mắt tên Minh Thượng
明 上, tự Anh Huyền 英 玄, hình dài 3 tấc.
4. Thần mũi tên Ngọc Lũng 玉
壟, tự Linh Kiên 靈 堅, hình dài 2 tấc 5 phân.
5. Thần tai tên Không Nhàn 空
閑, tự U Điền 幽 田, hình dài 2 tấc 1 phân.
6. Thần lưỡi tên Thông Mệnh
通 命, tự Chính Luân 正 綸, hình dài 7 tấc.
7. Thần răng tên Ngạc Phong
崿 峰, tự La Thiên 羅 千, hình dài 1 tấc 5 phân.
Các thần đầu mặt đều mặc áo
tía, quần là, đều có hình như trẻ nít. Hãy để tâm tư mường tượng và an
vị vào chính phương vị.
Các thần tạng phủ:
1. Thần tim tên Đan Nguyên 丹
元, tự Thủ Linh 守 靈, hình dài 9 tấc, mặc áo gấm đỏ, quần là.
2. Thần phổi tên Hạo Hoa 皓
華, tự Hư Thành 虛 成, hình dài 8 tấc, mặc áo gấm trắng thắt lưng vàng.
3. Thần gan tên Long Yên 龍
煙, tự Hàm Minh 含 明, hình dài 6 tấc, mặc áo gấm xanh, mặc váy.
4. Thần thận tên Huyền Minh
玄 冥, tự Dục Anh 育 嬰, hình dài 3 tấc 6 phân, mặc áo gấm xanh.
5. Thần tì tên Thường Tại 常
在, tự Hồn Đình 魂 停, hình dài 7 tấc 3 phân, mặc áo gấm vàng.
6. Thần đởm tên Long Diệu 龍
曜, tự Uy Minh 威 明, hình dài 3 tấc 6 phân, mặc áo gấm 9 màu, quần hoa màu
lục.
Sáu vị lục phủ chân nhân 六 腑
真 人 kể trên ở nơi ngũ tạng, lục phủ hình dáng như anh nhi, sắc như hoa
đồng 華 童 (trẻ nhỏ đẹp).
Nơi đây tôi bỏ đi những chi
tiết về lễ nghi quán thần, và bài kinh. Xin tham khảo thêm Huỳnh Đình
Nội Cảnh, Vụ Thành tử, các trang 5a, 5b.
Phép quán tưởng thần linh
của Đạo Lão, cũng giống như phép quán tưởng về chúa Giêsu và các sự
thương khó Ngài của Công giáo, hay phép niệm Phật quán, niệm Kim thân
quán của Thiền Tông.
Có nhiều người cho rằng quán
tưởng như vậy là còn ở trình độ thấp. Phải vô niệm, vô trước, vô sắc
tướng mới là cao.
Aldous Huxley phê bình phép
quán tưởng hình sắc ấy như sau: «Quán tưởng về những nhân vật và những
đặc tính của họ, đòi hỏi phải dùng nhiều suy luận và tưởng tượng. Nhưng
thực ra suy tư, phân tách và tưởng tượng chính là những trở ngại ngăn
chận không cho tâm hồn đạt tới viên giác. Đó là một điều mà các nhà
huyền học Đông, Tây đều nhất trí. Cho nên người đạo sĩ, thay vì quán
tưởng vào thần linh vô ngã, lại quán tưởng vào thần linh hữu ngã nào đó
với những đức tính của các ngài, sẽ tạo ra những chướng ngại không cho
họ tiến tới được sự hợp nhất cao siêu hơn.»
[49]
Kinh Kim Cương cũng
viết:
Nhược dĩ sắc kiến ngã,
若 以 色 見 我
Dĩ âm thanh cầu
ngã, 以 音 聲 求 我
Thị nhân hành tà
đạo 是 人 行 邪 道
Bất năng kiến Như Lai.
不 能 見 如 來
Dịch:
Nếu mà
lấy sắc xem ta,
Thanh âm
cầu ngã đều là tà môn,
Thế là
đi lạc nẻo đường,
Làm sao
mong thấy tỏ tường Như Lai.
Dĩ nhiên nếu đi được đến vô
tướng, thì đã đạt tới cứu cánh... Nhưng đối với đại đa số, thì phải đi
từ sắc tướng, mới tới được vô tướng, phải đi từ hữu vi, mới lên được tới
vô vi, phải đi từ ảo thân mới lên được tới Chân thần, thế tức là theo
quan niệm «Sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền» 貴 以 賤為 本 高 以 下 為
基 (Quí dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ) của Đạo Đức
kinh (chương 39).
Nếu tâm niệm được như thế,
thì phép quán tưởng thần minh của Huỳnh Đình không có gì là dị đoan sai
trái. Huỳnh Đình kinh viết: «Thần tiên cửu thị vô tai hại.» 神 仙 久視 無 災 害
(chương 9).
Huỳnh Đình kinh và các nhà
bình giải Huỳnh Đình chỉ dạy quán tưởng thần minh, nhưng không dạy phép
quán tưởng thần minh thế nào cho hữu hiệu nhất.
Nhân đọc phép niệm Phật
quán, và phép niệm Kim thân quán của Thiền Tông trong quyển Pháp môn tọa
thiền của pháp sư Giác Nhiên, thấy có giải thích tại sao lại niệm Phật,
tại sao lại quán tưởng kim thân Phật, lời lẽ rất xác đáng, xin sao lục
ra đây để bổ sung phép quán tưởng thần minh của Huỳnh Đình.
Giác Nhiên viết: «Niệm tưởng
đến danh hiệu của các vị Phật hay các vị Bồ tát là cốt để định trụ vọng
tâm, lìa xa loạn tưởng mà cũng là ý nghĩa trau tâm của hành giả. Khi
niệm tưởng đến A Di Đà là cần trau dồi đức tánh của mình trở nên vô
lượng quang, vô lượng thọ, vô lượng cam lộ vương như lai, bình đẳng
tánh, niệm không tranh, vô tranh niệm.» (tr. 136) [...] «Vậy khi hành
giả quán tưởng đến Phật, thì phải tự xét nơi mình coi lời nói việc làm
và tâm niệm của mình có toàn chân, toàn thiện hay không? Vì quán tưởng
đến Phật là quán tưởng đến ta, bởi ta là Phật, Phật chính là ta, tại sao
ta không được như Phật? Tại sao Phật không giống như ta? Nếu một khi ta
tham thiền quán sát như thế, để trau dồi hạnh đức, và luyện tập bản năng
của mình đến chỗ toàn chân chí thiện, ấy cũng là vi yếu của đạo.» (tr.
138)
Viên Đốn Tử 圓 頓 子, trong
quyển Huỳnh Đình kinh giảng nghĩa, còn cho rằng Huỳnh Đình kinh dạy phép
tồn thần. Ông viện dẫn, mấy câu sau đây của Huỳnh Đình kinh:
– Trú dạ tồn chi khả trường
sinh. 晝 夜 存
之 可 長 生 (Nội Cảnh, ch. 8)
– Năng tồn Huyền Minh vạn sự
tất. 能 存 玄 冥 萬 事 畢 (Nội Cảnh, ch. 25)
Và giải tồn thần 存 神 như
sau: «Tồn thần là không còn suy tưởng gì, bất quá là đem thần quang
ngưng tụ lại một điểm nào, không nhất định là phải tồn thần vào một điểm
nào trong thân, mà cũng có thể tồn thần, ngưng thần vào một điểm ngoài
thân.»
[50]
Như vậy, Tồn thần 存 神 đồng
nghĩa với Ngưng thần 凝 神, Tụ thần 聚 神, Định thần 定 神, v.v.
Người tu đạo mà biết luôn
luôn tu thần, tồn thần, không cho thần linh trong con người mình tản
mạn, phá tán đi, là đã lên tới một mức độ cao siêu vậy.
Ta có thể nói: Quán tưởng
tức là méditation. Tồn thần tức là concentration. Mà tồn thần dĩ nhiên
là cao hơn quán tưởng.
Tôi nhận định như sau về tồn
thần và quán tưởng:
Xưa nay có hai con đường lên
tới siêu việt: Một là con đường viên giác; Hai là con đường sùng kính.
Con đường viên giác (tức chủ
trương Nhất quán hay Chân Nhất chi đạo) đại khái chủ trương rằng: Trong
mình có bản thể tuyệt đối.
Con người viên giác hay giác
ngộ trực giác thấy bản thể tuyệt đối, thông đạt và thể nhập tức khắc với
bản thể tuyệt đối. Âu Châu dùng những danh từ Illumination, Gnose để chỉ
Viên giác. Ấn độ gọi thế là Nhất nguyên (Advaita). Gaudapada và Sankara
là những người chủ xướng thuyết này.
Người theo con đường sùng
tín, thấy Trời, Phật, Thần, Chúa ngự trong lòng mình, nên đem hết tâm
thần để kính mến Trời, Phật, Thần, Chúa; mong kết hợp với Trời, Phật,
Thần, Chúa, cũng vẫn cảm thấy có Chúa, có Tôi, nghĩa là trong cái đồng
vẫn có cái dị.
Ấn Độ gọi đó là con đường
sùng tín hay Bhakti, Ramanoudja chủ xướng thuyết này mà ông gọi là
Vishishtadvaita. Công giáo gọi thế là con đường Huyền nhiệm, và các
thánh hiền Công giáo thường theo con đường này ...
Huỳnh Đình kinh theo con
đường này. Nhưng Huỳnh Đình kinh có một điểm khác là thay vì đặt vấn đề:
Chúa / Tôi
Phật / Tôi
Thần / Tôi
Trời / Tôi
thì lại đi từ Tôi tới Đa
thần, rồi dần dần mới đến Tôi và Thượng thần. Thế là từ đa thần qui về
Nhất thần, từ Tam điệp, Tam đan qui về Nhất đan, Nhất Thần, Nhất Tâm,
đem tinh hoa tứ chi bá hài, tam hoa ngũ khí, chư thần qui tụ về một điểm
Trung Hoàng nơi Nê Hoàn cung tại tâm điểm đầu não con người.
Có nắm vững được chủ trương
Thủ Trung Bão Nhất 守 中 抱 一 của đạo Lão thì mới có thể theo con đường
Huỳnh Đình đã vạch ra mà vẫn tinh tiến đến cùng cực được. Nếu không biết
lẽ Nhất nguyên, không biết lẽ Vạn thù nhi nhất bổn thì mãi mãi cũng sẽ
chỉ luẩn quẩn trong vòng hình danh, sắc tướng, đa nguyên bác tạp mà
thôi.
Chính vì vậy mà người muốn
tu theo Huỳnh Đình phải tâm niệm lời chỉ dẫn của Tử Hà chân nhân:
Nhất thần chính vị cư trung
lập,
一 神 正 位 居 中 立
Chư thần triều củng nhi hoàn
trần.
諸 神 朝 拱 而 環 陳
Huỳnh Đình chi thể dụng bị
hĩ.
[51]
黃 庭 之 體 用 備 矣
(Một
thần ngự giữa nơi tâm điểm,
Chư thần
chầu quanh thành vòng tròn.
Đó là
thể dụng của Huỳnh đình.)
Như vậy ta thấy rõ: Đa thần
là cái dụng 用 của Huỳnh Đình; Nhất thần là cái thể 體của Huỳnh Đình.
Người tu cần phải đi từ cái
dụng trở về cái thể, từ Đa Thần đến Nhất Thần, từ đa tạp đến Nhất
nguyên, Nhất Đạo. Có như vậy ta sẽ phanh phui ra được cái mà người xưa
gọi là:
– Chân nhất chi đạo 真 一 之 道
(Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Lợi, tr. 9b, chương
Kiền Khôn giao cấu, khứ khoáng lưu kim 乾 坤 交 媾 去 礦 留 金).
– Vô danh chi cổ giáo 無 名 之
古 教 (Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Nguyên, tr. 6a,
chương Tà chính thuyết 邪 正 說).
Tóm lại quán tưởng thần
minh, cũng như tồn thần có mục đích tối hậu là kết hợp nhất như 一 如 với:
(1) Đạo; (2) Trời; (3) Thái thượng Lão quân (theo danh từ Lão giáo).
8. Huỳnh Đình còn cho rằng trong khi đau yếu, hoặc
thập tử nhất sinh, nếu đã quen tồn thần, quán tưởng, thì cũng có thể hô
thần, cầu thần, chữa bệnh hoặc cứu mạng.
Ví dụ, Huỳnh Đình kinh
Nội Cảnh viết:
– Suyễn tức, hô hấp thân bất
khoái,
喘 息 呼 吸 身 不 快
Cấp tồn Bạch Nguyên hòa lục
khí. (ch. 9)
[52]
急 存 白 元 和 六 氣
(Mỗi khi
suyễn tức, thân không khoái,
Tồn thần
Bạch Nguyên điều lục khí.)
– Lâm tuyệt hô chi diệc đăng
tô,
臨 絕 呼之 亦 登 蘇
Cửu cửu hành chi phi Thái
Hà. (ch. 10)
久 久 行之 飛 太 霞
(Gần
chết hô tên liền sống lại,
Niệm thần mãi vậy lên
Thái Hà)
[53]
- Thùy tuyệt niệm thần tử
phục sinh,
垂 絕 念神 死 復 生
Nhiếp hồn hoàn phách vĩnh vô
khuynh. (ch.11) 攝 魂 還魄 永 無 傾
(Gần
chết niệm thần lại phục sinh,
Nhiếp hồn hoàn phách hết
đảo khuynh.)
[54]
– Bách bệnh thiên tai đương
cấp tồn. (ch.12)
百 病 千 災 當 急 存
(Bách bệnh thiên tai cầu
ngay tới.)
[55]
Quan điểm trên của Huỳnh
Đình làm ta liên tưởng đến các phép chữa bệnh bằng đức tin của các giáo
phái hiện đại như: Christian Science ở Mỹ; Espirittista Christiana ở Phi
Luật Tân; hoặc tới phép chữa bệnh bằng cách niệm A Di Đà Phật song song
với việc vận khí điều tức của thiền tông.[56]
Bước vào lãnh vực này chúng
ta thấy nhiều điều kỳ ảo, khó mà cắt nghĩa rạch ròi được.
Ví dụ gần đây bên Phi Luật
Tân có những người thuộc môn phái Espirittista Christiana, như Terte,
Blanche, hoặc không thuộc môn phái nào như Tony Agpaoa, chuyên dùng tay
không để mổ xẻ, và chữa bệnh. Các vị thần y ấy - chúng ta hãy tạm dùng
danh từ đó - chữa được rất nhiều bệnh, họ cho rằng họ chữa được bệnh là
nhờ thần quyền, thần lực.
Sự kiện này đã làm chấn động
năm châu, và nhiều bệnh nhân từ khắp các nước trong thế giới kéo đến Phi
xin chữa bệnh. Có nhiều phái đoàn quan sát của Mỹ, gồm nhiều nhà khoa
học, thần linh học, v.v. đã sang quan sát sự kiện, quay phim, chụp ảnh
tại chỗ. Ông Harold Sherman sau khi đã sang Phi khảo sát sự kiện, cùng
với một phái đoàn gồm có những nhân vật lỗi lạc trong các giới đạo gia,
khoa học, y học Mỹ Nhật, lúc về đã viết một quyển sách hơn 300 trang
phúc trình tỉ mỉ về những sự kiện lạ lùng trên.
Bản phúc trình xác nhận:
– Các thần y đã mổ xẻ trong
nhiều năm nay cho rất nhiều người, toàn bằng tay không, không dùng dao
kéo.
– Bệnh nhân khi mổ xẻ vẫn
tỉnh táo không đau ốm.
– Không hề dùng phương pháp
khử trùng, mà bệnh nhân vẫn như thường.
– Mổ xong, buông tay ra là
da thịt bụng lại liền như cũ.
– Các thần y đó đã chữa khỏi
rất nhiều bệnh.
– Đã có những bác sĩ và nhà
khoa học gia Mỹ đến thụ giáo với các thần y này và phụ tá họ trực tiếp
trong vòng vài tháng, và thú nhận đó là những chuyện có thực, chứ không
phải là ma thuật hay thôi miên hay lừa bịp.
– Đã chụp và quay phim được
rất nhiều trường hợp mổ xẻ, mà theo dõi được bằng phim ảnh tất cả các
diễn tiến của các cuộc mổ xẻ.
– Các thần y, khi được phỏng
vấn, đều quả quyết rằng sở dĩ mình chữa được bệnh, là nhờ thần thánh phụ
thể...[57]
Về phương pháp trị bệnh của
Thiền tông, ta thấy
ghi: «Trong khi cơ
thể bất hòa, nhức mình, nặng đầu, nghẹt mũi, nóng lạnh ... no hơi, ăn
không tiêu v.v... Khi ấy hành giả ngồi ngay thẳng, bắt đầu thở mạnh như
vầy: NAM, MÔ, A hít vô từ sống mũi xuống chấn thủy và chạy thẳng xuống
đơn điền (dưới rún 5 phân) vừa đầy hơi rán thở vô cho thẳng bụng dưới.
Kế bắt đầu từ từ thở ra niệm: DI, ĐÀ, PHẬT, (từ đơn điền lên tới chấn
thủy lên luôn sống mũi) thở ra cuối hơi, hóp bụng vô cho thật sát, cứ
mãi thở và niệm Phật đến liên tiếp như vậy từ một trăm đến hai, ba, bốn,
năm trăm hơi tùy theo sức của hành giả. Khi nào thấy hơi mệt, và ấm áp
cả thân mình thì cứ để tự nhiên cho hơi thở điều hòa lấy.» (Muốn cho có
phần kết quả trong phương pháp này, thì mỗi lần thở từ 300 hơi sắp lên
mới thấy ứng nghiệm.)
[58]
Những chứng cớ trên cho ta
thấy rằng phép hô thần, cầu thần để chữa bệnh cho mình, chẳng có gì là
mê tín, với điều kiện tiên quyết là trước khi muốn thực hành chữa bệnh,
phải hun đúc niềm tin cho vững mạnh trong vòng một thời gian lâu lai, ít
là năm năm.
Bác sĩ Decker hỏi thần y
Terte, người Phi Luật Tân, làm sao có thể có thần lực để chữa bệnh. Ông
Terte trả lời: «Có thể mất từ 3 đến 5 năm. Trong khi đó ông chỉ việc đọc
mỗi đêm Phúc Âm Gioan chương 15, 16, và 17.»
Ông Decker kể thêm: «Trước
đây đêm nào tôi cũng đọc thánh vịnh David thứ 119. Nhưng 3 tới 5 năm thì
quá lâu, tôi không chờ được...»
[59]
Và như vậy sự khỏi bệnh nơi
mình, nơi người có thể cắt nghĩa bằng một
trong
những lý do sau:
– Thần linh trực tiếp phụ
thể để chữa bệnh.
– Lòng tin mãnh liệt có thể
chữa lành bệnh.
– Sức mạnh của ý chí có thể
chữa lành bệnh.
– Sau nhiều năm tháng tồn
thần, tụ thần, thần lực trong người gia tăng, do đó có thể vận dụng thần
lực đó để chữa bệnh.
– Tự kỷ ám thị có thể chữa
lành bệnh.
– Mình đã xử dụng được huyền
năng, huyền lực sẵn có trong trời đất để chữa bệnh.
– Vận khí điều tức để gây
lại thể quân bình trong người nên có thể chữa lành bệnh.
– Sau khi tu luyện nhiều năm
nhiều tháng, sau khi đã đi được vào những tầng sâu con người, lúc ấy có
thể sử dụng được nguồn huyền lực sẵn có trong con người để lành bệnh.
Điều mà tôi muốn nhấn mạnh
nơi đây là: Định tĩnh lâu ngày, thần lực sẽ tăng. Thần lực tăng, các khả
năng nơi con người đều tăng, và như vậy người đạo sĩ như đã có được
chiếc nhẫn thần,
có thể sử dụng được
các nguồn huyền lực trong trời đất. Vấn đề chữa bệnh chỉ là một trong
những hậu quả là người tu luyện lâu năm có thể gặt hái được.[60]
9. Trên đây, tôi đã bàn nhiều đâu là Huỳnh Đình
trong con người, và dùng đủ mọi chứng lý đạo học, Dịch học, y học để đi
đến kết luận rằng: Huỳnh Đình là Thái cực, là Cốc thần, mà Thái cực hay
Cốc thần thì ở ngay nơi tâm điểm đầu não con người.
Điều đó thực ra cũng rất
chính thống, và các sách đạo Lão cũng nhiều nơi công nhận như vậy.
Tính Mệnh Khuê Chỉ 性 命 圭 旨
viết: «Ngô thân trung chi Huỳnh Đình, Thái cực lập yên.» 吾 身 中之 黃 庭 太 極
立 焉 (q. Hanh, tr. 12b)
Sách Kim Đan Đại Thành
金 丹 大 成 (tr. 4) viết: «Đầu hữu cửu cung, trung hữu Nê hoàn.» 頭 有 九宮
中 有 泥 丸.
Tính Mệnh Khuê Chỉ 性
命 圭 旨 viết: «Đầu hữu cửu cung, trung hữu Cốc thần.» 頭 有 九 宮 中 有 谷 神 (q.
Hanh, tr. 21b)
Tiên Học Diệu Tuyển 仙
學 妙 選 (tr. 131) viết: «Ngũ khí câu triều ư Thượng điền, tam hoa giai tụ
ư Càn đỉnh.» 五 氣 俱 朝 於 上 田 , 三 華 皆 聚 於 乾 頂.
Nhưng mặt khác, khi đọc các
lời bình Huỳnh Đình kinh và đọc nhiều sách đạo Lão khác, thì thấy xưa
nay có rất nhiều người chủ trương Huỳnh Đình ở nơi khoảng gần rốn, nơi
Chấn Thủy ...
Ta lập sơ đồ dưới đây để
toát lược lại quan niệm thông thường của các đạo gia về Tam thiên, Tam
cung, Tam Lão, Tam đan như sau:
TAM
THANH |
TAM
CẢNH |
TAM
QUÂN |
|
TAM
CUNG |
TAM
ĐAN |
Ngọc Thanh |
Thánh cảnh |
Nguyên thủy Thiên bảo quân |
Nê hoàn |
Thượng đan |
Thượng thanh |
Chơn cảnh |
Ngọc thần Linh bảo quân |
Giáng cung (Huỳnh đình) |
Trung đan |
Thái thanh |
Tiên cảnh |
Đạo đức thần bảo quân |
Đan điền |
Hạ đan |
Người khẳng định mạnh nhất
rằng trong khoảng giữa bụng là Huỳnh Đình có lẽ là tác giả vô danh của
quyển Dưỡng Sinh Bí Lục 養 生 祕 錄.
Ta thấy ghi: «Trung hoàng là
chốt then của khoa luyện đan. Nó là nơi tổng hội của 8 phương. Tức gọi
là Trung cung, Huỳnh Đình, Huyền tẫn, Tiên thiên nhất khí hay Chỉ ư chí
thiện. Lấy đốt giữa ngón tay giữa làm tắc chuẩn, thì từ rốn lên 3 tấc 6
phân, tính vào 1 tấc 3 phân là Huỳnh Đình vậy.»
[61]
Quyển Tiên Học Chân Thuyên 仙
學 真銓 của Nguyên Đồng Tử 元 同 子 có ghi: «Tĩnh tâm nhìn vào nơi dưới tim,
trên rốn khoảng một bàn tay tức Trung cung. Chỉ cần thanh tĩnh, để tóc
xõa tự nhiên, chuyên nhất, trì cửu, sẽ trực thượng dữ thiên thông.»
[62]
Có một điều kỳ lạ là thời
trung cổ bên Âu Châu cũng có một môn phái tu luyện chuyên nhìn rốn, đồng
thời niệm tên Chúa Giêsu, để cầu giải thoát.
Tu sĩ Barlaam tố cáo họ với
giáo chủ Constantinople như sau: «... Họ nhịn thở thật lâu và luôn mồm
tụng niệm: Lạy Chúa, xin thương xót tôi. Cằm họ gập xuống ngực, và mắt
nhìn chăm chú vào rốn. Họ cho rằng bụng là nơi chứa hồn, và họ nhờ
phương pháp này có thể xuất thần, thấy được nước trời trong thân xác họ,
và thấy thân thể họ phát quang, y như chúa Jésus khi Ngài ở trên núi
Thabor.»
[63]
Barlaam gọi họ là những tu
sĩ nhìn rốn (Ombilicaires). Các nhà khảo cứu đạo giáo gọi họ là
Hésychastes (tĩnh tu). Dân chúng gọi họ là Người có Hồn nơi rốn
(Omphalopsychoi).[64]
Sở dĩ tôi ghi lại những sự
kiện trên, là để cho chúng ta có cái nhìn trung thực về lịch sử đạo Lão,
và cũng là vì trong quá khứ đã có nhiều người tin theo như vậy.
Riêng tôi, tôi dứt khoát chủ
trương Nê Hoàn hay Cốc thần mới chính là Huỳnh Đình. Bụng chỉ đóng một
vai trò thứ yếu, mặc dầu là chúng ta thường nói: Dĩ thực vi tiên ...
10. Huỳnh Đình kinh nói về ngũ tạng và đởm.
Bàn về Huỳnh Đình như vậy
cũng đã khá nhiều. Chỉ cần ghi nhận thêm: Huỳnh Đình Nội Cảnh nói hơi
nhiều về ngũ tạng và về đởm. Nội Cảnh chỉ có 36 chương mà 13 chương (8,
9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 31, 32, 33, 34, 35) nói về ngũ tạng và đởm.
Nói đi rồi lại nói lại. Có lẽ tác giả Ngoại Cảnh đã thấy điều này nên
cắt xén một số chương này và đã toát lược lại cho ngắn hơn, gọn hơn.
Trên đây, tôi đã trình bày
mọi khía cạnh của Huỳnh Đình, từ thấp đến cao, để quí vị tùy nghi từ cao
xuống thấp, hoặc đi từ thấp lên cao. Bình dịch quyển Huỳnh Đình Nội Cảnh
này tôi chỉ muốn nói lên niềm tin của người xưa là:
– Trong con người, có thần
trời đất ngự.
– Con người có thể trực tiếp
được với thần minh bằng cách định thần quán tưởng.
– Con người nếu biết tu
luyện, biết định thần, biết điều tức dẫn đạo, có thể có một đời sống
khỏe mạnh, an lạc thư thái, và cuối cùng có thể trở thành thần minh, dữ
Đạo hợp chân 與 道 合 真, dữ Thiên vi Nhất 與 天 為 一.
Ước mong độc giả nắm được
những tư tưởng then chốt ấy, biết được đường hướng tu luyện là: phản
thân nhi thành, tâm nội quán tâm mịch Bản tâm, và mục phiêu tu luyện là
trở thành thần minh. Có nắm được những tư tưởng then chốt ấy mới sử dụng
hữu hiệu Huỳnh Đình kinh, và biến Huỳnh Đình kinh thành phương tiện cho
mình trở thành Chân nhân 真 人, Thiết hán 鐵 漢 ...[65]
CHÚ THÍCH
[1]
Đạo Học từ điển 道 學 辭 典, nơi chữ Đạo thư 道 書, tr. 205: Đại Đỗng Ngọc
Kinh dĩ hóa phàm. Xướng Đạo Chân Ngôn dĩ luyện tâm. Tham Đồng, Ngộ Chân,
Thanh Hoa, Huỳnh Đình dĩ liễu mệnh. Tam Hoàng Nội Văn dĩ độ nhân. 大 洞 玉
經 以 化 凡. 唱 道 真 言 以 鍊 心. 參 同, 悟 真, 青 華, 黃 庭 以 了 命. 三 皇 內 文 以 度 人...
[2]
Huỳnh Đình đa ngôn khiếu, Đạo Đức đa ngôn diệu. 黃 庭 多 言 竅, 道 德 多 言 妙.
[3]
Độc chí vạn biến, tất năng
động kiến quỉ
thần, an thích thiên hồn, địa phách, điều hòa ngũ tạng lục phủ, sinh hoa
sắc, phản anh hài, nãi bất tử chi đạo dã. 讀 至 萬 遍, 必 能 洞 見 鬼 神, 安 適 天 魂,
地 魄, 調 和 五 臟 六 腑, 生 華 色, 反 嬰 孩, 乃 不 死 之 道 也.
Xem phụ lục của Huỳnh Đình kinh, Tử Hà chú, tr. 10a... Thần thất minh
chính, thai chân an ninh, linh dịch lưu thông, bách quan lãng thanh,
trường vị hư doanh... 神 室 明 正, 胎 真 安 寧, 靈 液 流 通, 百 關 朗 清, 腸 胃 虛 盈...
Vụ Thành Tử chú, Huỳnh Đình Nội Cảnh, tr. 1b
Hình sung hồn tinh 形 充 魂 精 (tr. 1b)
Hình cố thần khiết. Nội triệt thân linh, ngoại giáng anh thánh. Ẩn chi
đại động, ư thị nhi chí... 形 固 神 潔. 內 徹 身 靈, 外 降 英 聖. 隱 芝 大 洞, 於 是 而 至.
(tr. 1b. 2a).
[4]
Toàn hình tập thần, khí chính, tâm thanh. 全 形 集 神, 氣 正, 心 清. Xem phụ lục
của Huỳnh Đình kinh, Tử Hà chú, tr. 9a.
Trừng chính thần khí. Thần khí chính tắc nội tà bất năng can. 澄 正 神 氣. 神
正 則 內 邪 不 能 干. (tr.1b, 9a)
[5]
Tử hữu tiên tướng, đắc ngô thử thư. Thử văn la liệt nhất hình chi thần
thất xứ, Thai thần chi sở tại nhĩ. 子 有 仙 相, 得 吾 此 書. 此 文 羅 列 一 形 之 神 室
處, 胎 神 之 所 在 耳. (Lời bình: Ư hình, trung chư thần, nãi bất đô tận, nhi
mục kỳ thất trạch, diệc bị cùng, ủy mật hỹ. Thai thần tức Minh đường Tam
Lão quân, sở vị Thai linh đại thần dã. Thử tối vi Huỳnh đình chi bổn.)
於 形,
中 諸 神, 乃 不 都 盡, 而 目 其 室 宅, 亦 備 窮, 委 密 矣. 胎 神 即 明 堂 三 老 君, 所 謂 胎 靈 大 神 也.
此 最 為 黃 庭 之 本. Vụ Thành Tử chú, Huỳnh Đình Nội Cảnh, tr. 1b.
[6]
Căn cơ giả, vị nhân tri thủ Nhất dã. Hoa thái giả, vị nhân diện mục
nhuận trạch, thể hữu quang hoa dã... 根 基 者, 謂 人 知 守 一 也. 華 采 者, 謂 人 面 目
潤 澤, 體 有 光 華 也.
[7]
Huỳnh Đình giả tại đầu trung, Minh đường, Động phòng, Đan điền, thử tam
xứ thị dã... Lưỡng mi gian, khước nhập nhất thốn vi Minh đường, nhị thốn
vi Động phòng, tam thốn vi Đan điền. Thử tam xứ vi Thượng Nguyên, Nhất
dã... Xích tử hóa vi Chân nhân, tại Minh đường trung, tự Tử Đan. Cố tri
Nhất giả, tại Minh đường nhất xứ dã. 黃 庭 者 在 頭 中 明 堂, 洞 房, 丹 田, 此 三 處 是
也... 兩 眉 間, 卻 入 一 寸 為 明 堂, 二 寸 為 洞 房, 三 寸 為 丹 田. 此 三 處 為 上 元, 一 也... 赤 子
化 為 真 人, 在 明 堂 中, 字 子 丹. 故 知 一 者, 在 明 堂 一 處 也. Lương Khưu Tử chú,
Huỳnh Đình Ngoại Cảnh, tr. 1a.
[8]
Nhất hữu tính, tự, phục sắc... Tính tự, vị Tử Đan. Phục sắc, vị chu y
dã... 一 有 姓, 字 服 色... 姓 字, 謂 子 丹. 服 色, 謂 朱 衣 也... Trang Tử viết: Ngã thủ
kỳ Nhất, nhi xử kỳ hòa... 莊 子 曰 我 守 其 一, 而 處 其 和... Bão Phác tử viết: Dư
văn chi sư vân: Nhân năng tri Nhất, vạn sự tất. 抱 朴 子 曰: 予 聞 之 師 云: 人 能
知 一, 萬 事 畢.
[9]
Cố Tiên kinh viết: Tử dục trường sinh, thủ Nhất đương minh... Thủ Nhất,
tồn chân, nãi năng thông Thần... Cao Tử Di Thư viết: Thu thập toàn phó
tinh thần, chỉ tại nhất xứ. Vị tĩnh thời đương tụ toàn phó tinh thần ư
lưỡng mi gian chi nhất xứ dã. 故 仙 經 曰: 子 欲 長 生, 守 一 當 明... 守 一, 存 真, 乃 通
神... 高 子 遺 書 曰: 收 拾 全 副 精 神, 只 在 一 處. 謂 靜 坐 時 當 聚 全 副 精 神 於 兩 眉 間 之 一 處
也. Lương Vụ Tử chú, Thái Thượng Huỳnh Đình Ngoại Cảnh, tr. 7a.
[10]
Tử năng thủ Nhất, vạn sự tất... 子 能 守 一, 萬 事 畢... Vụ Thành Tử chú,
Huỳnh Đình Ngoại Cảnh, tr. 3b.
[11]
Vạn thế thường tồn dữ Nhất vi hữu... 萬 世 常 存 與 一 為 友... (1b. tr. 3b)
[12]
Cũng có sách thay vì viết là Tử Đan 子 丹 đã viết là Kiết Đan 孑 丹. Kiết 孑
có nghĩa là «đơn chiếc» (Xem Thái Thượng Huỳnh Đình Ngoại Cảnh Kinh
Chú, Tung Ẩn Tử chú, tr. 12b).
[13]
Huỳnh Đình Nội Cảnh, chương 17, 35.
[14]
Pháp sư còn cho rằng chỗ ấy chính là Thiên nhãn, hay Huệ nhãn (con mắt
thứ ba: troisième œil). Pháp sư cũng ghi nhận rằng trên các tượng Phật
đều có một đốm giữa hai chân mày.
[15]
Vụ Thành Tử 務 成 子 chú, Huỳnh Đình Ngoại Cảnh, tr. 3b, nơi lời
bình câu: Thùy dữ chi đẩu, nhật, nguyệt 誰 與 之 斗, 日, 月.
[16]
Thử kinh dĩ Hư Vô vi chủ, cố dụng Huỳnh Đình tiêu chi nhĩ. 此 經 以 虛 無 為
主, 故 用 黃 庭 標 之 耳. Vụ Thành Tử 務 成 子 chú, Huỳnh Đình Nội Cảnh Kinh
黃 庭 內 景 經, Tự 序, tr. 1a.
[17]
Cửu tiêu phi hạ lưỡng Nguyên quân. Đan Hà, Thanh Hà giai Thiên nhân.
Khẩu truyền Nam nhạc, Tử Hư vân: Thế thượng Huỳnh Đình đa ngộ văn.
Thượng thanh tiên sứ hạ dao kinh. Bí bản truyền chi, tế thảo tầm... 九 霄
飛 下 兩 元 君. 丹 霞, 青 霞 皆 天 人. 口 傳 南 嶽, 紫 虛 云: 世 上 黃 庭 多 誤 文. 上 清 仙 使 下 瑤 京.
祕 本 傳 之, 細 討 尋... Tử Hà chú, Huỳnh Đình Nội Cảnh, tr. 4b.
[18]
Tính vi tiên thiên, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất
giảm. Hồn vi hậu thiên, hữu sinh hữu diệt, hữu cấu hữu tịnh, hữu tăng
hữu giảm. 性 為 先 天, 不 生 不 滅, 不 垢 不 淨, 不 增 不 減. 魂 為 後 天, 有 生 有 滅, 有 垢 有 淨,
有 增 有 減.
[19]
Nuốt nước bọt để nuôi thân, hút thở khí trời để dưỡng hình làm sao đòi
thành tiên thánh được. Muốn thành tiên, phải có được mầm tiên, giống
tiên. Mà mầm tiên giống tiên ấy chính là Tiên thiên nhất khí, là thần
linh nội tại. Câu trên trong Ngộ Chân Thiên, trích lại trong Huỳnh
Đình Nội Cảnh của Tử Hà chú, tr. 6a.
[20]
Như trên.
[21]
Tiên Học Từ Điển, tr. 156.
[22]
Tôi không đồng ý, vì có nhiều vị thánh công giáo đau ốm suốt đời.
[23]
Xao Hào ca viết: Mệnh yếu truyền, Tính yếu ngộ. Nhập thánh siêu phàm do
nhữ tố. Chỉ tu tính, bất tu mệnh, chỉ thị tu hành đệ nhất bệnh. Chỉ tu
tổ tính, bất tu đan, vạn kiếp âm linh nan nhập thánh. Đạt mệnh tông, mê
tổ tính; kháp tự giám dung vô bửu kính. Thọ đồng thiên địa nhất ngu phu.
Quyền ốc gia tài, vô chủ bính. Tính mệnh song tu, huyền hựu huyền. Hải
để hồng ba, giá pháp thuyền. Sinh cầm, hoạt tróc giao long thủ, Thủy tri
tượng thủ bất hư truyền. 敲 爻 歌 曰: 命 要 傳, 性 要 悟. 入 聖 超 凡 由 汝 做. 只 修 性, 不
修 命, 只 是 修 行 第 一 病. 只 修 祖 性, 不 修 丹, 萬 劫 陰 靈 難 入 聖. 達 命 宗, 迷 祖 性; 恰 似 鑑 容
無 寶 鏡. 壽 同 天 地 一 愚 夫. 權 握 家 財, 無 主 柄. 性 命 雙 修, 玄 又 玄. 海 底 洪 波, 駕
法 船.
生 擒, 活 捉 蛟 龍 首, 始 知 匠 手 不 虛 傳.
[24]
Nói cho đúng ra, thì Phách vẫn có thể là Khí nhưng không khinh thanh
bằng hồn, hơn nữa Phách nhất định phải liên hệ chặt chẽ với xác hơn. Ta
thấy nói: Hồn phách nhị khí chi linh 魂 魄 二 氣 之 靈 (Đạo Học Từ Điển, tr.
244), nhưng cũng thấy nói: Thác là thể phách, còn là tinh anh.
[25]
Não vị Côn Lôn, cứ thượng tượng thiên. Bổ Thiên tức Huỳnh Đình kinh chi
bổ não. Sở vị Tử dục bất tử tu Côn Lôn thị dã. 腦 謂 崑 崙, 居 上 象 天. 補 天 即 補
黃 庭 經 之 補 腦. 所 謂 子 欲 不 死 修 崑 崙是 也. Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 197,
198.
[26]
Tung Ẩn Tử chú, Huỳnh Đình Ngoại Cảnh, tr. 15a.
[27]
Nguyễn Đình Chiểu, Ngư Tiều Vấn Đáp Y Thuật, tr. 97-98.
[28]
J’ai considéré notre âme comme un château, fait d’un seul diamant ou
d’un cristal très pur. Tout comme au ciel, il y a diverses demeures ce
Château renferme plusieurs apparte-ments: les uns sont en haut, les
autres en bas, d’autres dans les ailes, enfin au centre, au milieu de
tous, se trouve le principal où se passent les choses les plus secrètes
entre Dieu et l’âme.
Vous savez comment la tige du palmier est formée de plusieurs enveloppes
qui entourent et protègent la partie savoureuse, le coeur proprement dit
de l’arbre, de même, au centre du château, se trouve la demeure du Roi,
et tout autour sont d’autres demeures...
Illan de Casa Fuerte, La Religion essentielle, p. 164.
[29]
The one of these pillars he set at the entrance of the porch on the
right hand, or South, and called it Jachin, and the other at the the
left hand, or North and called it Boaz. (Mackey’s revised Encyclopedia,
volume 2, p. 778-779).
... In this respect, they
are representative of Space and Time, which were cast by the Great
Architect of the Universe in the clay ground of the brain and placed in
the porchway of human consciousness, where they constitute the border
between material and spiritual science. (Sđd., tr. 666)
[30]
The Middle Chamber, the abiding place of Truth (Sñd., tr. 1109) until in
the Middle Chamber of life - in the full fruition of manhood - the
reward is attained, and the purified and elevated intellect is invested
with the reward in the direction, now to seek God and God’s truth.
(Sđd., tr. 1110)
[31]
Un seul homme contient en lui l’univers tout entier.
La vie de Vivekananda,
Tome 1, p. 92.
[32]
Depuis Civa est entré dans mon cerveau et il n’en veut plus sortir...
Sđd., q. I, tr. 160.
[33]
Oh! now what is here in this city of Brahma (the body) is an
abode a small lotus-flower (the heart). Within that is a small space.
What is in that should be searched out, that assuredly, is what one
should desire to understand ... As far, verily, as this world-space
extends, so far extends the space within the heart. Within it indeed are
contained both heaven and earth, both fire and wind, both sun and moon,
lightenings and the stars, both what one possesses here and what one
does not possess, everything here is contained within it.
Chandogya Upanishads, 8. I. I – 2.
[34]
The Inner Soul of all things, the one controller,
Who makes his one form manifold.
The wise who perceive Him as standing on oneself,
They and no others, have eternal happiness,
His who is the Constant among the inconstant, the intelligent among
intelligences,
The One among many, who grants desires,
The wise who perceive Him as standing on oneself,
They and no others, have eternal peace.
Katha 5. 14 và Prasna 6. 5 – Brith. 4. 4. I – 2.
[35]
Margarita, Thông điệp tình yêu nhân hậu gởi cho các tâm hồn nhỏ,
Saigon 73, tr. 177.
[36]
Nul autre dogme que la divinité inscrite en l’homme et son pouvoir
d’évolution indéfinie. Vie de Vivekananda, Sđd., q. I, tr.
47.
[37]
Tử Hà, Huỳnh Đình Nội Cảnh, tr. 2b. Tu đạo giả, cư trung nhi lập,
hợp tam đan vi Nhất Hư Vô. Dĩ vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm... 修 道 者, 居 中 而
立, 合 三 丹 為 一 虛 無. 以 無 所 住 而 生 其 心...
[38]
Il est manifeste que Dieu est la substance de tous les corps et de
toutes les âmes. (Saint Hilaire). – Illan De Casa Fuerte, La Réligion
essentielle, tr. 87.
[39]
Dieu seul est la forme première et unique de toutes choses. (Sđd., tr.
126)
[40]
Le Ciel est au dedans et non au dehors de chacun. (Emmanuel Svedenborg,
Sđd., tr. 184).
[41]
Monter vers Dieu, c’est entrer en soi même. Celui qui entre en lui même
et pénètre au fond de son âme se dépasse et atteint vraiment Dieu. La
Réligion essentielle, tr. 130.
[42]
C’est une grande grâce que Dieu nous fait quand il nous aide à le
chercher dans notre intérieur. (Sđd., tr. 167).
[43]
Huỳnh giả trung ương chi sắc. Đình giả tứ phương chi trung. Luyện đan
tại thử. Kết đan tại thử. Hoàn đan tại thử. Dưỡng thần tại thử. Nhất
Thần chính vị nhi trung lập. Vạn Thần triều củng nhi hoàn trần. Huỳnh
đình chi thể dụng bị hĩ. 黃 者 中 央 之 色. 庭 者 四 方 之 中. 煉 丹 在 此. 結 丹 在 此. 還 丹
在 此. 養 神 在 此. 一 神 正 位 而 中 立. 萬 神 朝 拱 而 環 陳. 黃 庭 之 體 用 備 矣. Tử Hà chú,
Huỳnh Đình kinh, tr. 3b, 4a.
[44]
Nhân đầu hữu cửu cung, trung hữu nhất sở, danh viết Thiên cốc thanh tĩnh
vô trần, năng tương Nguyên thần an trí kỳ Trung, hào bất ngoại trì, tắc
thành Chân, chứng Thánh, tức tại thử hĩ. Huỳnh Đình kinh vân: Tử dục bất
tử tu Côn Lôn. Khả kiến thủ thử Thiên cốc hữu vô hạn chi diệu uẩn dã. 人
頭 有 九 宮, 中 有 一 所, 名 曰 天 谷 清 靜 無 塵, 能 將 元 神 安 置 其 中, 毫 不 外 馳, 則 成 真, 證 聖,
即 在 此 矣. 黃 庭 經 云: 子 欲 不 死 修 崑 崙. 可 見 守 此 天 谷 有 無 限 之 妙 蘊 也. Tiên Học
Diệu Tuyển, tr. 298.
[45]
Thiên Cốc Nguyên thần thủ chi tự chân. 天 谷 元 神 守 之 自 真 (Sđd., tr. 390)
[46]
Sđd., tr. 390.
[47]
Não vị Côn Lôn. Cư thượng tượng thiên. Bổ thiên tức Huỳnh Đình kinh chi
bổ não, sở vị Tử dục bất tử tu Côn Lôn thị dã. 腦 謂 崑 崙. 居 上 象 天. 補 天 即 黃
庭 經 之 補 腦, 所 謂 子 欲 不 死 修 崑 崙 是 也. Sđd., tr. 197.
[48]
Sđd., tr. 391. Tính Mệnh Khuê Chỉ, q. Lợi, tr. 10a.
[49]
Contemlation of persons and their qualities entails a great deal of
analytic thinking and an incessant use of the imagination. But analytic
thinking and imagination are precisely the things which prevent the soul
from attaining enlightenment. On this point all the great mystical
writers Chirstian and oriental, are unanimous and emphatic.
Consequently, the would-be mystic who chooses as the object of his love
and contemplation, not the godhead, but a person and personnal
qualities, thereby erects insurmontable barriage between and the higher
states of union...
Aldous Huxley, Grey Eminence (New York 1941), p. 101.
William Johnston, The Still Point, Perennial Library, Harper and
Row, Publishers, New York, Evanston, San Francisco, London, 1971, p.
152-153.
[50]
Viên Đốn Tử chú, Huỳnh Đình kinh giảng nghĩa.
Lý Lạc Cầu, Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 41.
Tử Hà chú, Huỳnh Đình Nội Cảnh, tr. 4a.
[52]
Bạch Nguyên là thần phổi.
[53]
Đây là thần tim, Đơn Nguyên.
[54]
Đây là niệm thần gan Thanh đồng, Xá Minh.
[55]
Đây là thần thận Huyền Minh.
[56]
Giác Nhiên, Pháp Môn Tọa Thiền, tr. 59.
[57]
Harold Sherman, Wonder healers of the Philippines, DeVorss and
Co. Los Angeles, Calif.
[58]
Giác Nhiên, Pháp Môn Tọa Thiền, tr. 59.
[59]
Harold Sherman, Wonder healers in the Philippines, tr. 52.
[60]
Evelyn Underhill, Mysticism, p. 183. The will ... is king, not
only of the House of Life, but of the universe outside the gates of
sense. It is the key to «man limitless»; the true «ring of Gyges,» which
can control the forces of nature, known and unknown.
[61]
Trung Hoàng vi đan quýnh, thị bát phương tổng hội xứ, tức sở vị Trung
cung, Huỳnh Đình, Huyển tẫn, Tiên thiên nhất khí, huyền quan nhất khiếu.
Sở vị chỉ ư chí thiện dã. Dĩ trung chỉ tiết văn vi tắc, Tề (Thận) chi
thượng tam thốn lục phân, kỳ trung nhất thốn tam phân xứ nãi Huỳnh Đình
dã. 中 黃 為 丹 扃, 是 八 方 總 會 處, 即 所 謂 中 宮, 黃 庭, 玄 牝, 先 天 一 氣, 玄 關 一 竅, 所 謂 止
於 至 善 也. 以 中 指 節 文 為 則, 臍 (腎 ) 之 上 三 寸 六 分, 其 中 一 寸 三 分 處 乃 黃 庭 也.
Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 164.
[62]
Tĩnh quán tâm hạ tề thượng ước nhất chưởng chi địa, sở vị Trung cung.
Đãn Hư tĩnh, khinh tùng, chuyên nhất, trì cửu, tắc khả: Trực thượng dữ
thiên thông. 靜 觀 心 下 臍 上 約 一 掌 之 地, 所 謂 中 宮. 但 虛 靜, 輕 鬆, 專 一, 持 久, 則 可:
直 上 與 天 通. Tiên Học Diệu Tuyển, tr. 188.
[63]
G. Welter, Histoire des Sectes chrétiennes des Origines à nos Jours,
Payot Paris, 1950, p. 102.
[64]
E. Royston Pike, Dictionnaire des Religions, p. 149 nơi chữ
Hésychastes.
[65]
Tính Mệnh Khuê Chỉ 性 命 圭 旨, q. Hanh, chương Hàm dưỡng bản nguyên
cứu hộ mệnh bảo 涵 養 本 原 救 護 命 寶 cho rằng: Muốn trở nên bất tử thì phải
tìm cho được bất tử nhân 不 死 人 trong con người, Lão giáo gọi bất tử nhân
不 死 人 ấy là Thiết hán 鐵 漢. Phật gia gọi đó là Kim cương金 剛. Thiết hán
hay Kim cương chính là Bản lai Diệu giác Chân tâm 本 來 妙 覺 真 心 của người
đời.
»
mục lục
| chương
1 2
3 4
5
6
|