NGỘ
CHÂN TRỰC CHỈ
悟 真 直 指
TỐNG, TỬ DƯƠNG
TRƯƠNG CHÂN NHÂN trước 宋 紫 陽 真 人 著
THÊ VÂN SƠN, NGỘ
NGUYÊN TỬ, LƯU NHẤT MINH chú 棲 雲 山
悟 元 子 劉 一 明 註
CỬU DƯƠNG SƠN,
ẤN CHÂN TỬ CHU KIM TỈ hiệu chính 九
陽 山 印 真 子 周 金 璽 校 正
Môn nhân XUNG
HOÀ TRƯƠNG DƯƠNG TOÀN hiệu duyệt
門 人 沖 和 張 陽 全 校 閱
Hậu học LÝ TỬ
VIÊN trùng khan 後 學 李 紫 垣 重 刊
Nhân Tử
Nguyễn Văn Thọ dịch chú
»
mục lục |
quyển I |
quyển II |
quyển III
| quyển IV
Quyển I
NGỘ CHÂN TRỰC CHỈ 悟 真 直 指
Ngộ Chân
Thiên nguyên tự
悟 真 篇 原 序
Ngộ Chân
Thiên hậu tự
悟 真 篇 後 序
TIỂU SỬ
TRƯƠNG BÁ ĐOAN
THẤT NGÔN
LUẬT THI THẬP LỤC THỦ DĨ BIỂU NHỊ BÁT CHI SỐ
七 言 律 詩 七 十 六 首 以 表 二 八 之 數
☸
Ngộ Chân Thiên nguyên tự
悟 真 篇 原 序
1. Ta phù! Nhân thân nan đắc, quang cảnh
dị thiên, võng trắc đoản tu, an đào nghiệp báo. Bất tự cập tảo tỉnh ngộ,
duy chỉ cam phận đãi chung. Nhược lâm kỳ, nhất niệm hữu sai, đoạ ư tam
đồ, ác thú.
嗟 夫,
人 身 難 得.
光 景 易 遷.
罔 測 短
修,
安 逃 業 報.
不 自 及 早 省 悟,
惟 只 甘 分 待 終.
若 臨 期,
一 念 有 差,
墮 於 三 涂 惡 趣.
Ôi! con người khó được, quang âm qua
mau, nếu không sớm tu đạo, khi giờ chết tới, thì chỉ có việc cam phận mà
thôi. Khi giờ chết tới, một niệm mà sai, Đoạ vào tam đồ ác thú,
thì muôn kiếp khó ra, khi ấy có hối cũng không kịp.
Tắc
động kinh trần kiếp, vô hữu xuất kỳ. Đương thử chi thời, tuy hối hà cập.
Cố Lão Thích dĩ Tính Mệnh học khai phương tiện môn, giáo nhân tu
chủng, dĩ đào sinh tử. Thích thị dĩ
không tịch vi tông, nhược đốn ngộ viên thông, tắc trực siêu bỉ ngạn. Như
hữu tập lậu vị tận, tắc thượng tuẫn vu hữu sinh.
則 動 經 塵 劫,
無 有
出
期.
當 此 之 時,
雖 悔 何 及
?
故 老 釋 以 性 命 學 開 方 便 門.
教 人 修 種,
以 逃 生 死.
釋 氏 以 空 寂 為 宗,
若 頓 悟 圓 通,
則 直 超 彼 岸.
如 有 習 漏 未 盡,
則 尚 徇 于 有 生.
Cho nên Lão, Thích đem đạo Tính Mệnh
dạy người phải ăn ngay ở lành, để thoát sinh tử. Thích thị lấy không
tịch làm tôn chỉ,
nếu con người đốn ngộ, viên thông,
thì sẽ sang bờ bên kia. Nếu tu luyện chưa tới nơi, thì vẫn còn ở trong
vòng sinh tử.
Lão tử
dĩ luyện dưỡng vi chân, nhược đắc kỳ yếu khu, tắc lập tễ thánh vị, như
kỳ vị minh bản tính, tắc do trệ vu ảo hình. Kỳ thứ Chu Dịch hữu Cùng Lý
Tận Tính trí mệnh chi từ. Lỗ ngữ
hữu Vô ý,
tất, cố, ngã
chi thuyết. Thử hựu Trọng Ni cực trăn hồ Tính Mệnh chi áo dã. Nhiên kỳ
ngôn chi thường lược nhi bất chí vu tường giả, hà dã? Cái dục tự chính
nhân luân, thi Nhân, Nghĩa.
Lễ, Nhạc chi giáo, cố vu Vô Vi chi đạo vị thường hiển ngôn, đản dĩ Mệnh
thuật ngụ chư Dịch Tượng, Tính pháp hỗn chư vi ngôn cố nhĩ.
老子 以 煉 養 為 真,
若 得
其 要 樞,
則 立 躋 聖位,
如 其 未 明 本 性,
則 猶 滯 于 幻 形.
其 次 周 易 有 窮 理 盡 性 致 命 之 詞.
魯 語 有 毋 意 必 固 我 之 說.
此 又 仲 尼 極 臻 乎 性 命 之 奧 也.
然 其 言 之 常 略,
而 不 至 于詳 者.
何 也
?
蓋 欲 序 正 人 倫,
施 仁 義 禮 樂 之 教.
故 于 無 為 之 道 未 嘗 顯 言.
但 以 命 術 寓 諸 易 象,
性 法 混 諸 微 言 故 耳.
Lão tử dạy cách luyện dưỡng,
nếu biết được cốt yếu, sẽ lập tức đạt thánh vị, nếu chưa biết bản tính,
thì còn trệ trong vòng hữu hình. Còn như Kinh Dịch thì dạy người Cùng
Lý, Tận Tính dĩ chí Mệnh.[5]
Luận Ngữ dạy: «Tứ tuyệt: Vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã.» Như vậy cho thấy
Đức Khổng cũng đã vươn lên chỗ cao diệu của Tính Mệnh. Nhưng mà lời lẽ
thường sơ lược không rõ ràng, là tại làm sao? Nếu muốn tự chính nhân
luân, thi nhân nghĩa lễ nhạc, cho nên không dạy rõ vô vi, dạy về Mệnh
thì dùng Dịch Tượng, dạy về Tính thì nói rất ẩn ước, nhẹ nhàng.
Chí vu Trang tử, suy cùng vật loại, tiêu
diêu chi tính. Mạnh tử thiện dưỡng hạo nhiên chi khí, giai thiết kỷ chi.
Đãi phù Hán Nguỵ Bá Dương dẫn Dịch Đạo giao cấu chi thể, tác Tham Đồng
Khế dĩ minh đại đơn chi tác dụng. Đường Trung Quốc Sư vu ngữ lục thủ tự
Lão Trang ngôn, dĩ hiển chí đạo chi bản mạt. Như thử, khởi phi giáo tuy
phân tam, đạo nãi qui nhất.
至 于 莊 子 推 窮 物 類,
逍 遙 之 性.
孟 子 善
養浩 然 之 氣,
皆 切 幾 之.
迨 夫 漢 魏 伯 陽 引 易 道 交 媾 之 體,
作 參 同 契 以 明 大 丹 之 作 用.
唐 忠 國 師 于 語 錄 首 敘 老 莊 言,
以 顯 至 道 之 本 末.
如 此 豈 非 教 雖 分 三,
道 乃 歸 一.
Đến như Trang Tử nói về tính Tiêu Diêu
của muôn vật.
Mạnh tử bàn về Khí Hạo Nhiên đều nói rất tha thiết. Đến thời Hán,
Nguỵ Bá Dương, đem lẽ Giao Cấu trong kinh Dịch mà viết bộ Tham Đồng Khế,
dạy về phép Đại Đơn. Đường Trung quốc sư trong Ngữ Lục của Ông có
đề cao Lão, Trang, để cho thấy đâu là đầu đuôi của Chí Đạo, như vậy Giáo
tuy chia ba, nhưng Đạo thì chỉ qui về một mối.
2. Nại hà, hậu thế Hoàng Duy
chi lưu, các tự chuyên môn, hỗ tương phi thị, trí sử tam giáo tông yếu,
mê một tà kỳ, bất năng hỗn nhất nhi đồng qui hĩ.
奈
何
後
世
黃
緇
之
流,
各
自
專
門,
互
相
非
是,
致
使
三
家
宗
要,
迷
沒
邪
歧,
不
能
混
一
而
同
歸
矣.
Tại sao người tu đạo Lão sau này tự lập
chuyên môn, cho thế này là đúng, thế kia là sai, làm cho Tam Giáo đi vào
lầm lạc, không còn đồng qui hỗn nhất nữa.
Thả kim nhân dĩ Đạo môn thượng vu Tu Mệnh,
nhi bất tri Tu Mệnh chi pháp, lý xuất lưỡng đoan, hữu dị ngộ nhi nan
thành giả, hữu nan ngộ nhi dị thành giả, như luyện Ngũ Nha chi khí,
phục Thất Diệu chi quang,
chú tưởng Án Ma, nạp Thanh, thổ Trọc, niệm Kinh, trì Chú, tốn thuỷ, sất
phù,
khấu xỉ, tập thần, hưu thê tuyệt lương, tồn thần bế tức, vận mi gian chi
tư, bổ não hoàn tinh, tập phòng trung chi thuật, dĩ chí luyện Kim,
Thạch, Thảo, Mộc chi loại, giai dị ngộ nhi nan thành giả.
且 今 人 以 道 門 尚 于 修 命 而 不 知 修 命 之 法.
理 出 兩 端,
有 易 遇 而 難 成 者,
有 難 遇 而 易 成 者,
如 煉 五 芽 之 氣,
服 七 耀 之 光,
注 想 按
摩,
納 清 吐 濁,
念 經,
持 咒,
噀 水,
叱 符,
叩 齒,
集 神,
休 妻 絕 糧,
存 神 閉 息,
運 眉 間 之思,
補 腦 還 精,習
房 中之 術,
以 至 煉 金 石 草 木之 類,
皆易 遇 而 難 成 者.
Vả ngày nay, người ta thường đề cao tu
Mệnh, nhưng không biết rằng tu Mệnh có hai loại: một là dễ gặp nhưng nan
thành, hai là khó gặp nhưng dễ thành. Như luyện Khí Ngũ Nha, luyện quang
huy của Nhật Nguyệt, Tinh Thần, luyện xoa bóp, nạp thanh, thổ trọc, niệm
kinh trì chú, phun nước, vẽ bùa, nghiến răng tập thần. Bỏ vợ, nhịn ăn,
tồn thần bế tức, vận tư tưởng giữa 2 làn mi, bổ não hoàn tinh,
tập phòng trung chi thuật, đến nỗi còn phục luyện Kim Thạch Thảo Mộc,
tất cả những chuyện đó đều dễ gặp nhưng khó thành.
Dĩ thượng chư pháp, vu tu thân chi đạo,
suất đa diệt liệt, cố thi lực tuy đa, nhi cầu hiệu mạc nghiệm. Nhược cần
tâm, khổ chí, nhật tịch tu trì, chỉ khả dĩ tị bệnh, miễn kỳ phi hoành,
nhất đán bất hành, tắc tiền công tiệm khí, thử nãi thiên diên tuế
nguyệt, sự tất nan thành, dục vọng nhất đắc vĩnh đắc, hoàn anh, phản
lão, biến hoá phi thăng, bất diệc nan hồ? Thâm khả thống thương.
以 上 諸 法,
于 修 身 之 道,
率 多 滅 裂,
故 施 力
雖 多,
而 求 效 莫 驗.
若 勤 心,
苦 志,
日 夕 修 持,
止 可 以 避 病,
免 其 非 橫,
一 旦 不 行,
則 前 功 漸 棄 此 乃 遷 延 歲 月,
事 必 難 成,
欲 望 一 得 永 得,
還 嬰,
返 老,
變 化 飛 昇,
不 亦 難 乎
?
深 可 痛 傷.
Các phép trên đây rất là chi ly, phiền
toái, cho nên tuy dùng sức nhiều nhưng mà không có hiệu nghiệm. Nếu vất
vả ngày đêm tu trì, thì có thể phòng bệnh, khỏi tai hoạ. Nếu một ngày
ngưng tu, thì công lao trước đó đều mất. Muốn kéo dài thời gian, muốn
sống lâu, thì chắc không được. Muốn Nhất đắc vĩnh đắc, cải lão hoàn
đồng, biến hoá phi thăng, thì không khó hay sao? Thật là đáng thương.
Cái cận thế tu hành chi đồ, vọng hữu chấp
trước, bất ngộ diệu pháp chi chân, khước oán thần tiên man ngữ. Thù bất
tri thành đạo giả giai nhân luyện kim đơn nhi đắc. Khủng tiết thiên cơ,
toại thác số sự vi danh, kỳ trung gian duy bế tức nhất pháp, như năng
vong cơ tức lự, tức dữ nhị thừa
toạ thiền tương đồng, nhược cần nhi hành chi, khả dĩ nhập định, xuất
thần. Nại hà tinh thần thuộc Âm, trạch xá
nan cố, bất miễn thường dụng thiên đồ chi pháp, ký vị đắc Kim Hống phản
hoàn chi đạo, hựu khởi năng hồi dương hoán cốt, bạch nhật nhi thăng
thiên tai?
蓋 近 世 修 行 之 徒,
妄 有 執 著,
不 遇 妙 法 之 真,
卻 怨 神 仙 謾 語,
殊 不 知 成 道 者 皆 因 煉 金 丹 而 得.
恐 泄 天 機,
遂 托 數 事 為 名,
其 中 間 惟 閉 息 一 法,
如 能 忘 機 息 慮,
即 與 二 乘 坐 禪 相 同,
若 勤 而 行 之,
可 以 入 定 出 神.
奈 何 精 神 屬 陰,
宅 舍 難 固,
不 免 常 用 遷 徒 之 法,
既 未 得 金 汞 返 還 之 道,
又 豈
能 回 陽 換 骨,
白 日 而 升 天 哉
?
Vì gần đây những kẻ tu hành, chấp trước
sai lầm, nên không ngộ được diệu pháp, lại còn oán thần tiên là nói sai.
Có biết đâu Thành Đạo là do luyện đan mà được. Sợ tiết lộ thiên cơ mới
mượn tiếng Số Sự. Trong đó có phép nín thở, nếu có thể vong cơ tuyệt lự,
là giống với nhị thừa (Âm thanh thừa, Duyên giác thừa). Nếu cần cù mà
hành động, thì có thể nhập định xuất thần. Tinh thần thuộc âm, cơ
thể không vững chắc, thì không thể cầu sống lâu. Đã chưa có được Kim
hống phản hoàn chi đạo, thì làm sao mà hồi dương hoán cốt, bạch nhật
thăng thiên được?
3. Phù luyện kim dịch hoàn đan giả, tắc
nan ngộ nhi dị thành, tu yếu động hiểu âm dương, thâm đạt tạo hoá,
phương năng truy nhị khí
vu Hoàng Đạo,
hội Tam Tính
vu Nguyên Cung,
toản thốc ngũ hành,
hoà hợp tứ tượng, Long Ngâm Hổ Khiếu, Phu xướng phụ tuỳ,
ngọc đỉnh
thang tiễn, kim lô
hoả sí, thuỷ đắc huyền châu
thành tượng, Thái Ất
qui chân, đô lai phiến hướng
công phu, vĩnh bảo vô cùng dật lạc.
夫
煉
金
液
還
丹
者,
則
難
遇
易
成,
須
要
洞
曉
陰
陽
深
達
造
化,
方
能
追
二
氣
于
黃
道,
會
三
性
于
元
宮
攢
簇
五
行,
和
合
四
象,
龍
吟
虎
嘯,
夫
唱
婦
隨,
玉
鼎
湯
煎,
金
爐
火
熾,
始
得
玄
珠
成
象,
太
乙
歸
真
都
來
片
餉
工
夫,
永
保
無
窮
逸
樂.
Còn luyện Kim Dịch hoàn đơn thì khó gặp
dễ thành, chỉ cần thâm hiểu Âm Dương, thông đạt Tạo Hoá, đem được Nhị
Khí (Nguyên Tinh, Nguyên Thần) vào hai mạch Nhâm Đốc, Hội Tam Tính (Mộc
Dịch, Kim Tinh, Thổ Ý) về Đơn Điền, toản thốc được Ngũ Hành, Hoà Hợp
được Tứ tượng, Long ngâm, Hổ khiếu, phu xướng phụ tuỳ, Ngọc Đỉnh (Nê
Hoàn cung) nước sôi, Kim Lô (Hạ Đơn điền) lửa bốc, thì sẽ được Huyền
Châu. Nguyên khí Thái Ất sẽ trở về trong chốc lát, sẽ đem lại vô cùng
dật lạc.
Chí nhược phòng nguy, lự hiểm, thận vu vận
dụng trừu thiêm.
Dưỡng chính trì doanh,
yếu tại thủ thư bão nhất,
tự nhiên phục Dương sinh chi khí, bác Âm sát chi hình, tiết khí ký chu,
thoát thai thần hoá, danh đề tiên tịch, vị hiệu Chân Nhân, thử nãi đại
trượng phu công thành danh toại chi thời dã.
至
若
防
危
慮
險
慎
于
運
用
抽
添.
養
正
持
盈.
要
在
守
雌
抱
一,
自
然
復
陽
生
之
氣,
剝
陰
殺
之
形,
節
氣
既
周,
脫
胎
神
化,
名
題
仙
籍,
位
號
真
人,
此
乃
大
丈
夫
功
成
名
遂
之
時
也.
Còn như Phòng Nguy, Lự Hiểm, Trừu Thiêm, Dưỡng Chính, Trì Doanh, Thủ
Thư Bão Nhất, Dương khí phục lai (Xem quẻ Phục), Âm chất tiêu tận (Xem
quẻ Bác), tiết khí hết vòng, thoát thai thần hoá, danh đề Tiên Tịch, vị
hiệu Chân nhân, thế là lúc trượng phu công thành danh toại vậy.
Kim chi học giả tắc thủ Diên Hống vi nhị
khí, chỉ tạng phủ vi Ngũ hành, phân Tâm Thận vi Khảm Ly, dĩ Can Phế vi
Long Hổ, dụng Thần khí vi tử mẩu, chấp Tân Dịch vi Diên Hống, bất thức
phù trầm,
ninh phân chủ khách,
hà dị nhận tha tài vi kỷ vật, hô biệt tính vi thân nhi, hựu khởi tri Kim
Mộc tương Khắc chi u vi,
Âm Dương hỗ dụng vi áo diệu. Thị giai Nhật Nguyệt thất đạo, Diên Hống dị
lô, dục vọng kết thành hoàn đơn, bất diệc viễn hồ.
今
之
學
者
則
取
鉛
汞
二
氣
指
臟
腑
為
五
行,
分
心
腎
為
坎
離,
以
肝
肺
為
龍
虎,
用
神
氣
為
子
母,
執
津
液
為
鉛
汞,
不
識
浮
沉,
寧
分
主
客,
何
異
認
他
財
為
己
物,
呼
別
姓
為
親
兒
; 又
豈
知
金
木
相
克
之
幽
微,
陰
陽
互
用
之
奧
妙.
是
皆
日
月
失
道
鉛
汞
異
爐,
欲
望
結
成
還
丹,
不
亦
遠
乎.
Học giả ngày nay, lấy Diên Hống nhị
khí, coi Ngũ tạng là Ngũ Hành, phân Tâm Thận là Khảm Ly, lấy Can Phế làm
Long Hổ, coi Thần Khí là Tử Mẫu, coi Tân Dịch là Diên Hống, không
hiểu phù trầm, không phân chủ khách, coi tài vật của người là của mình,
gọi con khác hộ là con mình, thì làm sao hiểu được lẽ Kim Mộc tương
khắc, hiểu được lẽ Âm Dương hỗ dụng huyền vi, thế là đi trái đường lối
Nhật Nguyệt, Thế là Diên Hống khác lò, thì làm sao mà luyện thành
Đơn được, còn xa vời lắm.
Bộc ấu thân thiện Đạo, thiệp liệp Tam Giáo
kinh thư, dĩ chí hình pháp, thư toán, y bốc, chiến trận, thiên văn, địa
lý, cát hung, tử sinh chi thuật, mỹ bất lưu tâm tường cứu. Duy Kim Đơn
nhất pháp, duyệt tận quần kinh cập chư gia, ca thi luận khế, giai vân
Nhật hồn Nguyệt phách,
Canh Hổ Giáp Long, Thuỷ Ngân Châu Sa, Bạch Kim Hắc Tích, Khảm Nam Ly Nữ
năng thành Kim Dịch Hoàn Đơn, chung bất ngôn Chân Diên, Chân Hống thị hà
vật sắc, bất thuyết hoả hầu pháp độ, ôn dưỡng chỉ qui, gia dĩ hậu thế mê
đồ tứ kỳ ức thuyết, tương tiên thánh điển giáo vọng hành tiên chú, quai
ngoa vạn trạng, bất duy vặn loạn tiên kinh, ức diệc cảm ngộ hậu học. Bộc
dĩ chí nhân vị ngộ, khẩu quyết nan phùng, toại chí tẩm thực bất an, tinh
thần bì tuỵ, tuy tuân cầu biến vu hải nhạc, thỉnh ích tận vu hiền ngu,
giai mạc năng thông hiểu chân tông, khai chiếu tâm phủ. Hậu chí Hi Ninh
nhị niên (1069), Kỷ Dậu tuế, nhân tuỳ Long Đồ Lục Công,
nhập Thành Đô,
dĩ túc chí bất hồi, sơ thành dũ khác, toại cảm Chân Nhân, thụ Kim Đơn
dược vật, hoả hầu chi quyết, kỳ ngôn thậm giản, kỳ yếu bất phiền, khả vị
chỉ lưu tri nguyên, ngữ nhất ngộ bách, vụ khai nhật oánh, trần tận giám
minh, hiệu chi đơn kinh, nhược hợp phù khế.
仆
幼
親
善
道
涉
獵
三
教
經
書
以
至
刑
法
書
算
醫
卜
戰
陣
天
文
地
理
吉
凶
死
生
之
術,
靡
不
留
心
詳
究.
唯
金
丹
一
法
閱
盡
群
經
及
諸
家
歌
詩
論
契,
皆
云
日魂月
魄,
庚
虎
甲
龍,
水
銀
朱
砂,
白
金
黑
錫,
坎
男
離
女,
能
成
金
液
還
丹,
終
不
言
真
鉛
真
汞
是
何
物
色
不
說
火
候
法
度,
溫
養
指
歸
;加
以
後
世
迷
徒
恣
其
臆
說,
將
先
聖
典
教
妄
行
箋
注,
乖
訛
萬
狀,
不
惟
紊
亂
仙
經,
抑
亦
感
誤
後
學.
仆
以
至
人
未
遇
口
訣
難
逢,
遂
至
寢
食
不
安,
精
神
疲
悴, 雖
詢
求
遍
于
海
岳,
請
益
盡
于
賢
愚,
皆
莫
能
通
曉
真
宗,
開
照
心
腑.
後
至
熙
寧
二
年
己
酉
歲,
因
隨
龍
圖
陸
公
入
成
都
以
夙
志
不
回
初
誠
愈
恪,
遂
感
真
人
授
金
丹
藥
物,
火
候
之
訣
其
言
甚
簡,
其
要
不
繁,
可
謂
指
流
知
源,
語
一
悟
百,
霧
開
日
瑩,
塵
盡
鑒
明,
校
之
丹
經,
若
合
符
契.
Kẻ hèn này, từ nhỏ đã học Tam Giáo kinh
thư, ngoài ra còn lưu tâm đọc các sách về hình pháp, thư toán, y bốc,
chiến trận, thiên văn, địa lý, cát hung sinh tử chi thuật. Duy về sách
Kim Đan, thì đã đọc quần kinh, lại đọc ca thi, luận khế của chư gia, đều
nói về Nhật hồn Nguyệt phách (Can Mộc chi Hồn, là Ly trung hư; Nguyệt
phách là Khảm trung mãn, là Phế Kim chi phách), Canh Hổ, Giáp Long (Canh
ở phía Tây, Hổ là Bạch Hổ, chỉ Phế Kim chi Hồn. Giáp ở phía Đông, Long
là Thanh Long chỉ Can Mộc chi Hồn), Thuỷ Ngân, Chu Sa, Bạch Kim, Hắc
tích, Khảm Nam. Ly Nữ (Khảm dụ Thận, Ly chủ Tâm, Khảm là Trung Nam, Ly
là Trung Nữ), có thề thành Kim Dịch Hoàn Đan, cuối cùng không nói Chân
Hống, Chân Diên màu sắc ra sao, không nói về hoả hầu pháp độ, không dạy
Ôn Dưỡng ra sao, rồi ra sau này kẻ mê loạn nghĩ quàng xiên, chú thích
lung tung lời tiên thánh, sai ngoa trăm điều, làm cho kinh thư bị vấn
loạn, làm cho kẻ hậu học bị sai lầm.
Kẻ hèn
này chưa gặp Chí Nhân, chưa biết khẩu quyết, cho nên ăn uống không yên,
thân hình tiều tuỵ. Tuy tôi đã hỏi han cầu khẩn khắp mọi nơi non cao bể
thẳm, tìm xin lời dạy bổ ích nơi các bậc hiền minh, cũng không hiểu được
chân tông, phế phủ cũng chưa được khai chiếu. Mãi đến năm Kỷ Dậu, Hi
Ninh thứ 2, nhân theo Long Đồ Học Sĩ Lục Sằn (1012-1070) thoái chuyển,
mới đầu thành tâm, ngày càng kính cẩn, nên cảm được Chân Nhân,
được Hải Thiềm truyền cho Kim Đơn dược
vật, bí quyết hoả hầu. Lời nói thật giản dị, không phiền toái, y như chỉ
sông rồi tìm ra nguồn. Nói một hiểu trăm, mây mù vẹt di, lộ ra trời
quang sáng, bụi bặm hết, gương sáng choang. So vào đan kinh, thấy đúng
không sai.
Nhân niệm thế chi học Tiên giả thập hữu
bát cửu, nhi đạt chân yếu giả vị văn nhất nhị. Bộc ký ngộ chân thuyên,
an cảm ẩn mặc, khánh sở đắc thành luật thi Cửu Cửu Bát Thập Nhất Thủ,
hiệu viết Ngộ Chân Thiên, nội thất ngôn tứ vận Nhất Thập Lục Thủ, dĩ
biểu Nhị Bát chi số, Tuyệt cú Lục Thập Tư Thủ, án Chu chư quái, Ngũ Ngôn
Nhất Thủ, tượng vi Thái Ất, tục thiêm Tây Giang Nguyệt Nhất Thập Nhị
Thủ, dĩ chu Tuế luật. Kỳ như Đỉnh Khí tôn ti, dược vật cân lạng, hoả hầu
tiến thoái, chủ khách hậu tiên, tồn vong hữu vô, cát hung hối lận, tất
bị kỳ trung hĩ. Vu Bản Nguyên Chân Giác chi Tính hữu sở vị tận, hựu tác
vi ca tụng nhạc phủ cập tạp ngôn đẳng, phụ chi quyển mạt, thứ kỷ đạt Bản
Minh Tính chi Đạo, tận vu thử hĩ. Sở kỳ đồng chí giả lãm chi, tắc kiến
Mạt nhi ngộ Bản, xả vọng dĩ tòng chân.
因
念
世
之
學
仙
者
十
有
八
九,
而
達
真
要
者
未
聞
一
二.
仆
既
遇
真
詮,
安
感
隱
默,
罄
所
得
成
律
詩
九
九
八
十
一
首,
號
曰
悟
真
篇,
內
七
言
四
韻
一
十
六
首,
以
表
二
八
之
數,
絕
句
六
十
四
首,
按
周
諸
卦
;五
言
一
首,
以
象
太
乙
; 續
添
西
江
月
一
十
二
首,
以
周
歲
律.
其
如
鼎
器
尊
卑,
藥
物
斤
兩,
火
候
進
退,
主
客
後
先,
存
亡
有
無,
吉
凶
悔
吝,
悉
備
其
中
矣.
于
本
源
真
覺
之
性
有
所
未
盡,
又
作
為
歌
頌
樂
府
及
雜
言
等.
附
之
卷
末,
庶
幾
達
本
明
性
之
道
盡
于
此
矣.
所
期
同
志
覽
之,
則
見
末
而
悟
本,
舍
妄
以
從
真.
Nhân
nghĩ rằng ngày nay người học Tiên Đạo mười người may ra được vài người
nắm được yếu quyết. Kẻ hèn này nắm được Chân Thuyên, Chân Lý, nên
không dám dấu diếm, tận hết sở đắc để viết ra 81 bài thơ, gọi là Ngộ
Chân Thiên. Trong đó, Thất Ngôn
tứ tuyệt có 16 bài, tượng trưng cho hai số: Nhị Bát. Tuyệt cú có 64 bài,
theo như 64 quẻ Dịch. Ngũ ngôn có 1 bài, tượng trưng Thái Cực. Thêm vào
đó lại có Tây Giang Nguyệt 12 bài cho đủ 12 tháng, Còn như Đỉnh khí tôn
ti, Dược vật cân lạng, hoả hầu tiến thoái, chủ khách trước sau, tồn vong
hữu vô, cát hung hối lận, đều đủ bên trong. Còn về Tính Bản Nguyên
Chân Thường sợ nói chưa hết lời, nên lại làm thêm ca tụng nhạc phủ,
phụ thêm nơi cuối sách, để có thể biết Đạo Đạt Bản, Minh Tính, nói cả ở
trong. Mong rằng các đồng chí sau đọc sách này, Thấy Ngọn sẽ biết Gốc,
bỏ Vọng mà Cầu Chân vậy.
Thời Hi Ninh Ất Mão tuế đán (1075), Thiên
Thai Trương Bá Đoan, Bình Thúc tự.
時
熙
寧
乙
卯
歲
旦.
天
台
張
伯
端
平
叔
序.
Hi Ninh Ất Mão, sáng Mồng Một
đầu năm, Thiên Thai Trương Bá Đoan Bình Thúc đề tựa.
Ngộ Chân Thiên hậu tự
悟 真 篇 後 序
Thiết dĩ nhân chi sinh dã, giai duyên vọng
tình
nhi hữu kỳ thân, hữu kỳ thân tắc hữu hoạn.
Nhược vô kỳ thân, hoạn tòng hà hữu?
竊
以
人
之
生
也, 皆
緣
妄
情
而
有
其
身,
有
其
身
則
有
患.
若
無
其
身,
患
從
何
有
?
Xem đời sống con người, đều do
vọng tình nên mới có thân, có thân là có nguy hiểm, nếu không có thân,
thì làm gì có hoạ hoạn.
Phù dục
miễn phù hoạn giả, mạc nhược thể (lĩnh hội) phù Chí Đạo.
Dục thể phù chí đạo, mạc nhược minh phù bản tâm. Cố tâm giả, Đạo chi thể
dã, Đạo giả tâm chi dụng dã. Nhân năng sát tâm, quan tính, tắc viên minh
chi thể tự hiện,
Vô Vi chi dụng tự thành. Bất giả thi
công, đốn siêu bỉ ngạn. Thử phi tâm kính lãng nhiên, thần châu khuếch
minh, tắc hà dĩ sử chư tướng đốn ly, tiêm trần bất nhiễm, tâm nguyên tự
tại, quyết định vô sinh giả tai.
夫
欲
免
夫
患
者,
莫
若
體
夫
至
道.
欲
體
夫
至
道
莫
若
明
夫
本
心.
故
心
者
道
之
體
也.
道
者
心
之
用
也.
人
能
察
心
觀
性,
則
圓
明
之
體
自
現,
無
為
之
用
自
成,
不
假
施
功,
頓
超
彼
岸.
此
非
心
鏡
朗
然,
神
珠
廓
明,
則
何
以
使
諸
相
頓
離
纖
塵
不
染,
心
源
自
在
決
定
無
生
者
哉.
Muốn hết hoạ hoạn thì thì phải hiểu chí
Đạo (hiểu biết lẽ thâm sâu của Đạo). Muốn hiểu chí Đạo thì phải biết rõ
Bản Tâm. Cho nên Tâm là Thể của Đạo, Đạo là dụng của tâm. Người biết sát
Tâm quan Tính, thì sẽ thấy thể tính viên minh của mình, sẽ thấy
cái Dụng của Đạo Vô Vi (thấy mình với vạn hữu là một), không phí
sức dụng công, và lập tức bước sang bỉ ngạn, không nhiễm trần ai, tâm
linh tự tại, sẽ đạt được vô sinh.
Nhiên kỳ Minh Tâm Thể Đạo chi sĩ, thân bất
năng luỵ kỳ Tính, cảnh bất năng loạn kỳ chân, tắc đao binh ô năng
thương, hổ huỷ ô năng hại,
cự phần đại tẩm, ô túc vi ngu. Đại
nhân tâm nhược minh kính, giám nhi bất nạp, tùy cơ ứng vật, hoà nhi bất
xướng, cố năng thắng vật nhi vô
thương dã,
thử sở vị Vô Thượng chí chân chi diệu
Đạo dã.
然
其
明
心
體
道
之
士
身
不
能
累
其
性
境
不
能
亂
其
真,
則
刀
兵
烏
能
傷,
虎
兕
烏
能
害,巨
焚
大
浸
烏
足
為
虞.
大
人
心
若
明
鏡,
鑑
而
不
納,
隨
機
應
物,
和
而
不
唱,
故
能
勝
物
而
亡
傷
也,
此
所
謂
無
上
至
真
之
妙
道
也.
Những người minh tâm thể đạo, thì thân
không luỵ được Tính, cảnh không loạn được Tâm, đao binh không thể thương
hại, tê hổ không thể hại được mình, không lo bị nước lửa. Bậc chí
nhân Tâm như minh kính, soi vạn sự mà không chấp trước, tuỳ cơ ứng vật,
hoà mà không đề xướng, nên thắng vật mà không bị thương tổn. Đó là Đạo
Vô Thượng chí chân chí diệu vậy.
Nguyên kỳ Đạo bản vô danh, thánh nhân
cưỡng danh. Đạo bản vô ngôn, thánh nhân cưỡng ngôn nhĩ. Nhiên tắc Danh,
Ngôn nhược tịch, tắc thời lưu vô dĩ thức kỳ thể nhi qui kỳ chân, thị dĩ
thánh nhân thiết giáo lập ngôn dĩ hiển kỳ đạo. Cố Đạo nhân Ngôn nhi hậu
hiển, ngôn nhân Đạo nhi phản vong, nại hà? Thử Đạo chí diệu chí vi, thế
nhân căn tính mê độn, chấp kỳ hữu thân nhi ố tử duyệt sinh, cố tốt nan
liễu ngộ. Hoàng Lão bi kỳ tham trước nãi dĩ tu sinh chi thuật thuận kỳ
sở dục, tiệm thứ đạo chi, dĩ tu sinh chi yếu tại Kim Đơn. Kim Đơn chi
yếu tại hồ Thần Thuỷ,
Hoa Trì.
Cố Đạo Đức, Âm Phù chi giáo đắc dĩ thịnh hành vu thế hĩ.
原
其
道
本
無
名
聖
人
強
名.
道
本
無
言
聖
人
強
言
耳.
然
則
名
言
若
寂.
則
時
流
無
以
識
其
體
而
歸
其
真,
是
以
聖
人
設
教
立
言
以
顯
其
道.
故
道
因
言
而
後
顯,
言
因
道
而
反
忘.
奈
何.
此
道
至
妙
至
微.
世
人
根
性
迷
鈍,
執
有
其
身
而
惡
死
悅
生.
故
卒
難
了
悟.
黃
老
悲
其
貪
著
乃
以
修
生
之
術
順
其
所
欲,
漸
次
導
之.
以
修
生
之
要
在
金
丹.
金
丹
之
要
在
乎
神
水
華
池.
故
導
德
陰
符
之
教
得
以
盛
行
于
世
矣.
Đạo
vốn vô danh, thánh nhân gượng đặt tên. Đạo vốn không lời, thánh nhân
gượng đặt lời. Nếu như không tên, không lời, thì người đời làm sao biết
được bản thể mình, làm sao trở về được chân lý. Cho nên thánh nhân thiết
giáo, lập ngôn để hiển Đạo, cho nên Đạo có lời mới sáng tỏ. Lời vì Đạo
là sau mất, làm sao cái Đạo chí diệu, chí vi, thế nhân
căn tính cùn nhụt, chấp trước thân mình tham sống, sợ chết, đến chết
cũng không giác ngộ. Hoàng Đế, Lão Tử thương họ tham luyến, chấp trước,
cho nên nương theo sở dục của họ, mà từ từ dẫn đưa họ, và cho rằng tu
sinh cần biết luyện đan. Kim Đơn chi yếu cốt tại Thần Thủy, Hoa Trì, cho
nên Đạo Đức Kinh và Âm Phù thịnh hành trên đời.
Cái nhân duyệt kỳ sinh dã, nhiên kỳ ngôn
ẩn nhi lý áo, học giả tuy phúng tụng kỳ văn, giai mạc hiểu kỳ nghĩa.
Nhược bất ngộ chí nhân thụ chi khẩu quyết, túng sủy lượng bách chủng,
chung mạc năng trợ kỳ công nhi thành kỳ sự, khởi phi học giả phân như
ngưu mao, nhi đạt giả nãi như lân giác da.
蓋
人
悅
其
生
也,
然
其
言
隱
而
理
奧.
學
者
雖
諷
誦
其
文
皆
莫
曉
其
義.
若
不
遇
至
人
授
之
口
訣
縱
揣
量
百
種,
終
莫
能
助
其
功
而
成
其
事.
豈
非
學
者
紛
如
牛
毛
而
達
者
乃
如
麟
角
耶.
Vì
người ham sống, nên lời kinh ẩn mà lý thì sâu, học giả tuy đọc được lời
văn, nhưng không rõ ý nghĩa. Nếu không gặp chí nhân truyền
khẩu quyết, thì sẽ tán vụn sách ra làm trăm loại, cuối cùng công chẳng
thành, sự chảng nên, thảo nào người bước
vào đường tu thì đông như lông trâu, mà người đạt đạo ít như sừng lân
vậy.
Bá Đoan hướng Kỷ Dậu tuế,
vu Thành Đô ngộ sư truyền thụ Đơn Pháp, tự hậu tam truyền phi nhân tam
tao hoạ hoạn, giai bất du lưỡng tuần, cận phương truy ức tiên sư chi sở
giới vân: Dị nhật hữu nhữ giải cương thoát toả giả, đương nghi thụ chi,
dư giai bất hứa, nhĩ hậu dục giải danh tịch, nhi hoạn thử đạo nhân bất
tri tín, toại soạn thử «Ngộ Chân Thiên», tự đơn pháp bản mạt, ký thành
nhi cầu học giả thấu nhiên nhi lai, quan kỳ ý cần cừ, tâm bất nhẫn lận,
nãi trạch nhi thụ chi, nhiên nhi sở thụ giả giai phi hữu cự thế cường
lực, năng trì nguy chửng nịch, khẳng khái đặc đạt, năng nhân minh Đạo
chi sĩ, sơ tái li hoạ hoạn, tâm do vị tri, cánh trí vu tam, nãi tỉnh
tiền quá.
伯
端
向
己
酉
歲
于
成
都
遇
師
傳
授
丹
法.
自
後
三
傳
非
人
三
遭
禍
患,
皆
不
逾
兩
旬.
近
方
追
憶
先
師
之
所
戒
云
:異
日
有
汝
解
韁
脫
鎖
者.
當
宜
授
之余
皆
不
許.
爾
後
欲
解
名
籍,
而
患
此
導
人
不
知
信
遂
撰
此
悟
真
篇
敘
丹
法
本
末,
既
成,
而
求
學
者
輳
然
而
來,
觀
其
意
勤
渠,
心
不
忍
吝.
乃
擇
而
授
之,
然
而
所
授
者皆
非
有
巨
勢
強
力
能
池
危
拯
溺,
慷
慨
特
達,
能
明
道
之
士,
初
再
罹
禍
患,
心
猶
未
知
竟
至
于
三,
乃
省
前
過.
Bá Đoan vào năm Kỷ Dậu (1069) vào Thành
Đô, gặp được Chân Sư truyền Đơn Pháp. Sau đó 3 lần truyền cho những
người không ra gì, ba lần bị hoạ hoạn, đều không quá 2 tuần. Năm nay,
tôi bị nhọt sinh sau lưng, mới nhớ lời thày răn dạy rằng: Sau này
sẽ có người giúp con thoát vòng cương toả lợi danh, thì phải truyền đạo
cho hắn, ngoài ra không truyền cho ai. Sau này nếu ngươi muốn thoát vòng
hoạn lộ, nhưng lại sợ đạo sĩ đó không tin, thì hãy viết quyển «Ngộ Chân
Thiên», dạy đầu đuôi Đan Kinh. Sau khi viết xong sẽ có nhiều người đến
xin cầu học. Xem xét nếu họ thành khẩn, thì chọn mà truyền. Tuy nhiên
những người được truyền thụ không phải là những kẻ có thế, có
sức, có thể phò nguy trợ nịch, khẳng khái đặc đạt, có thể là những người
hiểu biết đạo. Phạm lần thứ 2 lại gặp hoạ hoạn, tâm còn chưa biết, tới
lần thứ ba, mới hối lỗi lầm xưa.
Cố tri Đại Đơn chi pháp chí giản chí dị,
tuy ngu muội tiểu nhân đắc nhi hành chi, tắc lập siêu thánh địa. Thị dĩ
Thiên Ý bí tích, bất hứa khinh truyền ư phỉ nhân dã. Nhi Bá Đoan bất
tuân sư ngữ, lũ tiết thiên cơ, dĩ hữu kỳ thân cố mỗi ưng khiển hoạn, thử
thiên chi thâm giới như thử chi thần thả tốc, cảm bất khủng cụ khắc
trách. Tự kim dĩ vãng, đương kiềm khẩu, kết thiệt, tuy dĩnh hoạch cư
tiền, đạo kiếm gia hạng, diệc vô phục cảm ngôn hỉ. Thử «Ngộ Chân Thiên» trung sở ca vịnh Đại Đơn, dược vật, hoả hầu tế vi chi chỉ, vô bất bị
tất.
故
知
大
丹
之
法
至
簡
至
易,
雖
愚
昧
小
人
得
之
行
之,
則
立
超
聖
地.
是
以
天
意
秘
惜,
不
許
輕
傳
於
匪
人
也.
而
伯
端
不
遵
師
語,
屢
泄
天
機,
以
有
其
身
故
每
膺
遣
患,此
天
之
深
誡
如
此
之
神
且
速
敢
不
恐
懼
克
責,
自
今
以
往,
當
鉗
口
結
舌,
雖
鼎
鑊
居
前刀劍
加
項,亦
無
復
敢
言
矣.
此
悟
真
篇
中
所
歌
詠
大
丹
藥
物
火
候
細
微
之
旨,
無
不
備
悉.
Vì biết rằng Phép luyện Đại Đơn
chí giản, chí dị, cho nên dù ngu phu biết mà thi hành cũng lập tức siêu
xuất thánh vị. Vì Thiên ý muốn giữ những điều huyền bí nên không muốn
khinh truyền cho những kẻ không ra gì. Vì Bá Đoan không tuân lời thày,
tiết lộ Thiên Cơ, nên đã bị khiển trách và hoạ hoạn. Trời cấm đoán
nghiêm ngặt và trừng phạt rất thần tốc, không thể không sợ hãi. Từ nay
về sau, tôi ngậm miệng khoá lưỡi, dẫu là vạc dầu trước mặt, dao kiếm kề
cổ cũng không dám nói nữa. Quyển «Ngộ Chân Thiên» này trong đó các bài
ca vịnh về Đại Đơn, Dược Vật, Hoả Hầu đã mô tả rất chi tiết, đầy
đủ.
Hảo sự giả túc hữu tiên cốt, quan chi tắc
trí lự tự minh, khả dĩ tầm văn giải nghĩa, khởi tu Bá Đoan khu khu chi
khẩu thụ hĩ? Như thử, nãi Thiên chi sở tứ, phi Bá Đoan chi triếp truyền
dã. Như kỳ thiên mạt ca tụng, đàm kiến tính chi Pháp chi pháp, tức
thượng chi sở vị Vô Thượng Diệu Giác chi Đạo dã, Nhiên Vô Vi chi Đạo, tề
vật vi Tâm, tuy hiển bí yếu, chung vô quá cữu. Nại hà phàm phu Duyên
nghiệp hữu hậu bạc, tính căn hữu lợi độn, túng văn nhất âm, phân thành
dị kiến, cố Thích Ca, Văn Thù sở diễn pháp bảo, vô phi nhất thừa, nhi
thính giả tuỳ lượng hội giải, tự nhiên thành tam thừa chi sai.
Thử hậu nhược hữu tính căn mãnh lợi chi sĩ kiến văn thử thiên, tắc tri
Bá Đoan đắc Đạt Ma, Lục Tổ tối thượng nhất thừa chi diệu chỉ, khả nhân
nhất ngôn nhi ngộ vạn pháp dã. Như kỳ tập khí thượng dư, tắc qui Trung
Tiểu chi kiến, diệc phi Bá Đoan chi cữu hĩ.
好
事
者
夙
有
仙
骨,
觀
之
則
智
慮
自
明
可
以
尋
文
解
義,豈
須
伯
端
區
區
之
口
授
矣.
如
此
乃
天
之
所
賜,
非
伯
端
之
輒
傳
也.
如
其
篇
末
歌
頌,
談
見
性
之法,
即
上
之
所
謂
無
上
妙
覺
之
道
也.
然
無
為
之
道,齊
物
為心,
雖
顯
秘
要,
終
無
過
咎.
奈
何
凡
夫
緣
業
有
厚
薄,
性
根
有
利
鈍,
縱
聞
一
音,
紛
成
異
見.
故
釋
迦
文
殊
所
演
法
寶,
無
非
一
乘,
而
聽
者
隨
量
會
解
自
然
成
三
乘
之
差.
此
後
若
有
性
根
猛
利
之
士
見
聞
此
篇
則
知
伯
端
得
達
摩,
六
祖
最
上
一
乘
之
妙
旨
可
因
一
言
而
悟
萬
法
也.
如
其
習
氣
尚
餘,
則
歸
中
小
之
見,
亦
非
伯
端
之
咎
矣.
Những người có Tiên Cốt, đọc lên sẽ tự nhiên thấy sáng tỏ, theo lời sẽ
hiểu nghĩa, cần chi phải có Bá Đoan chỉ vẽ từng lời đâu? Như vậy là Trời
cho, không phải Bá Đoan truyền. Còn như nơi cuối Thiên bàn về Kiến Tánh
chi Pháp, mà như trên đã gọi là Vô Vi Diệu Pháp chi Đạo. Mà Vô Vi Diệu
Pháp là tâm Tề Vật (coi muôn vật là bình đẳng), tuy nói lên mọi điều bí
yếu, nhưng không có lầm sai.
Vì chúng sinh Duyên nghiệp có dày mỏng,
căn cơ, bản tính có bén nhọn, cùn nhụt khác nhau, như nghe một lời, lại
có nhiều dị kiến. Cho nên Đức Thích Ca, Đức Văn Thù đem đạo dạy người,
chỉ truyền Nhất Thừa, nhưng học giả cứ hiểu thành Tam Thừa.
Như sau này có những độc giả có căn tính
mãnh liệt sẽ thấy Bá Đoan đã theo được Tối Thượng Thừa diệu chỉ của Ngài
Đạt Ma và Ngài Huệ Năng, từ một lời của các Ngài mà ngộ cả Vạn Pháp. Còn
những kẻ hạ căn đầy tập khí chỉ thấy bàn về Trung Thừa, Tiểu Thừa, như
vậy đâu phải lỗi của Bá Đoan?
Thời Nguyên Phong cải nguyên Mậu Ngọ tuế
(1078) trọng Hạ nguyệt, Mậu Dần Nhật, Trương Bá Đoan Bình Thúc tái tự.
時 元 豐 改 元 戊 午 歲 仲 夏 月 戊 寅 日, 張 伯 端 平 叔 再 序.
Năm Khai Phong cải nguyên năm Mậu Ngọ
(1069), tháng Trọng Hạ (tháng 5), ngày Mậu Dần, Trương Bá Đoan, Bình
Thúc tái tự.
.TIỂU SỬ TRƯƠNG BÁ ĐOAN.
Trương Bá Đoan (987-1082) sinh vào đời vua
Thái Tông nhà Tống (Ung Hi 4), mất vào đời Tống Thần Tông Nguyên Phong
5), 97 tuổi.
Ông người Bắc Tống, ở Thiên Thai (là Lâm
Hải Tỉnh Chiết Giang), tự Bình Thúc, hiệu Tử Dương, Tử Dương tiên nhân,
sau đổi là Dụng Thành. Ông hiếu học từ bé, tham bác Tam Giáo quần kinh.
Đỗ tiến sĩ, năm Hi Ninh 2 (1069) ông từ Quế Lâm về Thành Đô, theo truyền
thuyết đã gặp Lưu Hải Thiềm, và đã được truyền cho khẩu quyết Kim Dịch
Hoàn Đan. Năm Hi Ninh 8 (1075) ông viết Ngộ Chân Thiên, xiển minh phương
pháp tu luyện Nội đan.
Ông chủ trương Tam Giáo Nhất Lý, viện Nho
dẫn Phật, lấy Tính Mệnh Song Tu làm đại chỉ, lấy thân thể làm đỉnh lô,
lấy Tinh Khí làm dược vật, lấy Thần làm hoả hầu, khiến Tinh Khí ngưng tụ
bất tán, kết thành Kim Đơn, đồng thời kế thừa phương pháp luyện nội Đan
của Trần Đoàn chia công phu Luyện Dưỡng thành 4 giai đoạn: Trúc cơ,
luyện Tinh hoá khí, luyện Khí hoá Thần, luyện Thần hoàn hư. Ông chủ
trương tiên tu Mệnh, hậu Tu Tính, thâm cứu Bản Nguyên Chân Giác chi
tính. Ông là tổ sư Tử Dương Phái của Nam Tông. Ngoài ra ông còn
viết: Kim Đan Tứ Bách Tự, toát lược phương pháp Tu Luyện Nội Đan,
giải thích nội đan thuật ngữ, nghiên cứu Phật Kinh Thiền Thoại và viết
Thiền Tông Thi kệ, 32 bài thơ. Học trò ông là Vương Bang Thúc
cũng có viết quyển: Ngọc Thanh Kim Tư thanh hoa bí văn kim bảo nội
đơn thư quyết (1 bộ 3 quyển). Sau thời Nam Tống ông được xưng là Nam
Tông tổ sư.
Trương Bá Đoan đề cao Minh Tính. Ông nhận
ra rằng: Phật, Lão, Dịch chủ trương minh tính (minh tâm kiến tính
(Phật), Tính Mệnh song tu (Lão), Cùng Lý, tận Tính (Dịch), cho nên tuy
Giáo thì có 3, mà Đạo chỉ có một. Sau khi viết Ngộ Chân Thiên
xong, Ông thấy cần thâm cứu về Tính Bản Nguyên Chân Thường, nên
ông đọc Truyền Đăng Lục, và viết: Tôi nhờ đọc tối thượng nhất
thừa của Đạt Ma và Lục tổ nên có thể nhân một lời mà ngộ được Vạn Pháp.
Ông chủ trương Tu Tính trước Tu Mệnh sau.
Ông còn cho rằng: Đạo tự Hư Vô sinh Vạn Vật đó là quá trình thuận sinh,
còn đạo Kim Đơn thì ngược lại, nghĩa là phải Phục Qui Hư Vô, dữ Đạo hợp
nhất.
Đại đạo diệu dụng pháp Kiền Khôn,
Kiền Khôn vận hề, ngũ hành phân.
Ngũ hành thuận hề: Thường Đạo hữu sinh, hữu tử,
Ngũ hành nghịch hề, Đơn thể thường linh, thường tồn.
Ông cho rằng: Đạo giáo dạy tu luyện hình
khí là Tu Mệnh. Thiền Tông dạy Minh Tâm Kiến Tính chính là Luyện Thần
Hoàn Hư của Đơn Đạo. Đó là Tu Tính.
.THẤT NGÔN LUẬT THI
THẬP LỤC THỦ DĨ BIỂU
NHỊ BÁT CHI SỐ
七 言 律 詩 七 十 六 首 以 表 二 八 之 數
Nhị bát là 16. Một tháng có Thượng Huyền
là Thuỷ Trung Chi Kim 8 lạng. Hạ huyền là Kim trung chi Thuỷ 8 lạng.
Cộng lại là 1 cân. Kim Thuỷ bằng nhau, Ánh sáng không thiên lệch bên
nào, thật là Chí Trung, Chí Chính. Đơn pháp phỏng theo tượng Nhị huyền.
Người tu Đại Đạo lấy Âm trung chi Dương là Chân Dương, tức là Thượng
Huyền. Lấy Dương trung chi Âm là Chân Âm, tức Hạ Huyền. Âm trung chi
Dương, Dương với Âm hoà. Dương trung chi Âm, Âm với Dương hoà. Chân Âm
Chân Dương tương hoà, hợp nhau thành Một. Thế là Nhị Bát nhất cân, Kim
Đơn thành tượng.
16 bài thơ Đường luật, cốt nói lên chuyện
này.
Bài 1
Bất cầu Đại Đạo xuất mê đồ,
不
求
大
道
出
迷
途
Túng phụ hiền tài khởi trượng phu.
縱
負
賢
才
豈
丈
夫
Bách tuế quang âm thạch hoả thước,
百
歲
光
陰
石
火
爍
Nhất sinh nhân thế thủy bào phù.
一
生
人
世
水
泡
浮
Chỉ tham lợi lộc cầu vinh hiển,
只
貪
利
祿
求
榮
顯
Bất cố hình dung ám tuỵ khô.
不
顧
形
容
暗
悴
枯
Thí vấn đôi kim như Đại Nhạc,
試
問
堆
金
如
岱
嶽
Vô thường mãi đắc bất lai vô?
無
常
買
得
不
來
無
Tạm dịch:
Không cầu Đại Đạo thoát mê đồ,
Phụ lòng hiền thánh, há trượng phu.
Chớp mắt, trăm năm, lửa trong đá,
Một đời thấm thoát tựa bào phù.
Chỉ tham lợi lộc cầu vinh hiển,
Chẳng quản hình dung cứ teo khô.
Ví như vàng bạc nhiều như núi,
Cấm nổi Vô Thường chẳng xông vô?
Bài 2
Nhân sinh tuy hữu bách niên kỳ,
人
生
雖
有
百
年
期
Yểu thọ cùng thông mạc dự tri,
夭
壽
窮
通
莫
預
知
Tạc nhật nhai đầu do tẩu mã,
昨
日
街
頭
猶
走
馬
Kim triêu quan nội dĩ miên thi.
今
朝
棺
內
已
眠
屍
Thê tài phao hạ phi quân hữu,
妻
財
拋
下
非
君
有
Tội nghiệp tương hành nan tự khi.
罪
業
將
行
難
自
欺
Đại dược bất cầu chân đắc ngộ,
大
藥
不
求
真
得
遇
Ngộ chi bất luyện thị ngu si.
遇
之
不
煉
是
愚
痴
Tạm dịch:
Nhân sinh tuy tuổi có trăm năm,
Thọ yểu, cùng thông khó hiểu phăng.
Hôm qua còn giỡn như ngựa chạy,
Sáng nay, thi thể đã nhập quan.
Tiền bạc vợ con đâu của bạn,
Tội nghiệp mang theo, bỏ được chăng?
Đại dược nếu may mà gặp được,
Gặp mà không luyện, thật điên khùng.
Thế nhân tranh danh đoạt lợi, ngày đêm
không ngừng, cho rằng mình sẽ sống lâu, có thể hưởng thụ, an lạc lâu
dài. Họ có biết đâu là tuổi thọ của trời, rủi may, được mất, con người
không dự tri được. Đừng nói ít người sống được trăm tuổi. Có sống 100
tuổi rồi cũng chết chôn trong hoang dã. Thường thấy con người còn mất vô
thường. Có người đang đi trên đường, đang nói cười thế mà bị bạo bệnh
chết. Thật là vô số.
Ôi! Khi mở mắt thì vợ con là của ta, tiền
tài là của ta, khi nhắm mắt lại thì vạn sự đều không. Tất cả đều không
mang đi được. Chỉ thấy rơi vào vạn ban tội lệ, tất cả đều gánh lấy mang
đi. Chi bằng sớm tỉnh ngộ. Mau tìm chân sư, mau tìm chân dược. Thảng
hoặc mà có cơ duyên gặp được Đại Dược, thì thật là đại phúc, thật là có
đại căn cơ, hãy mãnh lực tu luyện, tức là có thể xuất tử, nhập sinh,
thoát khỏi vô thường. Nếu đã gặp thày hay mà không hạ quyết tâm tu
luyện, thì như vậy là tự huỷ hoại mình, là người ngu si, và cũng y thực
như những người chưa tỉnh ngộ. Cuối cùng cũng là táng vong mà thôi. Có
gì hay đâu là phải biết?
Bài 3
Học tiên Tu thị học Thiên Tiên,
學
仙
須
是
學
天
仙
Duy hữu Kim Đan tối đích đoan.
惟
有
金
丹
最
的
端
Nhị vật hội thời Tình Tính hợp
二
物
會
時
情
性
合
Ngũ hành toàn xứ Hổ Long bàn,
五
行
全
處
虎
龍
蟠
Bản nhân Mậu Kỷ vi mưu sính,
本
因
戊
己
為
媒
娉
Toại sử phu thê trấn hợp hoan.
遂
使
夫
妻
鎮
合
歡
Chỉ hậu công thành triêu Bắc khuyết,
只
候
功
成
朝
北
闕
Cửu hà quang lý giá tường loan.
九
霞
光
里
駕
翔
鸞
Tạm dịch:
Học Tiên thời phải học Thiên Tiên,
Chỉ có Kim Đơn ấy Đích đoan.
Âm Dương tương phối: Tính Tình hợp,
Ngũ Hành hợp nhất: Hổ Long ban.
Toàn nhờ Mậu Kỷ làm mai mối,
Rồi ra chồng vợ sẽ hợp hoan.
Sau sẽ công thành chầu Thượng đế,
Cửu Hà quang lý, giá tường loan.
Hai bài thơ trên dạy người nhìn rõ thế sự,
phải mau tìm Đại Dược, để thoát sinh tử. Đạo thoát sinh tử là Tiên Đạo
vậy, nhưng Tiên có nhiều đẳng cấp:
1. Có Liễu Tính nhi xuất Âm Thần hay Quỉ
Tiên.
2. Có
Liễu Mệnh nhi lưu hình trú thế hay Địa Tiên.
3. Có Tính Mệnh câu liễu, hình thần câu
diệu, Thân ngoài hữu thân, dữ Đạo hợp Chân hay Thiên Tiên.
Quỉ Tiên tuy là Âm Thần, có thể ra vào tự
tại, nhưng mà nhà cửa không bền, vẫn còn bị cái hoạn «phao thân, nhập
thân» .
Địa Tiên tuy có thể «lưu hình trú thế»,
nhưng chưa thoát được Pháp thân, còn có cái luỵ Ảo thân. Cả hai một đằng
thì đoạ lạc vào hữu tử, một đằng thì đoạ lạc vào cõi sinh, nên vẫn chưa
thoát sinh tử. Chỉ có Thiên tiên là thoát Ảo Thân mà thành Pháp Thân,
siêu xuất Tạo Hoá chi ngoại, vô sinh vô tử, có thể thoát sinh tử, Dữ
Thiên Tề Thọ, vĩnh cửu bất hoại. Các bậc học giả muốn thoát sinh tử, nên
học Thiên Tiên. Muốn học Thiên Tiên, ngoài Kim Đơn ra không có phép nào
khác. Kim là vật Kiên Cương bất hoại, Đơn là vật đã hợp thành một vô
ngại.
Kiên cương bất hoại, hỗn thành vô ngại,
hồn nhiên nhất Khí, bất trắc như Thiên chi Hư Viên, bao trùm mọi vật,
không vật nào có thể gây thương tích. Cho nên khi đã Thành Đạo thì gọi
là Thiên Tiên. Nhân kỳ vĩnh cửu bất hoại, nên còn gọi là Kim Tiên, nhân
vì ẩn hiện bất trắc, còn gọi là Thần Tiên. Kỳ thật Kim Tiên, Thần Tiên,
cũng là Thiên Tiên. Muốn tu Thiên Tiên, xả Kim Đơn chi đạo, thì không có
thuật nào khác. Kim Đơn đó tức là cái mà con người nhận được từ Trời,
chí thiện vô ác, lương tri, lương năng, là Linh Căn tròn vẹn, là Tiên
Thiên chí Dương chi khí, ngưng kết mà thành. Kỳ trung hàm Âm Dương, tàng
Ngũ Hành, có Khí mà không có Chất, không phải là chiếc thân hậu thiên,
hữu hình, hữu tượng, là một vật vẩn đục. Nếu qua được sự đoàn luyện
thành thục của Âm phù, Dương hoả, thì sẽ vĩnh viễn bất hoại, còn gọi là
Thất Phản Cữu Hoàn, Kim Dịch Đại Hoàn Đơn.
Kim Đơn là Bản Tính Hỗn Thành. Không phải
là Bản Tính, thì không làm gì có Kim Đơn. Kim Đơn này ai ai cũng có, và
đều viên thành. Ở nơi Thánh thì không tăng, ở nơi người phàm thì không
giảm, là chủng tử của chư Phật, là Căn bản của Thánh Hiền.
Nhưng nếu
chưa từng được hoả đoàn luyện (tu luyện), thì Dương cực tất Âm, tròn rồi
sẽ khuyết, lạc vào Hậu Thiên, trí thức khai và tư dục nổi, khí chất phát
và lương tri tối. Lương tri, lương năng đều biến thành bất lương, không thể trở lại thể Thuần Bạch.
Cho nên
thánh xưa lập ra đạo Kim Đơn phản hoàn, để khiến mọi người qui gia nhận
tổ, phục Ngã bản lai Nguyên Hữu chi sự vật.
Thế nào gọi
là Phản Hoàn? Phản là trở lại con đường cũ mình đã đi, Hoàn là được lại
những gì mình đã mất. Vả Bản Tính Linh Căn của mình mà bị mờ,
chính là vì Âm Dương bất hoà, ngũ hành bị thương tổn. Nếu Âm Dương hợp
nhất, Ngũ hành hợp nhất, thì sẽ trở về cái Bản Tính viên minh thuần nhất
mà mình đã mất.
Nhị vật là: Nhất Cương, nhất Nhu; nhất
kiện, nhất thuận; nhất Chân Tri, nhất Linh Tri; nhất Chân Tình, nhất
Linh Tính.
Chân tri có
đủ trong Đạo Tâm, chủ Cương Kiện, phát ra thì gọi là Chân Tình.
Linh Tri tàng ư Nhân
Tâm, chủ Nhu Thuận. Hợp lại thì là Linh Tính Chân Tri, Linh Tri mà phân
ly, thì Kiện không phải là Kiện, Thuận không phải là Thuận. Cương Nhu
thất tiết. Chân Tình, Chân Tính, biến thành Giả Tình, Giả Tính
Chân
Tri, Linh Tri mà tương hợp,
thì đáng Kiện thời kiện, đáng Thuận thời Thuận, cương Nhu tuỳ thời, Giả
Tình, giả Tính biến vi Chân Tình, Linh Tính.
Tiên Ông
nói: Nhị vật hội thời, Tình Tính hợp, há chẳng phân minh lắm sao?
Ngũ Hành là: Ngũ Khí
của Kim Mộc thuỷ hoả thổ. Ngũ khí này ở Tiên Thiên thì là Ngũ Nguyên:
Nguyên Tính, Nguyên Tình, Nguyên Tinh, Nguyên Thần, Nguyên Khí.
Tại Hậu
Thiên thì là Ngũ Vật: Du Hồn, Quỉ Phách, Âm Tinh, Thức Thần, Vọng Ý.
Ngũ
nguyên gồm đủ Ngũ Đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Còn Ngũ Vật gồm đủ Ngũ
Tặc: Hỉ Nộ Ai Lạc Dục.
Ngũ hành mà toàn vẹn thì Tiên Thiên, Hậu
Thiên hỗn hợp, nhất như, lấy Ngũ Nguyên thống Ngũ Vật.
Long là
Dương, chủ sinh cơ, thuộc Đông Phương Mộc, ở nơi người là TÍNH.
Hổ là
Âm, chủ sát cơ, thuộc Tây Phương Kim, ỏ nơi người là TÌNH.
Ngũ Hành mà
bất hoà thì Tính nào giữ Tính đó, Ngũ Nguyên biến thành Ngũ Vật, Ngũ Đức
hoá vi Ngũ Tặc. Long Đông, Hổ Tây, Tính loạn, Tình Mê, đó là Khí Tính,
Vọng Tình, Sát Khí tước đoạt Sinh Khí vậy.
Ngũ Hành mà toàn, thì sẽ Đồng Qui Nhất
Tính, Ngũ Vật biến thành Ngũ Nguyên, Ngũ Vật hoá vi Ngũ Đức, Long bàn,
Hổ Cứ, Tính Tình tương hợp. Âm Dương hội, Ngũ hành toàn, đó chính là
Hồn Nhiên Thiên Lý, Chí Thiện, Vô Ác, Lương Tri, Lương Năng, là vật sự
Nguyên Bản và Kim Đơn phục hoàn vậy.
Vả Tiên Thiên bản Nguyên khi đã thất tán,
Tính Đông Tình Tây, cương nhu thất ứng, nếu không có vật chi để điều
hoà, qua lại để thông tin, thì đôi bên sẽ cách tuyệt, vĩnh viễn sẽ không
biết nhau.
Cái vật điều hoà đó, chính là Mậu Kỷ nhị
thổ vậy. Mậu thổ chủ động, thuộc Dương, Kỷ Thổ chủ tĩnh, thuộc Âm,
tịch nhiên bất động là Kỷ Thổ, cảm nhi toại thông là Mậu Thổ vậy.
Mậu Kỷ nhị thổ ở Ngũ Đức thì là Chân Tín. Chân Tín ở trong thì Tính
định, Chân định mà dùng ngoài thì Tình sẽ hoà. Tính định, Tình hoà, thì
Tính Tình sẽ qui căn, như phu thê hợp hoan. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí qui ư
nhất Tín. Tính, Tình, Tinh Thần qui ư nhất Khí. Tam Gia tương kiến, Ngũ
Khí triều Nguyên, hoàn Nguyên phản Bản, Kim Đơn ngưng kết. Một tên là
Thánh Thai. Thêm vào đó còn có Hướng Thượng công phu, tòng Hữu Vi nhi
nhập Vô Vi. Thập nguyệt ôn dưỡng, cố tế lao phong, sưu kỳ Kiện Tình chi
thái quá, thiêm kỳ Thuận Tính chi bất cập. Dùng Thiên Nhiên Chân Hoả,
chiêu Truân, mộ Mông, đoàn tận hậu thiên Âm Khí. Vô chất sinh chất từ Vi
đến Hiển, Khí túc, Thần toàn, phích lịch nhất thanh, Kim Thuyền thoát
xác, thân ngoại hữu thân, công thành danh toại, triêu Bắc khuyết mà
tường loan bay lượn, bạch nhật phi thăng, thành Thuần Dương bất tử chi
Tiên Thiên. Chẳng phải vui sao? Ôi!
Bản lai
chân tính hiệu Kim Đơn,
本
來
真
性
號
金
丹
Tứ đại
vi lô luyện tác đoàn.
四
大
為
爐
煉
作
團
Ngộ chi
giả lập tễ thánh vị,
悟
之
者
立
躋
聖
位
Mê chi
giả vạn kiếp trầm luân.
迷
之
者
萬
劫
沉
淪
Chí giả
khả bất miễn chư?
志
者
可
不
勉
諸
Tạm dịch:
Bản Lai
Chân Tính ấy KIM ĐƠN.
Tứ tượng
làm lò luyện thành đoàn,
Hiểu ra
lập tức siêu thánh vị,
Mê thời
vạn kiếp sẽ luân hồi.
Người giỏi giang há không gắng công sao?
Bài 4
Thử pháp
chân trung diệu cánh chân,
此
法
真
中
妙
更
真
Đô Duyên
ngã độc dị ư nhân.
都
緣
我
獨
異
於
人
Tự tri
điên đảo do Ly Khảm,
自
知
顛
倒
由
離
坎
Thuỳ
thức phù trầm định chủ tân.
誰
識
浮
沉
定
主
賓
Kim đỉnh
dục lưu châu lý hống,
金
鼎
欲
留
朱
里
汞
Ngọc trì
tiên hạ thuỷ trung ngân.
玉
池
先
下
水
中
銀
Thần
công vận hoả phi chung đán,
神
功
運
火
非
終
旦
Hiện
xuất thâm đàm nhật nhất luân.
現
出
深
潭
日
一
輪
Tạm dịch:
Phép này
vừa Diệu lại vừa Chân,
Đều vì
ta khác với thế nhân.
Tự hay
Điên Đảo do Ly Khảm,
Ai biết
phù trầm, định Chủ Tân.
Kim Đỉnh
muốn gìn Nhân Tâm vẹn,
Ngọc Trì
phải biết có Đạo Tâm.
Thần
công vận hoả chưa nửa buổi,
Thâm Đàm
đã hiện Nhật nhất luân.
Thơ trên nói muốn tu luyện Đơn Đạo, thì
Tính Tình phải hợp nhất, Ngũ hành phải toàn vẹn, mới có thể thành công.
Nhưng dược vật thì dễ biết, mà Hoả Hầu thì rất khó. Hoả Hầu là pháp
trình tu luyện vậy. Lữ tổ nói: Người Thượng Đức lấy Đạo toàn hình, đó là
vì Thuần Dương chưa bị phá. Người Hạ Đức dùng thuật để Duyên Mệnh, đó
chính là nhân Khảm Ly đã thành. Người Hạ Đức thời nên dùng giả pháp để
truy nhiếp. Pháp là thuật vậy. Nếu không pháp, không thuật, thì không
thể phản bản hoàn nguyên. Mệnh cơ không vững chắc, thì Đại Đạo khó
thành. Cho nên tiên ông viết: Thử pháp chân trung diệu cánh chân, đô
Duyên ngã độc dị ư nhân, Pháp mà đã gọi là Chân là Diệu. thì là pháp
chí chân, chí diệu. Pháp mà đã chí ư Chân, thì có thể trộm Âm Dương,
đoạt Tạo Hoá, chuyển sinh sát, đoạt khí cơ. Pháp mà đã chí ư diệu, quỉ
thần khôn lường được, thi qui không bói được, trước Trời Trời không
trách, sau Trời để thuận Thiên Thời, đó là đạo làm thánh, làm hiền, chứ
không phải là bàng môn tiểu pháp, mà có thể thấy được bến bờ. Tu luyện
Chân Pháp chi diệu, thì diệu tại cái gì? Diệu là có thể Điên Đảo.
Điên Đảo là điên đảo Âm Dương, nghịch thi Tạo Hoá.
Ly Khảm là Ly là Hoả, ngòai trống, trong
mái. Mái bên trong là Chân Âm, ở nơi con người là Linh Tri, tàng trong
Nhân Tâm. Nhân Tâm mà động thì Linh Tri bay mất, như lửa bay lên vậy.
Khảm là Thuỷ, ngoài tối, trong sáng, Sáng
bên trong là Chân Dương, ở nơi con người là Chân Tri, có đầy đủ Đạo Tâm.
Đạo Tâm mà tối thì Chân Tri sẽ tàng ẩn. Như nước chảy xuống dưới vậy.
Dùng điên đảo là Sinh Đạo Tâm, mà định
Nhân tâm.
Đạo Tâm mà sinh, thì Chân Tri sẽ cương
kiện, và Tinh Nhất chi thuỷ sẽ đi lên. Nhân tâm mà định thì Linh Tri sẽ
nhu thuận. Và Lửa kháng táo (cháy mạnh) sẽ hạ xuống. Thuỷ thượng hoả hạ,
thì Thuỷ Hoả sẽ tương tế.
Linh Tri là Tính mà Tính thuộc Mộc. Mộc
tính Nhu, dễ nổi.
Chân Tri là Tình mà Tình thuộc Kim. Kim
tình Cương, dễ chìm.
Linh Tri phù (nổi) mà lấy dụng sự làm chủ,
trong Chân có Giả, Chân tri phù (nổi) mà bất trương là Khách. Giả lại
hãm Chân, thế là Thuận Hành vậy.
Định Chủ Tân là lấy Tình của Chân Tri làm
Chủ, làm cho cái gì Chìm ở dưới lại nổi lên trên, lấy Tính của Chân Tri
làm Tân, làm cho cái gì Nổi bên trên lại Chìm xuống dưới, Chủ Tân phản
phúc, và Kim Mộc tương hợp vậy. Thuỷ Hoả giao, Kim Mộc hợp,
Đạo Tâm
kiện, Nhân Tâm thuận, Chân Tri, Lương Tri hợp nhất, Tính Tình tương đầu,
Kim Đơn làm sao mà không ngưng kết.
Cái thứ Chân Chước Diệu Pháp này, chẳng có chẳng không. Cái mà người
không biết, mà chỉ có một mình biết ra, cho nên gọi là Tự Tri, còn gọi
là Ai biết. Người không biết mà tự mình biết, thì là Đạo cơ (Ăn cắp cơ
trời) thiên hạ chẳng biết, chẳng hay, đó là Đạo. Có Tiên Hậu, có Nhanh
Chậm. Nếu không biết cái diệu dụng của Trước Sau Nhanh Chậm. Nếu có biết
Dược Vật, thì Điên Đảo nan thi, chủ khách bất định, cho nên sau tiếp
thêm: Kim đỉnh dục lưu châu lý hống, Ngọc trì tiên hạ thuỷ chung
ngân.
Kim là Kim Cương chi vật, Ngọc là Ôn Nhu
chi vật, Đỉnh là đồ luyện thuốc, Trì là đồ Dưỡng Hoả. Kim Đỉnh Ngọc Trì
là dụ Tu Chân chi Đạo, lấy Cương Nhu làm thể.
Nhân Tâm
thuộc Ly. Ly vốn là có Kiền Thể, tức là Kim Đỉnh vậy. Có đủ Địa Nhị Hoả
đó là Linh Tri. Đó là Khôn Gia Nhu Thuận trung chính chi vật, đó chính
là Bản Lai chi Lương Năng vậy. Nhân tâm vốn dĩ là không không, động
động, hư linh bất muội. Nhân vì giao với Hậu Thiên thức thần, tá Linh
sinh Vọng, kiến cảnh khởi trần, tuỳ gió nổi sóng, không có khi nào ngưng
nghỉ, như Châu lý chi Hống, gặp lửa thời bay, rất khó giữ lại. Tham Đồng
Khế vì thế gọi là Thái Dương Lưu Châu, thường muốn lìa xa người,
Đạo Tâm thuộc Khảm.
Khảm vốn là thể của quẻ Khôn, là Ngọc Trì vậy. Trong chứa Thiên Nhất chi
Thuỷ nên gọi là Chân Tri. Đó là Kiền Cung Cương Kiện Trung Chính chi
vật, đó là Bản Lai chi Lương Tri vậy. Nhân vì rơi vào Hậu Thiên, khách
khí dụng sự, Chính khí thoái vị, Dương hãm Âm trung, Chân bị Giả che,
đắm chìm trong Dục Hải. Lương tri mà đã bị mờ, như Bạc ở trong nước,
không còn Vô mà chỉ có chút hữu.
Bạc là Kim loại, là Thuỷ trung Ngân, tức
là Vàng mà tàng trong nước.
Cái vàng
này ở Tiên Thiên thì là Bản tính chi Lương Tri, ở Hậu Thiên thì là Đạo
Tâm chi Chân Tri. Vì là Chân Tri, Chí Cương Chí Kiện, nên ví dụ là Chân
Diên. Vì là Chân Tri, có thể thành Tiên, thành Đạo nên gọi là Chân
Chủng. Xưa nay thánh hiền đều hái Đại Dược này mà Tu Tính Mệnh.
Nhân Tâm
Linh Tri, tuy là dễ động. nếu được Đạo Tâm chân tri chế phục, thì Linh
sẽ qui Chân, không còn bay nhảy nữa. Tham Đồng Khế gọi thế là: Cuối cùng
được Kim Hoa, sẽ được chuyển hoá. Hoàng Hạc Phú nói: Ly nội thất ban
Châu sa, Vô chân chủng tắc thời khắc nan lưu, Thất ban châu sa là:
Nước mắt, nước bọt, tinh, tân (nước rãi), khí huyết, dịch.
Thất ban
Châu Sa mà bất định, là do Nhân Tâm chi Linh bất định, mà Nhân Tâm chi
Linh bất định là do Đạo Tâm bị tổn thất, nên mới bất định. Muốn giữ Nhân
Tâm chi Linh Tri, thì phải giữ được Đạo Tâm chi Chân Tri. Chân Tri là
Chân Chủng đã giữ được, thì trong có Chủ Tể, không còn bị Tạp Khí đánh
lừa, mà Nhân Tâm chi Linh Tri tự nhiên sẽ ngưng kết, không còn tán loạn.
Dùng Đạo Tâm chế Nhân Tâm, dùng Nhân Tâm
thuận Đạo Tâm, dùng Chân Tri thống Linh Tri, dùng Linh Tri dưỡng Chân
Tri. Cương Nhu tương đáng, Kiện Thuận như nhất, Tính Tình Hoà hợp. Không
quá một thời thần, kết thành nhất lạp Viên Minh Bảo Châu, linh quang
lãng chiếu. Nhất thiết Âm Tà chi khí, không làm thương tổn được. Cho nên
nói: Thần công vận hoả phi chung đán, Hiện xuất thâm đàm Nhật nhất luân.
Thần công
là: Thần minh mặc vận, thận độc chi công. Hoả là Chân tri, Linh Tri hợp
nhất chi hoá khí. Vận Hoả là: Giới Thận hồ kỳ sở bất đổ, Khủng cụ hồ
kỳ sở bất văn: E dè cái mắt không nhìn, Tai nghe không nổi cho nên
hãi hùng.
Vận thử Linh Tri Chân Tri, Cương Nhu hợp
nhất, không để cho còn một chút bụi bặm vật chất vướng vấn trong tâm
khảm mình.
Cái lửa
Thần Công đó, như trồng cây
nêu xem bóng, như tiếng vang trong núi. Nếu hạ được quyết tâm như vậy,
thì không cần đợi đến hết ngày, thì có thể từ Âm Trung phản hồi về
Dương, và Âm Khí sẽ tự thoái. Trong bài thơ trên quan trọng nhất là bốn
chữ: Dục lưu Tiên hạ. Trong đó mới đầu thì con người bị khống
chế, Nghĩa không kịp Khách. Biết vậy sẽ Điên Đảo Âm Dương, Hoà hợp tứ
tượng, dễ như trở bàn tay,
Đó là phép
Pháp Tượng của Ngoại Đơn, hay Hoàn Đơn. Vì đã đi rồi nay trở lại, đã mất
nay trở về, từ ngoài trở lại vào trong, nên gọi là Ngoại Đơn, hay Hoàn
Đơn, thế là Nội Đơn. Thế là phân biệt Nội Ngoại Đơn vậy.
Bài 5
Hổ dược,
long đằng
phong lãng
thô,
虎
躍
龍
騰
風
浪
粗
Trung
ương chính vị
sản Huyền Châu.
中
央
正
位
產
玄
珠
Quả
sinh, chi thượng
chung kỳ thục.
果
生
枝
尚
終
期
熟
Tử tại
phúc trung
khởi hữu thù,
子
在
腹
中
豈
有
殊
Nam Bắc
tông nguyên
phiên quái tượng,
南
北
宗
源
翻
卦
象
Thần hôn
hoả hậu
hợp thiên khu,
晨
昏
火
候
合
天
樞
Tu tri
đại ẩn
cư triền thị,
須
知
大
隱
居
廛
市
Hà tất
thâm sơn thủ tĩnh cô.
何
必
深
山
守
靜
孤
Tạm dịch:
Tính,
thần dũng dược, Khí
tinh thô,
Trung
Ương chính vị sản Huyền Châu.
Trên cành có quả sau sẽ chín,
Con
trong bụng mẹ sẽ chào đời,
Bắc Nam,
Tí Ngọ theo tượng quẻ,
Sớm tối
Hoả Hầu, hợp Thiên Khu,
Nên hay
Đại Ẩn tu thành thị,
Cần chi
lên núi để tĩnh cô.
Thơ trước bàn về Hoàn Đơn chi sự, bài thơ
này nói về đạo Đại Đơn. Đó là công phu trong một giờ. Một giờ này hợp
đức với Đất Trời, sáng láng như Nhật Nguyệt, cát hung giống quỉ thần,
khó gặp, dễ mất. Nếu mà bất cẩn, thì Tiên Thiên Chân Nhất chi khí, được
rồi vẫn có thể mất. Tiên Thiên Chân Nhất chi khí chính là Hoàn Đơn. Vì
là Hoàn Đơn nên cương nhu nhị khí giao hợp mà thành, nên gọi là Chân
Nhất chi khí. Ngoài hoàn đơn ra không có Chân Nhất chi khí. Khi hoàn đơn
đã đến tay, Thì Đạo Tâm cương kiện, Nhân Tâm nhu thuận, Chân Tri, Linh
Tri sẽ hỗn thành nhất khí. Tròn vành vạnh, sáng chói lói, như lúc vừa
sinh, lương tri, lương năng, tự nhiên bất động, thành nhi toại thông, đó
chính là Bản Lai Diện Mục. Cái vật sự này, vì Tính nó cương, nên gọi
là Chân Diên, vì Tính nó Mạnh, nên gọi là Hổ đực. Chân Diên, hùng hổ
chẳng qua chỉ là Hạo Nhiên chính khí, chí thiện vô ác, nắm giữ được
Thiên Chân Lương Tri, Lương Năng vậy. Cái Thiên Chân này một khi đã trở
về, thì phải đem nó vào nơi Cha Mẹ chưa sinh, nơi Ngũ Hành không thể tới
được, thì mới có thể thành được Thiên Chân vĩnh cửu, bất hoại. Cho
nên khi Thiên Chân đã phục hoàn, thì phải ôn dưỡng nó, cẩn phong,
lao tàng nó, phải Hư Cực Tĩnh Đốc, thì Dương Khí mới sung túc.
Tĩnh cực rồi lại động, thì Linh Miêu (cỏ
Linh) sẽ phát hiện. Lữ Tổ nói: Trung tiêu lậu vĩnh, ôn dưỡng Duyên
Đỉnh, ánh sáng sẽ lọt qua màn che, mành rủ. Lúc ấy, ánh sáng bừng
lên, như hổ hùng tráng, thế khí rất mạnh. Mau phải dùng Một điểm Lửa của
Linh Tri có sẵn trong Chân Tính để đón nó, cái Hư Linh chi Hoả ấy, gọi
là Tẫn Long, Hổ dược Long đằng là Âm Dương đoàn tụ. Phong tác
thô là Hổ mà ra khỏi hang thì phong sinh, rồng mà lên khỏi đầm thì
sóng dậy, thế là Âm Dương tương tranh. Long Hổ giao hội, Tính Tình tương
đầu, mà hợp làm một, nhập vào Trung Huyệt, Tiên Thiên chi khí sẽ từ Hư
Vô tới, ngưng kết sẽ thành 1 hạt châu nhỏ, có tượng Thánh Thai. Thánh
Thai là Cốc Thần, đó chính là thần Huyền Tẫn hợp nhất. Dương Huyền
là Hổ tình, Âm Tẫn là Long Tính. Tính Tình hợp là Thánh Thai kết, Huyền
Tẫn hợp là Cốc Thần sinh. Tới giai đoạn này thì Hữu Vi sự đã
xong, Vô vi sự bắt đầu. Không cần phải tái vi, tạo tác nữa. Cứ theo
tự nhiên. Như quả sinh trên cành có ngày sẽ chín, như con trong bụng
mẹ có ngày sẽ sinh. Nhưng Thánh Thai ngưng kết tuy cần hữu vi, nhưng
phải ra công phòng nguy, lự hiểm. Nam Tông Bắc Nguyên phiên quải
tượng là Nam là Hoả, Bắc là Thuỷ, Thánh Thai ngưng kết, Hoà khí huân
chưng, thuỷ Hoả qui về Nguồn cội, tự mình nấu sôi, phải vật vong, vật
trợ (để mặc tự nhiên). Thần Hôn hoả hậu hợp Thiên Khu. Thần (buổi
sáng) là đầu mỗi ngày, lúc ấy Dương Khí dụng sự. Buổi chiều là đầu
mỗi đêm, là Âm dụng sự. Thiên Khu là Âm Dương chi khí cơ. Đáng Dương
thời dụng Dương, đáng Âm thời dụng Âm. Hoả Hậu tiến thoái, ám hợp thần
hôn chi khí cơ, nhật Kiền, tịch Dịch (nghĩa làsuốt ngày, phải biết lo
lắng, quan phòng). Vật vong, vật trợ, nhật Kiền tịch Dịch, 10 tháng Ôn
Dưỡng, đổi hào quái Hậu Thiên, thoát khứ Tiên Thiên Pháp Thân, Mệnh là
do ta chứ không do Trời, đó là Đạo vậy. Tu ngay giữa những người trần
thế, tu ngay giữa chốn thị thành, Đại Cơ, Đại Dụng, thực hành cho thật
đứng đắn. Thế không phải là Không Không Vô Vi Tịch Nhiên chi học, cho
nên mới nói: Tu Tri đại Ẩn cư triền thị, Hà tất thâm sơn thủ tĩnh cô.
Bài 6
Nhân nhân bản hữu trường sinh dược,
人
人
本
有
長
生
藥
Tự thị mê đồ uổng bãi phao.
自
是
迷
徒
枉
擺
拋
Cam lộ giáng thời thiên địa hợp,
甘
露
降
時
天
地
合
Hoàng Nha sinh xứ Khảm Ly giao.
黃
芽
生
處
坎
離
交
Tỉnh oa ưng vị vô Long quật,
井
蛙
應
謂
無
龍
窟
Li yến an tri
hữu phụng sào.
籬
鴳
安
知
有
鳳
巢
Đan thục tự nhiên kim mãn thất,
丹
熟
自
然
金
滿
室
Hà tu tầm thảo học thiêu mao?
何
須
尋
草
學
燒
茅
Tạm dịch:
Người ai cũng có trường sinh dược,
Chỉ tại u mê, uổng phí phao.
Khi Cam Lồ giáng thiên địa hợp,
Hoàng Nha sinh xứ, Khảm Ly giao.
Ếch giếng nào hay Long Nguyệt quật,
Yến giậu biết đâu có Phụng Sào.
Đan thành, sẽ thấy vàng đầy cửa,
Cần chi tìm cỏ với thiêu mao?
Baì thơ trên nói về Hoàn Đơn, Dược Vật,
Hoả Hầu. Nói đã rất rõ ràng. Sợ rằng học giả nhậm nhầm Hoàn Đơn là đoàn
luyện một vật gì tầm thường, cho nên thơ này cảnh tỉnh mọi người.
Hoàn Đan chính là cái mà mọi người vốn có,
đó chính là Bản Tính, là Lương Tri, Lương Năng của chúng ta. Cái Tính
này ai ai cũng có, toàn vẹn. Ở nơi thánh hiền thì không tăng, ở nơi phàm
nhân thì chẳng giảm, không phải tìm nơi người khác, mà ai cũng sẵn có
nơi mình. Nếu hạ quyết tâm, sẽ lập tức đăng thánh vị. Tính định, Mệnh
ngưng, không bao giờ hư hoại. Bản tính của Lương Tri, Lương Năng chính
là Đại Dược sinh ra Trường Sinh vậy. Những kẻ u mê, không nghiên cứu
thực lý của Thánh Hiền, không hiểu Tính Mệnh Căn Nguyên, bỏ gần tìm xa,
bỏ chân cầu giả, suốt đời không không, tới già cũng không thành công,
chỉ vì tại mình phao phí nó đi. Thật đáng buồn đáng than vậy.
Cái đức
Cương Kiện của bản Lai Lương Tri mà ta vốn có, và ta tiếp thu được ở nơi
Trời. Đó chính là Trời vậy. Còn đức nhu thuận của Bản Lai Lương Năng mà
ta tiếp thu được ở đất, đó là Đất vậy. Bản Lai hư linh bất muội chi Thần
là Linh Tính, đó là Địa nhi chi khí sở hoá. Đó là Hoả vậy. Bản Lai thuần
tuý bất tạp chi tinh là Chân Tinh, Đó là Thiên nhất chi khí sở hoá, đó
là Thuỷ vậy. Người mà có thể khiến cho Kiện Thuận hợp nhất, thì Thiên
Địa sẽ tương hợp trong người, như nước Cam Lồ rải vào Tim, làm tiêu tan
hết phiền não. Nếu người mà giữ được tinh thần không bị hao tổn, thì
Khảm Ly trong người sẽ tương giao, như Hoàng Nha tự sinh, và Nguyên Khí
cũng phục hồi. Cam Lồ giáng xuống là Tâm Thanh, Hoàng Nha sinh là Ý
Tĩnh, Tâm thanh, Ý tĩnh, Lương Tri, Lương Năng, Nhất Linh Chân Tính,
treo ở Hư Không, tịch nhiên bất động cảm nhi toại thông, thường ứng,
thường tĩnh, Tạo Hoá khó dời, vạn vật khó khuất phục, Mệnh ta là do ta,
không do Trời, trường sinh chi Đạo ở đó. Ếch trong giếng kia làm sao
biết được trong đó có hang rồng. Yến trên giậu kia làm sao biết rằng có
tổ phượng. Nghe nói đến Dược Vật, Hoả Hầu, nghi là phép luyện cỏ Mao, kỳ
kỳ, quái quái, không chi không làm. Có biết đâu rằng Tu Luyện Đại Đan,
khi mà đan thành, thì vàng sẽ đầy nhà. Con người sẽ Bảo Mệnh, toàn Hình,
giàu có không ai bằng, những vật cặn bã nơi thế gian này có gì mà đáng
luyến?
Bài 7
Yêu tri sản dược xuyên nguyên xứ,
要
知
產
藥
川
源
處
Chỉ tại
Tây Nam thị bản hương.
只
在
西
南
是
本
鄉
Duyên
ngộ quí sinh tu cấp thái,
緣
遇
癸
生
須
急
採
Kim
phùng Vọng hậu
bất kham thường.
金
逢
望
後
不
堪
嘗
Tống qui
thổ phủ lao phong cố,
送
歸
土
釜
牢
封
固
Thứ nhập
lưu châu, tư phối đương.
次
入
流
珠
斯
配
當
Dược
trọng nhất cân tu nhị bát,
藥
重
一
斤
須
二
八
Điều
đình hỏa hậu thoát âm dương.
調
停
火
候
脫
陰
陽
Tạm dịch:
Phải biết ngọn nguồn sinh dược vật,
Chỉ tại
Tây Phượng thị Bản Hương.
Duyên mà
gặp Quí thời mau hái.
Kim gặp
sau Rằm chớ coi thường,
Đem về
Thổ Phủ phong kín lại,
Sau gặp
Lưu Châu sẽ phối đang,
Thuốc
nặng một cân vừa đôi tám,
Hỏa hậu
điều đình tại Âm Dương.
Thơ trên nói ai ai cũng có trường sinh
dược, nhưng chưa cho biết Dược sinh nơi nào, lúc nào. Nên thơ này nói
chỗ Dược sinh, để học giả tùy thới Dụng Công, và cẩn thận hỏa hầu. Tây
Nam là Khôn phương. Chỗ mặt trăng thật tối lại sinh lại, tức là Chỗ Âm
Cực sinh Dương (quẻ Phục). Nơi người là chỗ tĩnh cực rồi động lại. Nơi
Tĩnh cực rồi động lại, chính là cái động của Thiên Tâm, Lương Tri, là
cái động của Đạo Tâm Chân Tri.
Cái Thiên
Tâm Lương Tri, cái Đạo Tâm chân Tri ấy có thể siêu phàm, nhập thánh khởi
tử hồi sinh, cho nên theo tượng gọi là Dược Vật.
Vạn Duyên ngừng bặt, Thiên Tâm, Lương Tri,
Đạo Tâm Chân Tri, có một điểm sáng lộ ra đầu mối, nên thủ tượng gọi là
nơi Sản Dược.
Nhân vì Thiên Tâm, Lương Tri, Đạo Tâm,
Chân tri, là Hắc trung chi Bạch, hư vô trung lai, Động do Tĩnh sinh, Như
nước có Nguồn, cho nên thủ tượng gọi là cội Nguồn của sông sinh Dược.
Thuốc này tại Tiên Thiên là Lương Tri
củaThiên Tâm. Tại Hậu Thiên là Chân tri của Đạo Tâm. Đạo Tâm tức là bóng
hình của Thiên Tâm, Chân Tri là Bóng Hình của Lương Tri, vì Thiên Tâm
hãm ư Hậu Thiên, không thể Thường Tồn, chỉ hiện ra có lúc cho nên gọi là
Đạo Tâm. Vì Lương Tri trầm ư Dục Hải, nên ánh sáng bị mất nhưng cũng có
lúc tỏa sáng nên gọi là Chân Tri. Nhưng từ khi đã phản hoàn về sau, thì
Đạo Tâm là Thiên Tâm, Chân Tri là Lương Tri. Có lúc phát hiện, hay có
lúc sáng tỏ thì đó chính là cố hương của Đạo Tâm Chân tri. Vì có thời
phát hiện, hoặc có lúc sáng tỏ, vì vẫn có một điểm Tiên Thiên Chân Nhất
chi linh cơ còn tồn tại. Nhờ vào Nhất Điểm Linh Cơ đó, nếu biết nghịch
hành tu luyện, thì từ Đạo Tâm Chân Tri mà phục hoàn Thiên Tâm chi Lương
Tri nào có khó gì đâu?
Vả phục
hoàn không khó, chỉ cần là biết Tĩnh Cực rồi lại Động, là tìm
ra được ngọn nguồn, mạch sông. Lão Tử
nói: Trí Hư cực, thủ Tĩnh Đốc, vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan kỳ phục.
Kinh Dịch
viết: Phản phục chi đạo, thất nhật lai phục. Phục đều chỉ ngọn nguồn
của Đạo Tâm Chân Tri. (Như vậy quẻ Phục chính là lúc Nhất Dương
sinh, hay là lúc Đạo Tâm sinh, lúc Lương Tri sinh, lúc Sản Dược).
Đã biết chỗ sản Dược, thì phải biết lúc
nào ra tay. Cái hay cái khéo của Kim Đơn chỉ cốt là lấy Đạo Tâm làm Đơn
Mẫu. Vì Đạo Tâm vốn cương kiện, có đủ Chân Tri chi Tình, nên thủ tượng
gọi là Chân Diên. Trong Duyên có Bạc, ngoài đen trong trắng, trong Đạo
Tâm có Chân Tri, ngoài tối trong sáng, cho nên Tiên Chân đều lấy Đạo Tâm
Chân Tri mà sánh với Chân Diên. Không dám nói trắng ra thật là trịnh
trọng, sợ kẻ không ra gì lấy trộm đi mất.
Cái Đạo
Tâm, Chân Tri này, bị tình dục che khuất, bị nhận chìm thật sâu, không
thể thoát được. Khi đã biết ngọn nguồn, thì có thể dần dần hái lấy đem về hoàn phản.
Phép Phục
hoàn là phải tìm cầu trong tình dục.
Chân tri là Thiên Nhất sở sinh, là Thuần
Nhất Trí Tinh chi Dương Thủy. Đó là Nhâm Thủy. Tình Dục sinh ra từ Địa
Lục. Đó là thứ Âm Thủy vẩn đục, là Quí Thủy. Nhâm Thủy ẩn tàng trong Quí
Thủy. Quí Thủy mà không sinh, thì Nhâm Thủy không hiện. Chân Diên sẽ
không hiện.
Duyên ngộ Quí sinh là Chính Âm Dương
nhị khí giao tiếp. Quí vừa sinh nhưng chưa biết dùng sự. Nhâm thủy chưa
tan, Chân Tri chưa tối, phải hái đem về cho vào Huyền Thai Đỉnh ngay,
thì tình dục chưa thi triển, và sẽ tiêu diệt. Trương Tam Phong nói:
Yêu thái tha xuất tường hoa nhi, đóa đóa tiên, Hãy hái hoa tươi từng
đóa mọc bên tường hoa là vậy.
Kim phùng vọng hậu là Khi Chân Tri đã trở
về, thì hãy dùng Chân Tình của Chân Tri, tăng tăng lên mãi, tiến vào
Cương Kiện, Trung Chính, thuần túy chi tinh, như trong Duyên luyện ra
Bạch Kim, màu sắc sáng láng. Tới giai đoạn này, thì lương tri, lương
năng, sáng láng rực rỡ, có thể khúc trực ứng vật, bay lên, chìm xuống,
nhất nhất tùy tâm, đâu đâu cũng đều thấy Đạo, như vầng nguyệt trên không
trung, chiếu kiến Tam Thiên Đại Thiên thế giới, thông u đạt minh, mà
không phải dùng đến công phu tăng thiêm, bỏ hữu vi mà vào vô vi. Nếu
không biết Hỏa Hầu, thì tròn rồi sẽ khuyết, sáng rồi sẽ tối, như Trăng
sau rằm, Dương trung sẽ sinh Âm, Chân Tri bị thương. Chân sẽ mờ mà giả
sẽ tới. Cái cặn bã của Hậu Thiên, làm sao mà bền vững được.
Cho nên khi Chân Tri mà tròn trở lại. Phải
cho ngay vào Trung Ương thổ phủ, phong tỏa kỹ lưỡng, không cho nó bị
Thẩm Lậu, và phối hợp nó với Nhất điểm Hư Linh Lưu Châu trong Bản Tính.
Mượn Âm giúp Dương, dùng Hư nuôi Thực, phòng nguy lự hiểm, cho Cương Nhu
được hợp nhất. Âm Dương cân bằng, 2, 8 số đủ, không thừa, không thiếu,
tiến đến chỗ Khoáng Tận, Kim thuần, không còn chút Khí Chất nào nữa mới
được.
Muốn cho 2, 8 số đủ, toàn nhờ vào cách
điều đình Hỏa Hậu. Biết Non Già, biết khi nào đủ thời ngừng, biết Cát,
Hung, biết Nhanh Chậm, khi đáng tiến Dương thời tiến Dương, khi đáng vận
Âm thời vận Âm, thì lớn nhỏ sẽ không bị thương tích, 2 nước sẽ chu toàn,
và tự nhiên Chân Nhất chi khí, sẽ từ Hư Vô trung lại, ngưng kết không
tan, và thánh thai sẽ thành tượng vậy.
Điều Đình
hòa hậu, là Điều hòa Cương Nhu, cho thuốc được đúng một cân, và
Cương Nhu sẽ trở về Trung Chính, nhị Bát sẽ tương đương. Trong Âm có
Dương, trong Dương có Âm. Âm Dương hỗn thành, thì Cương Nhu sẽ hóa, sẽ
tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông. Cảm nhi toại thông, tịch nhiên
bất động, sẽ không bao giờ bị hư hoại.
Ôi! khẩu quyết: Trăng quá tròn. Tâm Truyền
vi diệu là Giờ Tí. Dược Vật thời khó biết, Hỏa Hậu cũng khó tường. Sao
học giả không mau chịu đi tìm chân sư.
Bài thơ
này bao quát Dược Vật Hỏa Hầu, và Diệu dụng của Hoàn Đơn, Đại Đơn, và cả
bài thơ thứ 16 nữa, độc giả hãy đọc cho kỹ, không nên bỏ qua một chữ.
Nếu như hiểu được, và có sư truyền, thì nghe một chữ mà tường vạn pháp
vậy.
Bài 8
Hưu
luyện Tam Hoàng
cập tứ thần,
休
煉
三
黃
及
四
神
Nhược
tầm chúng thảo cánh phi chân.
若
尋
眾
草
更
非
真
Âm Dương
đắc loại qui giao cảm,
陰
陽
得
類
歸
交
感
Nhị Bát
tương đương tự hợp thân.
二
八
相
當
自
合
親
Đàm để
nhật hồng âm quái diệt,
潭
底
日
紅
陰
卦
滅
Sơn đầu
nguyệt bạch Dược miêu tân.
山
頭
月
白
藥
苗
新
Thời
nhân yêu thức Chân Diên Hống,
時
人
要
識
真
鉛
汞
Bất thị
phàm sa cập thủy ngân.
不
是
凡
砂
及
水
銀
Tạm dịch:
Khỏi
luyện Tam Hoàng với tứ thần,
Nếu tìm
thuốc cỏ thảy phi chân.
Âm Dương
đắc loại nên giao cảm,
Nhị Bát
tương đương sẽ hợp thân.
Đáy vực
Nhật hồng, âm quái diệt,
Đầu non,
Nguyệt bạch Dược nảy mầm.
Người
nay phải biết Chân Diên Hống,
Không
phải phàm sa với thủy ngân.
Thơ trên
nói về Chân Diên, Chân Hống. Đôi bên phối hợp mới
thành Kim Đơn. Nhưng có người nghi là Kim Đơn chỉ là thế gian hữu hình
chi vật, thiêu luyện mà thành. Cho nên thơ này vội nói: Hưu luyện Tam Hoàng cập Tứ Thần, Nhược tầm chúng thảo cánh phi
chân. Tam hoàng là Lưu Hoàng, Hùng Hoàng, Thư Hoàng, Tứ
Thần là Chu Sa, Thủy Ngân, Duyên Tiêu. Tam Hoàng, Tứ Thần,
Chúng Thảo, đều không là đồng loại với ta, làm sao có thể Tiếp Mệnh cho
ta, làm sao Liễu Tính cho ta?
Không Tiếp Mệnh, Liễu Tính được thì chỉ là
đồ bỏ, không phải là Chân Đạo.
Sách Tam
Tướng Loại viết: Đồng loại dị thi công hề, phi chủng nan vi công,
Con người
được trời đất phú cho Âm Đương nhị khí mới sinh ra. Cho nên trong thân
có đủ khí Âm Dương, có đủ đức Âm Dương. Dương là Cương, Âm là Nhu. Đức
của Cương chủ Mệnh, Đức của Âm chủ Tính. Cái Dương Cương Âm Nhu ấy, đó
là cội nguồn của Tính Mệnh vậy. Đồng loại là: Dương với Âm là đồng loại,
Âm với Dương là đồng loại. Âm Dương đúng loại thì cương nhu
sẽ tương ứng, như vợ chồng xa cách nhau lâu ngày mà bỗng nhiên gặp nhau,
thì sẽ giao cảm với nhau. Nhị Bát là Âm trung chi Dương thì là Chân
Dương, đó là Cương Kiện Trung Chính; Dương trung chi Âm là Chân Âm, là
Nhu Thuận Trung Chính vậy. Cương Nhu cùng qui về Trung Chính, thì là Âm
Dương tương đáng, bất thiên bất ỷ, tự nhiên sẽ tương hợp tương thân, hỗn
nhiên nhất khí, ngưng kết không tan. Âm Dương đắc loại, nhị
bát tương đáng, thì từ Hậu Thiên sẽ phản xuất Tiên Thiên, Đạo Tâm cương
kiện, nhân tâm nhu thuận, Chân Tri, Linh Tri, đôi đằng tương hợp, thì
bản lai nhất điểm Linh Căn của Lương tri, Lương Năng, sẽ từ
trong Hư Vô hiển lộ ra, như mặt trời hồng từ đaý đầm hiện lên, những gì
quá quắt của khí Âm sẽ tiêu hết, và vầng trăng lưỡi liềm sẽ vắt vẻo đầu
non. Mầm dược sẽ mọc non tươi. Chính khí sinh thì tà khí sẽ thoái, Chân
mà phục hồi thì giả sẽ tiêu mất. Đàm để nhật hồng, Sơn đầu Nguyệt bạch
đều mô tả Chân Dương phát hiện, hay hình ảnh của Thiên Tâm phục hiện.
Thiên tâm phục hiện thì Lương Tri Lương năng đều hay. Đó là
Kim Đơn.
Kim Đơn này chính là
cái tính Bản Lai đầy đủ Chân Âm, Chân Dương, phối hợp Cương Nhu mà thành.
Đó là tận Tính trí Mệnh chi Chân Bảo. Há đâu phải là Phàm Sa
Thủy Ngân do người điêu luyện mà thành đâu? (Như vậy Kim Đơn
sinh là quẻ Phục, Kim Đơn thành là quẻ Kiền).
Bài 9
Dương lý
Âm Tinh chất bất cương,
陽
里
陰
精
質
不
剛
Độc tu
nhất vật chuyển luy uông.
獨
修
一
物
轉
羸
Lao hình
án ảnh giai phi Đạo,
尪
勞
形
按
影
皆
非
道
Phục
thực san hà tổng thị cuồng.
服
食
餐
霞
總
是
狂
Cử thế
mạn cầu Diên Hống phục,
舉
世
漫
求
鉛
汞
伏
Hà thời
đắc kiến long hổ hàng.
何
時
得
見
龍
虎
降
Khuyến
quân cùng thủ sinh thân xứ,
勸
君
窮
取
生
身
處
Phản bản
hoàn nguyên thị dược vương.
返
本
還
元
是
藥
王
Tạm dịch:
Dương lý
Âm tinh chất bất cương,
Tại tu
Nhất Vật chuyển luy uông,
Lao hình
Án Ảnh không phải Đạo,
Phục
khí, nuốt mây chính thị cuồng.
Thế gian
những muốn Diên Hống hợp.
Bao giờ
mới thấy Hổ Lonh hàng.
Khuyên
ông cùng thủ sinh thân xứ,
Phản bản
hoàn nguyên ấy dược vương.
Thơ trước
bàn về Kim Đơn, Dược Vật, không phải là Tam Hoàng,Tứ Thần. không phải cỏ
cây phàm vật. Người tu phải thấy nó nơi mình. Có biết đâu
rằng con người từ khi Chân Dương bị thất hãm, Trong con
người chỉ còn có Dương trung chi Âm Tinh mà thôi.Phàm
nước mắt, nước miếng, phàm tân dịch, khí huyết, đều là Âm Tinh. Khí Chất
nó không cương, còn thân thì nó còn, mất thân thì nó chết, sự tồn vong
của nó tùy thuộc vào ẢO Thân của ta. Nếu chỉ tu cái Dương Lý Âm Tinh
nhất vật đó, mà muốn bảo mệnh toàn hình, làm cho hết gầy ốm, thì cuối
cùng sẽ không nên chuyện. Người thế gian chỉ lo Lao Hình, Án Ảnh, phục
khí nuốt mây, cùng trăm nghìn phép khác, nếu không phải là luyện Âm
Tinh, thì là bổ Âm Tinh, khác xa Chân Đạo. Càng tu càng xa
Đạo, làm sao mà phục hồi được Chân Diên, Chân Hống, trở về
được với Nhất Khí, bắt Chân Long Chân Hổ về hợp lại một nhà.
Kim Đơn chi Đạo, là Đạo sinh thân vậy.
Sinh thân chi đạo là Đạo Âm Dương hợp nhất. Âm Dương hợp nhất thì sinh
cơ mới còn.
Đạo sinh ra
người, là mượn phàm phụ, phàm mẫu mà sinh ra Ảo Thân.
Đạo sinh ra
tiên, là mượn Linh Phụ, Linh Mẫu để thành Chân Thân.
Linh Phụ tức là Cương Kiện chi Chân
Tri.Thánh Mẫu là Nhu Thuận chi Linh Tri.
Sinh Nhân, sinh Tiên, đều không ngoài Âm
Dương.
Bất quá có chuyện phân biệt Thánh Phàm, là
vì Thuận Nghịch mà phân ra.
Nếu con
người chịu suy về Lý sinh ra con người, thì sẽ đại giác, đại
ngộ.
Hãy suy xem tại sao cha mẹ gặp nhau, tại
sao lại giao cảm với nhau, tại sao lại thụ thai, tại sao lại bảo thai,
tại sao thai lại toàn, tại sao sinh ra, tại sao lại bú mớm, tại sao biết
đi, tại sao khôn lớn, thì đầu đuôi của chuyện tu đạo, sẽ minh minh bạch
bạch. Cứ thế mà tiến, mà phản bản hoàn nguyên, mà khởi tử hồi sinh, mà
bảo mệnh toàn hình, mà trở thành Đại Dược Vương. Tu Đại Đạo chẳng qua là
lý Sinh Thân, không có phép khác.
Bàng môn tả
đạo chỉ biết Cô Âm Quả Dương, trước không, chấp tướng, chỉ tu
có một vật, thì làm sao biết được chuyện này.
(Mới hay,
khi chưa vào được quẻ Phục, thì trong người mới chỉ có Âm Tinh, mà chưa
có Chân Dương.)
Bài 10
Hảo bả
Chân Diên trước ý tầm,
好
把
真
鉛
著
意
尋
Mạc giao
dung dị độ quang âm.
莫
教
容
易
度
光
陰
Đãn
tương địa phách cầm chu Hống,
但
將
地
魄
擒
朱
汞
Tự hữu
Thiên hồn chế thủy câm (kim).
自
有
天
魂
制
水
金
Khả vị
Đạo cao Long Hổ phục,
可
謂
道
高
龍
虎
伏
Kham
ngôn Đức trọng quỉ thần khâm.
堪
言
德
重
鬼
神
欽
Dĩ tri
thọ vĩnh tề Thiên Địa,
已
知
壽
永
齊
天
地
Phiền
não vô do cánh thượng tâm.
煩
惱
無
由
更
上
心
Tạm dịch:
Chỉ việc
Chân Diên quyết ý tầm,
Không để
tiêu hao hết quang âm.
Hãy lấy
Chân Tri
cầm Chu Hống,
Sẽ có
Thiên Hồn
chế Thủy Câm.
Nên nói
Đạo cao Long Hổ phục,
Mình mà
đức trọng, quỉ thần khâm.
Đã rằng
trường thọ cùng trời đất,
Còn đâu
phiền não vướng bận tâm?
Thơ trên
dạy người Cùng Thủ sinh thân chi xứ, phản bản hoàn nguyên. Mà
phản bản hoàn nguyên là phải biết Chân Diên nhất vị đại dược, biết được
Chân Diên tức là biết Đắc Nhất, Vạn sự tất. Ngoài ra đều là chuyện dễ.
Chân Diên không phải là chi khác mà chính là Chân Tri của Đạo Tâm mà
thôi. Chân tri còn có tên là Chân Chủng. Không biết được
Chân chủng, thì Tu đạo sẽ vô bản, làm chi cũng là uổng phí công phu.
Cho nên
nói: Chỉ cần để ý tìm Chân Diên, ba chữ Chước ý tầm có
nghĩa như là: Cách vật trí tri, cùng lý tận tính vậy. Người muốn
tu Đại Đạo. Nếu biết được Thật Lý, thì hạ thủ công phu nào có khó gì, có
khác gì trồng cây nêu sẽ thấy bóng. Nếu không biết được Thật Lý, thì
chẳng qua là ước mơ Thiên Bảo. Khiến như treo trên không mà không có
thật, đó là uổng phí quang âm vậy. Địa phách, thủy câm, là Âm trung
chi Dương, đó là Chân Tri nói theo Pháp Tượng. Thiên hồn Chu Hống, là
Dương trung chi Âm, là Chân Tri nói theo Pháp Tượng. Và nếu
muốn «Tương Địa hồn cầm chu hống», là dùng Chân Tri mà chế Linh Tri vậy.
Tự hữu «Thiên Hồn chế Thủy Kim» là dùng Linh Tri để nuôi
dưỡng Chân Tri. Chân Tri thì Cương, thuộc Dương nên là Chồng, Linh Tri
thuộc Âm nên là Vợ. Dùng chồng chế vợ, vợ sẽ thuận chồng, Vợ thuận chồng
và chồng cũng yêu vợ, phu thê tương đắc, nên sinh cơ luôn còn. Cho nên
Tham Đồng Khế nói: Thái Dương lưu châu thường muốn xa người, sau gặp Kim
Hoa nên chuyển thành Tương Nhân vậy. Chân tri, Linh tri hai bên hợp
nhất, Cương Nhu qui Trung, biến thàng Lương Tri, Lương Năng, tịch nhiên
bất động, cảm nhi toại thông, thánh thai có tượng.
Tới giai
đoạn này, thì: Đạo cao nhi Long Hổ phục, Đức trọng nhi quỉ thần khâm,
Phương thả thọ vĩnh tề Thiên Địa, làm sao mà lòng còn phiền não
được?
Bài 11
Hoàng Nha,
Bạch Tuyết
bất nan tầm,
黃
芽
白
雪
不
難
尋
Đạt giả
tu bằng đức hạnh thâm.
達
者
須
憑
得
行
深
Tứ tượng
ngũ hành toàn tạ thổ,
四
象
五
行
全
藉
土
Tam
nguyên
bát quái khởi ly nhâm?
三
元
八
卦
豈
離
壬
Luyện
thành linh chất
nhân nan thức,
煉
成
靈
質
人
難
識
Tiêu tận
âm ma, quỉ mạc xâm.
銷
盡
陰
魔
鬼
莫
侵
Dục
hướng nhân gian lưu bí quyết,
欲
向
人
間
留
秘
訣
Vị phùng
nhất cá thị tri âm.
未
逢
一
箇
是
知
音
Tạm dịch:
Chân Hống, Chân Diên chẳng khó tầm,
Những ai
được nó Đạo ắt thâm.
Tứ tượng, Ngũ hành đều nhờ Thổ,
Tam Nguyên bát quái phải nhờ Nhâm.
Luyện
thành Đại Dược nào ai biết,
Tiêu tận
Âm Ma, quỉ khó sâm.
Bí quyết
muốn lưu cho trần thế,
Nhìn
quanh chẳng thấy có tri âm.
Thơ trên nói người Đạo cao Đức cả, thì
Long Hổ đều thuần thuận. Cho nên có Đạo không thể vô Đức, có Đức không
thể vô Đạo vậy.
Vả chí Đạo không phiền, Đạo Dược chẳng xa,
Bạch Tuyết ở ngay trước mắt, Hoàng Nha cũng ở trong nhà. Chỉ cần quyết
tâm, là có trong tay. Cho nên nói: Bất nan tầm.
Vả Đạo này
làm ta siêu phàm, nhập thánh, Siêu tử Hồi sinh, đó là thiên hạ hi hữu
chi sự. Tuy chẳng khó tìm, nhưng nếu không phải người đại hạnh, đại đức
thì cũng không biết, cho nên mới nói: Đạt giả tu bằng đức hạnh thâm.
Mà quả thật người quân tử, phu phụ đức hạnh, thì tìm ra không khó.
Tứ tượng là: Tứ khí Kim Mộc Thủy Hỏa. Cùng với Thổ là Ngũ Hành.
Tam Nguyên là: Thiên Nguyên, Địa Nguyên,
Nhân Nguyên hay Thượng nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên.
Bát quái là: Âm Dương của Tứ Tượng, Ngũ
hành. Kiền là Dương Kim, Đoài là Âm Kim, Khảm là Dương Thủy, Cấn là Âm
Thủy, Chấn là Dương Mộc, Tốn là Âm Mộc, Ly là Dương Hỏa, Khôn là Âm Hỏa.
Bát quái tuy phối Tứ Tượng Âm Dương, nhưng
Khôn Cấn cũng gồm đủ Mậu Kỷ nhị Thổ. Khôn là Âm Thổ, Cấn là Dương Thổ.
Khí Ngũ hành, gồm đủ bên trong.
Ngũ Hành ở nơi người là Ngũ Nguyên: Tính,
Tình, Tinh, Thần, Khí. Phát ra thành Ngũ Đức: Nhân, Nghĩa, Le, Trí, Tín.
Tam Nguyên ở nơi người là Nguyên Tinh, Nguyên Khí, Nguyên Thần.
Bát quái ở
nơi người là Ngũ Nguyên, Ngũ Đức cương nhu chi Tính.
Tổng chi, thì Tứ tượng, Tam Nguyên, Bát
Quái đều là Ngũ Hành biến hóa ra. Chứ không phải ngoài Ngũ Hành còn có
Tứ Tượng, Tam Nguyên, Bát quái vậy.
Tứ
tượng, Ngũ Hành toàn tạ thổ là
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí đều nhờ vào Tín mà có.
Tam
Nguyên, Bát quái khởi ly Nhâm
là Tính Tình Thần Khí không sao rời Tinh Nhất vậy.
Hoàng Nha
là sinh cơ của Thổ. Trong đó có Tín.
Bạch Vân là
Thủy chi khinh thanh, là Tinh chí ư Nhất vậy.
Nhân Nghĩa Lễ Trí mà qui ư Tín, mà doãn
chấp quyết trung, thì Hoàng Nha sẽ lớn dần.
Tính tình Thần Khí qui ư Nhất trung, duy
tinh, duy nhất, và Bạch Tuyết sẽ bay lên không trung, tinh nhất chấp
trung, cứ tu luyện như vậy, càng ngày càng mạnh, Đạo Tâm ngày một mạnh,
Nhân tâm ngày một tĩnh, Chân Tri, Linh Tri hai bên hợp nhất. Một hạt bảo
châu sáng láng, tròn trĩnh hiện ra trên không trung, thường ứng, thường
tĩnh, sắc không không bợn, sáng tối tùy thời, trước Trời mà Trời không
trách, sau Trời cho đúng thời Trời, huống chi là con người, huống chi là
thần minh? Người không hay, thần không sâm, đâu phải là lời nói suông.
Đạo này, thật là giản dị, tóm tắt lại
không phiền tạp, biết ra thì lập tức bước lên thánh vị, Chẳng đợi ba
năm, chín năm. Chỉ tại thế gian không có người trượng phu, đức hạnh,
không có chân chính nam tử, nhiều người đẽo rìu đã có cán mẫu kề bên mà
vẫn cho là xa. Tiên Ông nói: Bí quyết muốn lưu cho trần thế, Nhìn quanh
chẳng thấy có tri âm. Thật đang buồn vậy.
Bài 12
Thảo
mộc, Âm Dương diệc lưỡng tề,
草
木
陰
陽
亦
兩
齊
Nhược
hoàn khuyết nhất, bất phương phi.
若
還
缺
一
不
芳
菲
Sơ khai
lục diệp, Dương tiên xướng,
初
開
綠
葉
陽
先
倡
Thứ phát
hồng hoa, Âm hậu tùy,
次
發
紅
花
陰
後
隨
Thường
Đạo tức tư vi nhật dụng,
常
道
即
斯
為
日
用
Chân
nguyên phản thử hữu thùy tri.
真
源
反
此
有
誰
知
Báo ngôn
học Đạo chư quân tử,
報
言
學
道
諸
君
子
Bất thức
Âm Dương mạc loạn vi.
不
識
陰
陽
莫
亂
為
Tạm dịch:
Thảo Mộc
Âm Dương vốn đủ đôi,
Nếu như
thiếu một, chẳng đẹp tươi.
Lá xanh
nảy trước, Dương tiên xướng,
Hoa đỏ
sinh sau, Âm hậu tùy.
Thường
đạo y theo mà biến hóa,
Chân
Nguyên đi ngược biết sao suy?
Đôi lời
cảnh cáo chư quân tử,
Không
hiểu Âm Dương chớ loạn vi.
Thơ trước nói Đức không thể không tu, Thơ
này nói Đạo không thể không biết. Dịch viết: Nhất Âm nhất Dương chi vị
Đạo. Đạo nói: Thiên Địa nhân uân, vạn vật hóa thuần (Trời đất un đúc,
vạn vật hóa thuần). Nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh (nam nữ giao cảm,
vạn vật hóa sinh).
Đạo Kim Đơn luôn vận dụng lẽ Dương Kiện,
Âm Thuận. Âm Dương mà hợp nhất thì sẽ Sinh Đơn, Duyên Mệnh, Âm Dương mà
chống nhau, thì sinh rắc rối và sẽ đoản mệnh.
Thử nhìn xem thảo mộc vô tình, sẽ thấy
chúng bắt đầu sinh lá xanh, thế là Dương tiên xướng, sau đó nở hoa đỏ,
thế là Âm hậu tùy. Âm Dương không hề lìa xa nhau. Suy rộng ra, thì tất
cả mọi vật hữu tình, cũng đều nhờ Âm Dương mà thành. Bất quá là Thường
Đạo đi theo chiều Thuận, Tiên Đạo đi theo chiều nghịch. Thuận là Thuận
hành Âm Dương, Nghịch là nghịch vận Âm Dương.
Thế nhân chỉ biết đạo Thuận hành, mà không
biết Đạo Nghịch hành, cho nên chỉ chạy theo giả cảnh mà không biết Nguồn
gốc chân thật của mình. Dương cực thời sinh Âm, Âm cực thời sẽ chết.
Người học Đạo, phải biết Âm Dương. Biết
được Âm Dương là biết được Nguồn Gốc thật của mình (Chân Nguyên). Chân
Nguyên chính là Huyền Tẫn chi Môn. Sinh Âm ở đó, sinh Dương ở đó. Thuận
cũng ở đó, Nghịch cũng ở đó.Tri thường, phản bản, sẽ lập tức đăng thánh
vức.
Nhưng Âm
Dương không phải có một thứ. Có Tiên Thiên Âm Dương, có Hậu Thiên Âm
Dương, có Mệnh trung Âm Dương, có Tính trung Âm Dương, có Chân Âm Dương,
có giả Âm Dương, có ngoại Âm Dương, có nội Âm Dương, những thứ Âm Dương
đó phải truy cứu cho tường tận. Sau đó mới dám hạ thủ. Nếu không biết
Chân ÂM, Chân Dương mà loạn tác, loạn vi, mà bỏ Chân vào Giả, thì sẽ làm
tiêu Tính Mệnh vậy.
Bài 13
Bất thức
huyền trung điên đảo điên,
不
識
玄
中
顛
倒
顛
Tranh
tri hỏa lý hảo tài liên.
爭
知
火
里
好
栽
蓮
Khiên
tương Bạch Hổ qui gia dưỡng,
牽
將
白
虎
歸
家
養
Sản cá
minh châu tự nguyệt viên,
產
箇
明
珠
似
月
圓
Mạn thủ
dược lô khan hỏa hậu,
謾
守
藥
爐
看
火
候
Đãn an
thần tức nhiệm thiên nhiên,
但
安
神
息
任
天
然
Quần Âm
bác tận Đan thành thục,
群
陰
剝
盡
丹
成
熟
Đào xuất
phàm lung
thọ vạn niên.
逃
出
凡
籠
壽
萬
年
Tạm dịch:
Không
biết Huyền Trung Điên Đảo Điên,
Làm sao
trong lửa biết trồng sen,
Dẫn con
Hổ Trắng về nhà dạy,
Sinh
được Minh Châu tựa nguyệt viên.
Lò thuốc
giữ gìn, xem hỏa hậu,
Mới hay
Thần tức rất tự nhiên.
Quần âm
quét sạch đan thành thục,
Thoát
khỏi cũi lồng, thọ vạn niên.
Thơ trước
dạy người nhận thức Âm Dương, thơ này dạy người phải cứu xét kỹ càng
công dụng. Công Dụng chính là phép điên đảo Âm Dương vậy. Không biết
cách Điên Đảo Âm Dương, làm sao biết được vi diệu của chuyện trồng sen
trong lửa. Cái gì là Điên, cái gì là Đảo. Bạch Hổ thuộc Kim, tức là một
khí Cương Kiện Trung Chính của cung Kiền, tên là Đạo Tâm, phát thành
Chân Tri chi Tình. Nhân giao vào Hậu Thiên cho Nhân Tâm dụng sự, cho nên
Đạo Tâm không sáng ra, chân tình muội và vọng tình sinh. Như con Bạch Hổ
từ nhà ta ra đi, chạy đến nhà khác làm bị thương người. Điên đảo là từ
vọng tình phản lại chân tình, phối hợp lại với Chân Tính, như dẫn con
Bạch Hổ từ nhà người trở về nhà cho ta chăm sóc lại. Chân tình đã hồi,
Chân tính đã hiện, tính tình tương luyến, tiên thiên Chân Nhất chi khí,
từ Hư Vô trung trở lại, kết thành một viên ngọc quí, như mặt trăng tròn
vạnh, chiếu diệu quang huy, sơn hà đại địa nằm gọn trong tay. Kim Đơn có
tượng. Tham Đồng Khế viết: Sở vị Kim lai qui Tính sơ, nãi đắc xưng
Hoàn Đơn. Hoàn Đơn đã kết, Lương Tri, Lương Năng, tĩnh thời Vô Vi,
động tắc tự nhiên, thung dung Trung Đạo, Dược tức là Hỏa, Hỏa tức là
Dược. Sức Thái Thủ lúc đó vô dụng. Chỉ cần an thần tức, nhiệm thiên
nhiên, để Âm Dương hòa khí trong lò, Chân Hỏa luyện sạch hết quần Âm,
hóa thành thuần Dương. Thế là thuốc chín, nuốt nó vào, sẽ thoát thai,
hoán cốt, nhảy ra khỏi cũi lồng, cùng Trời đồng thọ, trường sinh bất tử
vậy.
Giải thích: Nhìn kỹ đồ bản này sẽ hiểu rõ lẽ Âm Dương điên đảo, Thuận sinh nhân,
nghịch sinh tiên.
– Sáu
quẻ Âm bên phải: Cấu, Độn Bĩ Quan, Bác, khôn là Thuận sinh Nhân.
– Sáu quẻ Dương bên trái là Nghịch sinh Tiên.
– Sáu
quẻ Âm bên phải thì Âm làm chủ, Âm càng ngày càng tăng.
– Sáu
quẻ Dương bên trái thì Dương làm chủ, Dương càng ngày càng tăng.
Phải
trái hai bên ngược nhau như vậy là Âm Dương điên đảo.[78]
Bài 14
Tam ngũ
nhất đô tam cá tự,
三
五
一
都
三
箇
字
Cổ kim
minh giả thật nhiên hi.
古
今
明
者
實
然
稀
Đông
tam, nam nhị đồng thành ngũ,
東
三
南
二
同
成
五
Bắc
nhất, Tây phương Tứ cộng chi.
北
一
西
方
四
共
之
Mậu kỷ
tự cư sinh số ngũ,
戊
己
自
居
生
數
五
Tam gia
tương kiến kết Anh Nhi.
三
家
相
見
結
嬰
兒
Anh Nhi
thị Nhất hàm Chân Khí,
嬰
兒
是
一
含
真
氣
Thập
nguyệt thai viên nhập Thánh Ki.
十
月
胎
圓
入
聖
基
Tạm dịch:
Ba số
Ba, Năm, Một xưa nay,
Những
người hiểu nó thật hiếm hoi.
Đông
Tam, Nam nhị đều là Ngũ,
Bắc
Nhất, Tây phương Tứ cộng hài.
Mậu kỷ
tự cư sinh số Ngũ,
Tam gia
tương khiến kết Anh Hài.
Anh Hài
là Nhất hàm chân khí,
Thập
nguyệt hoài thai hợp Thánh Ki.
Thơ trước nói về lẽ Âm Dương điên đảo, thơ
này nói về lẽ Toản thốc Ngũ hành. Con người khi vừa sinh ra thì đã có đủ
tính Ngũ Hành. Mà Ngũ Hành lúc ấy là một khí hồn nhiên, nhưng khi giao
vào Hậu Thiên mỗi hành đều giữ một Tính. Kim Mộc không giao nhau, Thủy
Hỏa không hợp nhau, Chân Thổ bị mai tàng, Giả thổ bị trương cuồng. Tính
loạn, Mệnh giao (động), Dương khí tận, nhi Âm khí thuần, như vậy thì
không chết làm sao được? Tiên Ông đề xuất ra ba chữ: Tam, Ngũ, Nhất. Dạy
người toản thốc (hợp nhất) ngũ hành, đem chúng về một nhà, trả lại
cho ta cái bản lai Lương Tri, Lương Năng của chúng ta, trả lại cho
ta cái Thiên Lý, hồn nhiên diện mục của chúng ta. Nhưng Ba chữ
Tam, Ngũ, Nhất, xưa nay đã làm cho nhiều anh hùng không hiểu biết nó,
trong số đó chỉ có vài người hiểu được mà thôi.
Cái gọi là Tam Ngũ là: là các Sinh Số
trong Hà Đồ Ngũ hành. Đông Tam Mộc, Nam Nhị Hỏa, Hỏa sinh ư Mộc, Mộc
Hỏa là Một Nhà. Là một Ngũ. Tây Tứ Kim, Bắc Nhất Thủy, Thủy sinh ư
Kim, Kim Thủy là Một Nhà. Là một Ngũ nữa. Trung ương Thổ làm
thành một nhà. Là một Ngũ nữa.
Người tu đạo biết được Tam Ngũ này.
Nghịch nhi tu chi, hợp hòa tứ tượng, toản thốc ngũ hành, thì Tính
Tình Tinh Khí Thần sẽ ngưng kết. Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín sẽ đồng Khí, thế
là Tam Gia tương kiến. Nho gia gọi thế là Thái Cực, là Thiên Lý, là
Chí Thiện, là Chí Thành. Đạo gia gọi thế là Anh Nhi là Tiên Thiên nhất
khí, là Thánh Thai, là Kim Đơn. Phật gia gọi thế là Viên Giác, là Chân
Không, là Pháp Thân, là Xá Lợi, là Ma Ni Châu, vô số danh tự. Nói
chung lại, đó là Thiên Lương bản tính của chúng ta. Đạo phục bản
tính, Lương Tri, Lương Năng hoàn nguyên, phản bản.
Ôn dưỡng 10 tháng, thì sẽ được khí túc,
thần toàn, thoát ly khổ hải, thân ngoại hữu thân, nhập vào thánh vức,
bất sinh bất diệt vậy.
Bài 15
Bất thức Chân Diên chính tổ tông,
不
識
真
鉛
正
祖
宗
Vạn ban tác dụng uổng thi công.
萬
般
作
用
枉
施
功
Hưu thê mạn khiển Âm Dương cách,
休
妻
謾
遣
陰
陽
隔
Tuyệt lạp đồ giao trường vị không.
絕
粒
徒
教
腸
胃
空
Thảo mộc kim ngân giai tể chất,
草
木
金
銀
皆
滓
質
Vân hà nhật nguyệt thuộc mung lung.
雲
霞
日
月
屬
朦
朧
Cánh nhiêu thổ nạp tịnh tồn tưởng,
更
饒
吐
納
並
存
想
Tổng dữ Kim đơn sự bất đồng.
總
與
金
丹
事
不
同
Tạm dịch:
Không biết Chân Diên chính tổ tông,
Tác dụng, thi vi, uổng thi công.
Bỏ vợ khiến cho Âm Dương cách,
Không ăn nên khiến vị trường không.
Thảo mộc kim ngân đều cặn bã,
Vân hà nhật nguyệt thuộc mung lung.
Xin đừng thổ nạp cùng tồn tưởng,
Cùng với Kim Đơn sự chẳng đồng.
Thơ trên nói về Toản Thốc Ngũ hành (hòa
hợp Ngũ hành) qui về Một khí, mới lên thánh vị. Nhưng Toản Thốc Ngũ
Hành, cần phải được Nhất Khí Tiên Thiên, thì mới nên hạ thủ. Một hào
Dương nơi quẻ Khảm, là khí Cương Kiện trung Chính của quẻ Kiền. đó là
Đạo Tâm Chân tri, thủ Tượng là Chân Diên, sở sinh của Thiên Nhất, có đủ
Tiên Thiên Chân Nhất chi Khí, đó là Tổ Khí của sinh vật. Thành Thánh
thành Hiền tại đó, thành Phật, thành Tiên cũng tại đó. Nó là Căn Bản
sinh ra Thánh Hiền, là Chủng tử của Tiên Phật, là Tông tổ của Kim Đơn. Cho nên nói: Tri kỳ Nhất, vạn sự tất chính là vậy.
Nếu không biết Chân Diên thì Tu không có
Tông Tổ, Tu đơn không có căn bản. Và các chuyện bỏ vợ, nhịn ăn, thiêu
luyện thảo mộc kim ngân, thực sôn vân hà, nhật nguyệt, thổ nạp trọc khí,
các cảnh tượng Tồn Tưởng, vạn ban tác dụng như vậy, nếu không Trước
Không, thì cũng là Chấp tướng. Đều là chuyện phí phao công lực. Không hề
có quan hệ gì với Đạo Kim Đơn.
Bài 16
Vạn quyển tiên kinh ngữ tổng đồng,
萬
卷
仙
經
語
總
同
Kim Đơn chỉ thử thị căn tông.
金
丹
只
此
是
根
宗
Y tha Khôn vị sinh thành thể,
依
他
坤
位
生
成
體
Chủng hướng Càn gia giao cảm cung.
種
向
乾
家
交
感
宮
Mạc quái thiên cơ câu lộ tiết,
莫
怪
天
機
俱
露
泄
Đô Duyên học giả tự mê mông.
都
緣
學
者
自
迷
蒙
Nhược nhân liễu đắc thi trung ý,
若
人
了
得
詩
中
意
Lập kiến Tam Thanh Thái Thượng ông.
立
見
三
清
太
上
翁
Tạm dịch:
Vạn quyển tiên kinh nghĩa giống nhau,
Kim Đơn lấy đó làm gốc đầu.
Hào Dương quẻ Khảm là Khôn thể,
Hào giữa Âm Ly ấy Càn cung
Đừng nói Thiên Cơ chưa tiết lộ
Đều vì học giả, dạ rối tung.
Nếu người hiều rõ thi trung ý,
Ắt sẽ thành tiên, chẳng khó khăn.
Mười lăm bài thơ trên, học nói Thuận hoặc
nói Nghịch hoặc nói Chia, hoặc nói Hợp, hoặc chỉ Dược Vật, hoặc nói Hỏa
hậu, biện biệt Chân Giả, điều trần Thị Phi, tế vi, tằng thứ, nói phân
tán ra chưa có hoàn chỉnh, sợ người nghi ngờ là chuyện rất phiền đa, khó
mà tiến bộ. Cho nên thơ này tổng kết ý 15 thơ trên, dạy người rằng Đạo
thật là Chí Giản, Chí Dị.
Tiên Chân từ xưa đến nay, viết Đan Kinh,
Đạo thơ, trăm nghìn lời bóng bảy, dựa vào Tượng quẻ để nói lên lời, cực
lực hình dung, phát minh Đạo tủy, tuy cách nói khác nhau, nhưng lý lẽ
chỉ có một, đều là muốn chỉ vẽ Căn Tông của Kim Đơn. Không giống như các
đời sau, sách càng nhiều, thì người càng loạn, mỗi người mỗi ý, đi vào
bàng môn. Họ đâu có biết Căn Tông của Kim Đơn, là Thủ Khảm Điền Ly,
từ Khôn trở về Kiền mà thôi.
Khôn vị sinh thành thể là Khảm trung nhất
dương vậy. Càn gia giao cảm cung là Ly trung Nhất Âm vậy. Khảm vốn là
thể Khôn, nên nói Khôn vị. Ly vốn là thể Kiền nên nói Càn gia.
Kiền thời
dị tri, Khôn thời Giản năng. Kiền là Cương Kiện, Khôn là Nhu Thuận, vì
Cương Kiện cho nên dị tri mà không phạm nạn, Vì Nhu Thuận cho nên giản
năng mà không miễn cưỡng. Dị tri giản năng ở nơi con người là bản Lai
bản tính Lương tri, Lương Năng.
Khi sinh
ra, thì Kiện Thuận là một, Cương Nhu hỗn thành, bất thức, bất tri, thuận
Đế chi tắc, viên đa đà, quang chước chước, tĩnh khỏa khỏa, xích sái sái,
chỉ là một bản tính Lương Tri, Lương Năng mà thôi, không có chút chi
là cặn bã.
Khi 16
tuổi, Dương Cực sinh Âm, giao ư Hậu Thiên, Âm Khí dụng sự, Lý Dục
giao tạp, Kiện Thuận bất đáng, Cương Nhu thất tiết, vì thế nên Dương
bị Âm hãm, Thiên Chân bị lu mờ, y thức như Kiền giao Khôn, một
hào Dương của quẻ Kiền, nhập vào Khôn Cung, quẻ Khôn như vậy sẽ chắc ở
giữa và biến thành quẻ Khảm.
Thế là
Dương trộm Âm vị, tri thức dần dần khai, như Khôn giao Kiền. Một Âm của
Khôn nhập vào Kiền. Kiền trung Hư biến thành quẻ Ly. Thiên Tâm mờ thì
Đạo Tâm cũng tàng, nhi duy vi, tri thức khai thời Nhân Tâm sinh, nhi duy
nguy. Vi là tuyệt vô nhi cận hữu, Dương không thắng Âm vậy.
Nguy là Kiến cảnh sinh tình, Âm thắng Dương vậy.
Nhưng tuy Đạo Tâm duy vi, nhân tâm duy
nguy, Đạo tâm chưa bị toàn diệt, nhân tâm chưa toàn thịnh. Đạo
Tâm chưa bị toàn diệt là có lúc sẽ Hắc trung sinh bạch, đó là Chân
Tri. Nhân tâm là gặp chuyện biết tùy cơ ứng biến, nên gọi là Linh tri.
Tu đơn chi đạo, là Âm trung phản dương
(tu chiều Dương), lấy Chân Tri của Đạo Tâm điểm xuyết cho Linh tri
của Nhân Tâm. Linh tri qui chân, Chân tri chí linh, Đạo tâm cương kiện,
Nhân Tâm nhu thuận, Âm Dương giao cảm, cương nhu tương ứng, nhu thuận
tương đương, Chân Linh bất tán, trở về Lương Tri Lương Năng, trở về Kiền
Nguyên Diện Mục, thế gọi là Thủ Khảm Điền Li, thế gọi là Y Khôn Chủng
Kiền. Kỳ thật là Y tha Khôn vị sinh thành thể, chủng hướng Kiền gia
giao cảm cung. Thế chính là Nghĩa câu Thủ Khảm Điền Ly. Thủ Khảm là
làm cho hào Dương của quẻ Khảm được thoát ra. Khảm trở lại thành Khôn.
Điền Ly là làm cho hào Âm tạp loạn của quẻ Li biến thành Kiền. Kiền Khôn
thể thành, thì Huyền Tẫn lập và Cốc Thần tồn, Kim Đơn ngưng kết, Tính
Mệnh tới tay, không còn bị Hậu Thiên Tạo Hóa câu thúc. Thế là
Thiên cơ muôn kiếp mới truyền, đó là Thượng cổ Tiên Chân, không nên nói
rõ ra. Tiên ông đại từ đại bi làm 16
bài thơ trên phát hiện những gì người xưa chưa từng nói, thực là bạt
thiên căn, tạc lý quật, trực chỉ cho thấy tông chỉ của Kim Đơn. Như vậy
đã tiết lộ Thiên cơ rất nhiều. Nếu ai ngộ được nghĩa lý của các bài thơ
sẽ bước lên thánh vị, và sẽ gặp được Tam Thanh Thái Thượng tiên Ông. Đâu
phải là nói suông.
CHÚ THÍCH
Phật
giáo coi vạn hữu là giả tướng, không có đầu đuôi.
[2] Minh
ngộ chân lý, tâm và Chân lý khế hợp làm một.
[3] Luận Ngữ.
[4] Luận Ngữ, Tử Hãn, IX, 4.
[5] Xem
Thuyết quái I, tiết ba.
[6] Mạnh
Tử, Công tôn Sửu thượng, câu 2.
[7] Xem
Nam Hoa Kinh, Tiêu Diêu du.
[8] Mũ
vàng, áo đen = người theo đạo Lão.
[9] Là
Tiêu Đình Chi [cỏ linh chi Tiêu Đình], hay là Ngũ Tạng chi chân khí.
[10] Nhật,
Nguyệt và năm hành tinh Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
[11] Phun
nước, vẽ bùa để đuổi ma quỉ.
[12] Phi
Mệnh, hoành hoạ.
[13] Thanh
văn thừa, Duyên giác thừa.
[14] Thân
thể.
[15]
Nguyên Tinh, Nguyên Thần.
[16] Hoàng
Đạo là 2 mạch Nhâm Đốc hợp xưng.
[17] Mộc
Dịch, Kim tinh, Ý thổ tam gia.
[18] Đơn
điền.
[19] Ngũ
hành kết hợp tại Trung cung.
[20] Phu=
Nguyên thần, Phụ= Nguyên tinh.
Nê
Hoàn cung.
[22] Hạ
đơn điền.
[23] Kim
Đơn.
[24] Thái
Nhất hay Đại Nhất= nguyên khí vị phân.
[25] Phiến
khắc 片 刻.
[26] Trừu
Diên, thiêm Hống = hoá Âm tinh vi nguyên dương dĩ đạt thuần dương
kim đơn. 化 陰精 為 元 陽
以 達 純 陽 金 丹.
[27] Dưỡng
chính = Xem quẻ Mông, thoán truyện; Trì doanh xem ĐĐK 9: Trì nhi
doanh chi bất nhược kỳ dĩ.
[28] Bão
nhất, ĐĐK, 22; Thủ Thư ĐĐK 28. Tinh thần nội thủ, ninh tĩnh bất
động.
[29] Hoả
hầu tiến thoái, hữu như tiết khí biến hoá, như sơ tiến Dương Hoả, sơ
tiến Âm Phù tượng Đông Chí, Hạ Chí, Ôn Dưỡng mộc dục tượng Xuân
Phân, Thu Phân.
[30] Đoạn
này nói về chuyện Nan ngộ nhi dị thành của khoa Luyện Đơn.
[31] Diên
nặng nên trầm, Hống nhẹ nên phù, thế là Nguyên Tinh dễ hạ tiết,
Nguyên Thần dễ thượng loạn. khi nội luyện phải khiến Nguyên Thần hạ
giáng, khiến Nguyên Tinh thượng thăng.
[32] Đổng
Đức Ninh chia chủ khách làm ba loại: (1) Mộc hữu phù trầm vi chủ
tân. Mộc Hoả là Khách từ ngoài, trầm vu hạ, Kim Thuỷ là Chủ bên
trong, phù vu thượng. (2) Lấy tả hữu, thăng giáng làm Chủ Tân. (3)
Lấy Thần Khí, thân sơ làm chủ khách. Khi hành Hoả Hầu thì lấy Nguyên
Thần làm chủ, Nguyên tinh làm khách (Xem Ngộ Chân Thiên Giảng
giải, Minh Thánh, Tự tự, tr. 311, Trung Quốc Khí Công Tứ Đại
kinh điển, giảng giải, Chiết giang, Cổ tịch xuất bản xã).
[33] Kim
Thuỷ là Chân Hống, Mộc hoả là Chân Diên. Tương khắc là Chế Ngự lẫn
nhau.
[34] Nhật
hồn = Thận thuỷ trung Âm Dịch, Ly Nhật = Hoả. Ly trung Âm Hào ngụ ký
Can Mộc chi hồn.
[35] Long
đồ các học sĩ, Lục Công.
[36] Khi
ấy Ông đã 82 tuổi.
[37] Lưu Thao: Lưu hải Thiềm, đệ tử
của Lữ Động Tân.
[38] Nam
nữ tình dục.
[39] Xem
ĐĐK, chương 13.
[40] Tối cao thâm đích đạo lý.
[41] Biết mình với vạn vật là một.
[42] ĐĐK,
50.
[43] Nước
ở trong mồm.
[44] Tinh
khí trong Thận.
[45] Tống
Hi Tông Hi Ninh 2, 1069.
[46] 1.
Tiểu thừa hay Thanh Văn Thừa, tu chứng được A La Hán quả 2. Trung
Thừa hay Duyên Giác Thừa, tu chứng được Bích Chi Phật quả 3. Đại
Thừa hay Bồ Tát Thừa chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề quả.
[47] Xem Trung Hoa Đạo giáo đại từ điển, tr. 116.
[48] Xem Trung Quốc Đạo Giáo, Khanh Hi Thái chủ biên, tr. 304-306.
[49] Bất
cố có bản viết bất giác 不 覺, có bản viết Bất quản 不 管.
Như Đại Nhạc có bản viết Đẳng sơn nhạc 等 山岳.
[50] Nhai
đầu do tẩu mã có bản viết Đình tiền phương yến lạc. – Quan nội dĩ
miên thi có bản viết Thất nội dĩ thương bi. – Phi quân hữu có bản
viết: phi thân hữu. – Ngộ chi bất luyện có bản viết: Ngộ nhi bất
luyện.
[51] Nhị
vật= Khảm Ly.
[52] Hợp
nhất Tứ Tượng thành vòng tròn.
[53] Hổ Long: Nguyên tinh, Nguyên
Thần.
[54] Phong
Lãng: Vũ hoả thô hơn Văn Hoả.
[55] Trung
ương chính vị: Đơn điền.
[56] Quả
sinh chi thượng: quá trình Thái Dược.
[57] Tử
tại phúc trung = chỉ dược vật trong đơn điền.
[58] Nam
Bắc tông nguyên: Kiền Nam, Khôn Bắc.
[59] Phiên
quái tượng: Tiến Dương Hoả, Thoái Âm Phù, phỏng theo sự Biến Hoá của
các quẻ. nơi con người thì Lưng là Dương, Phúc là Âm, 6 quẻ Phục,
Lâm, Thái, Đại Tráng, Quái, Kiền là Dương, là Tiến Dương Hoả; 6 quẻ
sau là Cấu Quải Bĩ, Quan, Bác, Khôn là 6 quẻ Âm, là thoái Âm Phù.
[60] Thần
Hôn Hoả Hậu: Theo Chu Dịch Tham Đồng Khế thì Càn Khôn là Đỉnh Khí,
Khảm Ly là Thuỷ Hoả, là Diên Hống, còn 64 quẻ là Hoả Hầu. Cứ hai quẻ
l một ngày, Truân là buổi sáng, Mông là Hoàng Hôn, Nhu là sáng hôm
sau, Tụng là chiều hôm sau, v.v. Như vậy Truân là Động, Mông là
Tĩnh.
[61] Hợp
Thiên Khu (cũng đọc là Thiên Xu) là Bắc Đẩu đệ nhất tinh. Bắc Đẩu
tinh suy di theo mỗi tháng, một năm hết 1 vòng.
[62] Đại
Ẩn = Xưa có thơ: Tiểu Ẩn ẩn lăng tẩu, Đại Ẩn ẩn triền thị, Bá Di
thoán Thủ Dương, Lão Đam phục Trụ sử. 小 隱 隱 陵 藪 大
隱 隱 廛 市 伯 夷 竄 首 陽 老 聃 伏 柱 史. Phúc trung
có bản viết: Bào trung 胞 中.
[63] An
tri: có bản viết Tranh tri 爭 知.
[64] Thiêu
mao: đốt cỏ mao.
[65] Vọng
hậu có bản viết: Vọng hoàn.
[66] Tam
hoàng là Lưu Hoàng, Hùng Hoàng, Thư Hoàng.
[67] Tứ
Thần là Chu Sa, Thủy Ngân, Diên, Tiêu.
[68] Cùng
thủ sinh thân xứ là tìm ra được Bản Lai Diện Mục của mình.
[69] Dược
Vương là Chân Dương là Chân Diên. Dương tinh và Dương khí kết thành
Chân Diên, dưa nó về Nê Hoàn để cầm Chân Hống, nên gọi là Chân Tinh.
[70] Âm
trung chi Dương.
[71] Chu
Hống = Dương trung chi Âm.
[72] Hoàng
Nha = Chân Diên.
[73] Bạch
Tuyết = Chân Hống.
[74] Tam
Nguyên = Nguyên Tinh, Nguyên Khí, Nguyên Thần.
[75] Nhâm
= Tiên Thiên chi thủy, chí tinh chí linh.
[76] Linh
Chất = Đại dược.
[77] Phàm
Lung có bản viết Phàn Lung 樊 籠.
[78] Hình
vẽ và lời bàn trên là của dịch giả Nguyễn văn Thọ.
[79] Lộ
tiết: có bản viết Lậu tiết.
»
mục lục |
quyển I |
quyển II |
quyển III
| quyển IV
|