PHẦN I - KHẢO LUẬN

» mục lục | chương 1  2  3  4  5  6

CHƯƠNG 5

Lược khảo về những lễ nghi trì tụng Huỳnh Đình

Có người đến được với Trời với Đạo bằng trí huệ, có người đến được với Trời với Đạo bằng niềm tin và lòng sùng tín.

Số người đến được với Đạo bằng trí huệ, dĩ nhiên là rất ít. Đối với những người có đại căn này, thì đọc kinh là hiểu nghĩa, coi kinh là phương tiện, và chẳng cần gì lễ nghi trì tụng.

Còn những người hạ căn, phải tin kinh, kính kinh, và nhờ niềm tin ấy, kinh như sẽ có một huyền lực hộ trì họ. Có lẽ chính vì vậy mà người xưa đã bao phủ Huỳnh Đình bằng nhiều lớp mây huyền thoại, bằng một bầu không khí huyền linh, màu nhiệm để tín đồ đặt hết niềm tin kính vào kinh. Khi đọc tất cả lễ nghi truyền thụ, cùng như trì tụng kinh Huỳnh Đình, tôi liên tưởng đến lời Chúa Jésus trong Phúc âm: «Nếu bạn có đức tin to bằng hạt cải, và bạn bảo cây dâu kia rằng: Ngươi hãy bật rễ lên, ra trồng lại ở ngoài biển, và nó sẽ vâng lời bạn.» (Luc. 17. 6)

Hay trong Phúc Âm thánh Marc: «Tôi nói thực cùng các bạn nếu có ai nói với trái núi này rằng: Ngươi hãy bật lên và hãy gieo mình xuống bể, và người đó không nghi ngờ gì trong lòng, và tin rằng những điều mình nói sẽ xảy ra, thì hắn sẽ được như ý.» (Marc 11, 23)

Mới hay đức tin là mạnh. Và trong ngũ đức, thì người xưa vẫn đặt chữ tín vào trung điểm. Mà lạ lùng thay, nhân loại xưa nay thường sống về niềm tin ...

Xưa nay trong đạo Lão những người trì tụng Huỳnh Đình đều trì tụng kinh này với niềm tin sắt đá rằng mình sẽ trở thành thần tiên. Chính vì vậy mà xưa người ta luôn luôn chọn mặt gởi vàng.

Trước khi truyền kinh, họ quan hình sát sắc người đệ tử tương lai, và sau khi biết chắc chắn rằng người đó là người nhân từ, trung tín, yêu thích đời sống đạo hạnh, muốn đi tìm những điều huyền diệu, kính trọng thần minh, thầy mới truyền kinh cho trò và dạy cho biết áo nghĩa huyền vi của kinh.[1]

Khi thầy đã đồng ý truyền kinh cho trò, trò phải sửa lễ xin dâng cho thầy. Sau khi đã trai giới 9 hoặc 7 hoặc 3 ngày trò sẽ đem dâng cho thầy:

– 90 thước gấm huyền vân,

– 40 thước lụa là kim giản phụng văn.

– 9 cúc vàng.

Nếu nghèo thì có thể sửa lễ thanh đạm hơn như:

– Lụa mộc trắng

– Vải xanh

– Vòng vàng, nhẫn vàng v.v...

Thầy trò lập minh ước trước là không được tiết lộ bí quyết của Kinh cho ai, sau là thề hứa với Trời đất, với Thần minh. Một người được truyền kinh, có quyền truyền kinh cho 9 người khác.

Như vậy dĩ nhiên là Huỳnh Đình kinh xưa nay không được phổ biến. Và dù có được phổ biến chăng nữa, nhưng người đủ sức hiểu kinh chắc là cũng ít có ai. Kinh đã tam sao thất bản, lời bình thì nhiều khi hết sức bí ẩn, những bản dịch tiếng Việt thì đầy rẫy những sự sai thác, như vậy thì làm sao mà sử dụng được kinh cho hữu hiệu. Chính vì thế mà ở Việt Nam đã có những người coi Huỳnh Đình như là những bài thần chú, cứ tụng lên là âm thanh của kinh sẽ có huyền lực phác tác trên con người....

Lại cứ mỗi năm đến kỳ bát tiết 八 節 (Lập xuân, Xuân phân, Lập hạ, Hạ chí, Lập thu, Thu phân, Lập đông, Đông chí) trò phải đem dâng thày nhẫn vàng, và 9 thước lụa xanh. Thày ghi tên ngày sinh tháng đẻ, quận huyện của đệ tử vào miếng lụa đó, lên đỉnh núi cao, hướng về phía Bắc và tấu danh đệ tử lên Thanh Đế cung, và khai bẩm đại khái rằng: «Xin cửu phủ ngũ nhạc, tứ linh, nhớ cho những tên mà tôi đã trình tấu. Sau đây ba năm xin đến đón vi hình của họ, cho phép họ được lên Bát cảnh, lên Thượng đế đình. Khải tấu xong đem chôn giải lụa nơi triền núi.» [2]

Như vậy muốn tu theo Huỳnh Đình, người xưa cũng phải tốn nhiều tiền lắm. Thế là: không tiền âu cũng khó thành tiên. Có lẽ chính vì vậy mà nhiều đạo sĩ than vì nghèo, nên công phu tu luyện phải diên trì.

Quyển Huyền Diệu Cảnh 玄 妙 景 của Ly Trần Tử, Lý Xương Nhân, đã để cả một chương «Nội Ngoại Pháp, Tài, Lữ, Địa» 內 外 法 財 侶 地 để nói lên cái tâm tư đó. Ta đọc thấy cổ nhân xưa nói: «Muốn cầu báu trên trời, phải mượn của thế gian ...» [3]

Cát tiên ông 葛 仙 翁 nói: «Ta được chân quyết từ 30 năm nay, chỉ vì không có tịnh thất và tiền của, nên khó liễu đạt được chí đạo.» [4]

Trương Tam Phong 張 三 丰 than:

Muốn cầu người ngoài giúp,

Chưa gặp được cao hiền,

Hoài bão thiên cơ mấy mươi niên ...

Lại tiếp:

Không tiền khó tu luyện,

Không dám nói cùng người.

Chỉ hận ta không tiền,

Ngày đêm tấu thượng thiên... [5]

Thượng Dương Tử 上 陽 子 nói:

Được quyết, không tiền, sự bất tuyền,

Pháp, tài gồm đủ để thành tiên. [6]

Người trì tụng Huỳnh đình phải trường chay, nghĩa là không được ăn:

– Thịt lục súc (bò, ngựa, dê, gà, lợn, chó),

– Cá tanh,

– Năm thứ rau cay: Như hành sống, tỏi, hẹ, kiệu, rau hồ tuy (1 loại rau thơm).

Ngoài ra phải tránh những gì mà người đời thường cho là uế tạp. Họ cẩn thận đến nỗi, mỗi khi đi vào những con đường nhơ bẩn về, thời chẳng những phải tắm rửa, lại còn phải đốt hương nơi phía tả mình để khu trừ uế khí, gọi đó là «dĩ Dương tiêu Âm» ...

Mỗi khi vào trai đường để tụng kinh, phải trai giới, khiết tịnh, phải đốt hương, phải mặc pháp phục ...

Khi đi vào trai đường, phải tưởng như có ngọc đồng, ngọc nữ phù ủng hai bên mình, phải mường tưởng như có vùng mây tía xuống bao quanh mình, và lan tỏa khắp phòng. Phải hướng về phía Bắc, tấu bái đức Cao Thượng, Vạn Chân, Ngọc Thần Thái Đạo Quân, phải hướng về phía Đông, kính vái đức Phù Tang Thái Đế Dương Cốc Thần Vương ... Phải quay về hướng Đông mà trì tụng kinh này. Đọc lên một cách trầm hùng, ngâm nga nho nhỏ, không được đọc nhầm lẫn. Nếu nhầm lẫn phải đọc lại ba mươi chữ kinh trước khúc đó.

Khi đau yếu, nếu không cầm được quyển kinh mà đọc, thời đọc thuộc lòng. Nếu không đọc được toàn kinh, thì đọc các đoạn kinh nói về tên các thần mà thôi. Có người trì tụng kinh này mỗi ngày hàng chục lần.[7]

Cả ở đầu hai quyển Huỳnh Đình kinh mà tôi có, đều có ghi rõ nghi lễ trì tụng Huỳnh Đình. Bài kinh ở nơi mỗi quyển mỗi khác. Nhưng tất cả đều nói lên lòng chí thành, chí kính. Và đại khái đều là mường tưởng như là mình đang trì tụng kinh này trước mặt chư thần ... Nơi chương Huỳnh Đình Nội Cảnh khoa nghi trong quyển Huỳnh Đình Nội Cảnh kinh tường chú của Tử Hà có bài kinh: Chí tâm qui mệnh lễ: «Tiên thiên khí hóa, Thái Thượng Lão quân» mà sau này Cao Đài đã sửa qua lại để làm kinh nhật tụng.

Chính vì vậy, mà Vụ Thành Tử cho rằng tụng kinh này cốt là để: hoà thần chiêu linh 和 神 招 靈. Và nhiều đạo sĩ đã dùng kinh này như là một phương tiện để hộ thân.

Quyên tử 涓 子 nói: «Linh Nguyên là thần của tì. Dài 4 tấc, ngồi trên tì, như con trẻ, mặc áo vàng. Ngồi nơi trung vị, của Minh đường Lão quân. Nếu trong mình có bệnh tật, hay khi ăn uống không được tiêu hóa như ý, chỉviệc tồn tưởng đến phục sắc của Trung bộ Lão quân, phảng phất như đang ngự nơi Tì, kêu tên thần Tì ba lần, xong, nuốt tân dịch bảy lần. Vạn bệnh sẽ qua khỏi.» [8]

Nơi đây tôi không ghi chép lại chính bản các kinh hoặc chi tiết các nghi lễ để trì tụng kinh này. Riêng tôi, tôi thấy tất cả những chuyện đó chỉ có một giá trị văn học, lịch sử. Nếu mình có lòng thành khẩn thực sự, thành kính thực sự, sẽ lập tức cảm ứng tới thần linh.


CHÚ THÍCH

[1] Vụ Thành Tử 務 成 子 chú, Huỳnh Đình Kinh 黃 庭 經, tr. 2b.

[2] Vụ Thành Tử 務 成 子 chú, Huỳnh Đình Kinh 黃 庭 經, tr. 4b.

[3] Chương này của Huyền Diệu Cảnh 玄 妙 景 bàn về Pháp, tài, lữ, địa. Pháp là bí quyết chân thuyên, mà cũng có thể là nhà cửa, và các đồ vật dụng trong nhà; Tài là tiền nong; Lữ là bè bạn cùng tu; Địa là môi trường, là cơ sở thuận tiện để tu trì. Thiếu một điều kiện cũng khó tu luyện. Cổ nhân vân: Dục cầu thiên thượng bảo, tu tá thế nhân tài. 古 人 云: 欲 求 天 上 寶, 須 借 世 人 財.

[4] Cát tiên ông vân: Ngô dĩ đắc quyết tam thập niên lai, thán vô tài, nan liễu chí đạo. 葛 仙 翁 云: 吾 已 得 訣 三 十 年 來, 嘆 無 財, 難 了 至 道...

[5] Trương Tam Phong vân: Dục phỏng ngoại hộ, vị ngộ cao hiền, Bả thiên cơ hoài bão sổ thập niên. Hựu viết: Vô tiền nan tu luyện, bất cảm đối nhân ngôn. Hận chỉ hận ngã vô tiền, Trú dạ cáo Thương Thiên... 張 三 丰 云: 欲 訪 外 護, 未 遇 道 高 賢, 把 天 機 懷 抱 數 十 年. 又 曰: 無 錢 難 修 鍊, 不 敢 對 人 言. 恨 只 恨 我 無 錢, 晝 夜 告 蒼 天...

[6] Thượng Dương Tử viết: Đắc quyết vô tiền sự bất tuyền, Pháp tài lưỡng túc, tiện thành tiên. 上 陽 子 曰: 得 訣 無 錢 事 不 全, 法 財 兩 足, 便 成 仙.

[7] Vụ Thành Tử 務 成 子 chú, Huỳnh Đình Kinh 黃 庭 經, tr. 2b, 3a, 3b.

[8] Vụ Thành Tử 務 成 子 chú, Huỳnh Đình Kinh 黃 庭 經, tr. 3a.


» mục lục | chương 1  2  3  4  5  6