KHỔNG HỌC TINH HOA
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Lời nói đầu |
chương
1
2
3 4 |
Tổng luận | Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
 
Chương 2
Quan niệm về thánh
nhân theo thư tịch Nho giáo
Sau khi
khảo sát quan niệm về Trời, về Thượng Đế ở Trung Hoa, chúng ta sẽ lần
lượt nghiên cứu ba vấn đề hết sức quan trọng mà xưa nay đã bị quên lãng,
hay đã được đề cập tới một cách phớt qua. Đó là các quan niệm về:
- thánh
nhân
- Thiên tử
- Nền
Thiên trị Trung Hoa thời cổ
Thấu triệt
mấy vấn đề chính yếu này, chúng ta sẽ biết lòng dạ các tiên hiền, tiên
thánh khi các Ngài ra công trước tác, giáo hóa; ta sẽ phanh phui những
mối manh chính yếu trong giải đồng nối kết Trời người, chúng ta sẽ am
tường cách tổ chức giáo hóa và chính trị người xưa, biết những phương
pháp giản dị nhưng hữu hiệu, có thể mang lại hòa bình, hạnh phúc cho
nhân loại.
Vậy trước
hết, chúng ta hãy cùng nhau giở những trang sử sách cũ, tìm cho ra chân
dung, chân tướng của các vị thánh nhân qua các thời đại…
A. QUAN NIỆM VỀ THÁNH
NHÂN THEO TỨ THƯ NGŨ KINH
Trong cuộc
đối thoại với Hạo Sinh Bất Hại, Mạnh Tử đã định nghĩa và định vị trí của
thánh nhân như sau:
Hạo Sinh
Bất Hại, người nước Tề, hỏi Mạnh Tử: «Nhạc Chính Tử là người thế nào ?»
Mạnh Tử đáp: «Là người thiện và tín.» Hạo Sinh Bất Hại hỏi tiếp: «Sao
gọi là Thiện? Sao gọi là Tín?» Mạnh Tử giải: «Người mà hành vi nhân phẩm
đáng yêu, đáng kính, gọi là Thiện. Người làm thiện theo lương tâm và bản
tính không cưỡng ép và không giả trá gọi là Tín. Người mà lòng thiện đầy
đủ phát lộ ra khắp thân thể và mỗi cử động đều hợp vý lành, gọi là Mỹ.
Người có mỹ đức đầy đủ và làm nên sự nghiệp, khiến cho cái mỹ đức mình
chói lói trên đời, gọi là Đại. Đã là bực đại nhân, lại đứng ra hoằng hóa
cho đời, khiến cho thiên hạ đều quay về nẻo thiện, gọi là Thánh. Đã là
bực thánh cảm hóa cho đời, thế mà sở hành và trí tuệ mình chẳng ai ức
đạc nổi, biến hóa vô tận, thông với trời đất, gọi là Thần… Trong sáu bực
đó, Nhạc Chính Tử dự vào hai bực thấp, còn bốn bực kia thì ngoài sức
người vậy.»
Theo định
nghĩa của Mạnh Tử thì thánh nhân thực là hi hữu, ngàn năm một thủa.
Hữu Nhược
nói:
«… Người năm bảy đấng,
Kìa kỳ lân vẫn giống thú rừng,
Phượng hoàng vẫn loại chim muông,
Thái Sơn vẫn đúc theo khuôn đống gò,
Sông với biển vẫn nhà ngòi lạch,
Thánh với phàm một phách thế nhân,
Nhưng thánh phàm, muôn phân, ngàn biệt,
Vì thánh nhân bạt thiệp, siêu quần…»[2]
Thánh nhân
bạt thiệp, siêu quần, vì các Ngài là những người thông minh duệ trí,
nhân đức tuyệt vời
noi gương
Trời mà hành sự,
sống cuộc
đời thánh thiện, phối hợp với Thượng Đế.
Dịch Kinh
viết: «Thánh nhân đức độ sánh với trời đất, sáng láng như hai vầng nhật
nguyệt, biến thông tựa bốn mùa, ảnh hưởng người in tựa thần minh…»
Trung Dung
đề cập tới thánh nhân nhiều lần nhất, với những lời lẽ đẹp đẽ nhất. Dưới
đây, xin trích dẫn một trong nhiều đoạn.
Trung Dung
viết:
«Chỉ có đấng chí thánh trong trần thế,
Mới có đầy đủ thông minh trí tuệ.
Y như thể có trời ẩn áo giáng lâm,
Mới khoan dung, hòa nhã, ôn thuần.
Y như có dung nhan Trời phất phưởng,
Phấn phát, tự cường, kiên cương, hùng
dũng.
Y như là đã cầm giữ được sức thiêng;
Trang trọng, khiết tinh, trung chính,
triền miên,
Y như thừa hưởng được đôi phần kính cẩn.
Nói năng văn vẻ rõ ràng, tường tận,
Y như là chia được phần thông suốt tinh
vi.
Mênh mang sâu thẳm, ứng hiện phải thì,
Mênh mang như khung trời bao la vô hạn,
Sâu thẳm như vực muôn trùng thăm thẳm.
Thấy bóng ngài, dân một dạ kính tôn,
Nghe lời ngài, dân tin tưởng trọn niềm,
Ngài hành động: muôn dân đều hoan lạc.
Nên thanh danh ngài vang lừng Trung
Quốc,
Vượt biên cương lan tới các nước ngoài.
Đâu xe có thể đi, người có thể tới lui,
Đâu có được trời che và đất chở.
Đâu còn nhật nguyệt hai vầng tở mở,
Đâu có móc đọng đâu có sương rơi.
Đâu còn có dòng máu nóng con người,
Ở nơi đó ngài vẫn được tôn sùng quí báu.
Thế nên gọi là “cùng trời phối ngẫu”.»
(Trung Dung, chương 31)
B. QUAN NIỆM VỀ THÁNH
NHÂN THEO CHU HI
Trong tập
Chu Hi học án của linh mục Stanislas Le Gall, dòng Tên,
có một
đoạn bình luận về thánh nhân như sau:
«Trên mẫu
người quân tử còn có thánh nhân, kiệt tác của Tạo Hóa, tinh hoa của nhân
loại.
«Xét về
phương diện bản thể, phương diện «thiên địa chi tâm», thì thánh nhân
cũng như mọi người, đều thụ hưởng như nhau. Nhưng điểm làm cho thánh
nhân khác biệt chính là tại «khí chất chi tính» ở nơi thánh nhân tinh
toàn, thuần túy, y như hạt kim cương trong suốt, mặc tình cho ánh sáng
rọi thấu qua.
Chu Hi
nói: «Con người là tinh hoa của ngũ hành, nhưng thánh nhân là tinh hoa
của tinh hoa đó…»
«Trong
những thế kỷ tiếp giáp với thời kỳ nguyên thủy, khi hoàn võ còn măng
sữa, mới mẻ, khi khí chất hãy còn tinh khiết, thì dĩ nhiên có thánh nhân
sinh; đó là thời kỳ hoàng kim, có những thánh nhân, minh triết trị dân,
làm cho họ sung sướng. Hứa Dung Trai cho rằng đầu mỗi kỷ nguyên vũ trụ,
lại có một vị thánh nhân như Phục Hi.
Vũ trụ
càng già càng cỗi, vật chất càng ô trọc, thì thánh nhân lại càng trở nên
hiếm thấy, và hoàn võ lại dần dà quay trở về trạng thái hỗn mang nguyên
thủy.
«Dưới đây
là những vị thánh nhân đã được công nhận:
1- Phục Hi
(2852-2737)
2- Thần
Nông (2737-2697)
3- Hoàng
Đế (2697-2597)
4- Nghiêu
(2357-2255)
5- Thuấn
(2255-2205)
6- Vũ
(2205-2197)
7- Thành
Thang (1766-1753)
8- Y Doãn
(? -1713)
9- Tỉ Can
(? - 1222)
10- Văn
Vương (1232-1135)
11- Vũ
Vương (1196-1116)
12- Châu
Công (? -1105)
13- Liễu
Hạ Huệ (khoảng 600)
14- Khổng
Tử (551-479)
Vị thánh
sau cùng lại là vị thánh được suy tôn, sùng thượng nhiều nhất: đó là đức
Khổng. Tử Cống nói trong quyển V, tiết 6, Luận Ngữ: «Thực Trời đã ban
nhiều ân trạch nhiều tài năng cho đức Khổng; Ngài chính là vị Thánh…»
«Thánh
nhân chính là mẫu người lý tưởng trong nhân loại, chính là tinh hoa của
nhân loại, chính là người đã thể hiện được sự toàn thiện. Sự toàn thiện
ấy cũng được gọi là «Thành», là «Chí Thành», «chí thiện», vì thế mà
Rémusat đã dịch «thành” là «toàn thiện»; Intorcetta đã dịch là hoàn
thiện, tinh tuyền; Legge cũng dịch là tinh tuyền không pha phách tà
ngụy.
«Chu Hi
cũng định nghĩa «thành» là chân thực, không còn chút chi man muội, lỗi
lầm.
«Thánh
nhân như vậy có một đời sống hoàn toàn phù hợp với thiên lý. Cũng có thể
nói thánh nhân được mệnh danh là «thành», chính là vì đã sống cuộc đời
hoàn toàn phù hợp với tính bản nhiên, với thiên lý, và vì vậy đã phối
hợp được với trời đất, đã sánh được với trời đất.
«Chu Liêm
Khê cho rằng chữ «thành» đồng nghĩa với chữ Thái Cực, với Lý. Thái Cực
hay Lý ấy, bất kỳ ai cũng có, nhưng khi Thái Cực hay Lý đã lồng vào hình
hài, khí chất không tinh tuyền thì ảnh hưởng sẽ bị giới hạn lại. Chỉ có
thánh nhân sống theo tính bản thiện của mình, nên thần trí người nhận
định được hằng tính của mỗi vật, mỗi sự; ý chí người hướng về chân,
thiện, mỹ, không chút khó khăn và sống trong đường nhân nẻo đức, trong
trãt tự và bổn phận, không chút chi vất vả.
«Nhiều
người thường nghĩ «thánh nhân sinh nhi tri chi» và cho là thánh nhân có
khối óc thông minh quán triệt, bao quát mọi sự, mọi điều; «thánh nhân
cũng thông minh khôn lường như thần minh»… Nhưng Chu Hi cho rằng thánh
nhân chỉ thông suốt được những nguyên lý đại cương, và dễ dàng suy ra
những áp dụng cụ thể, hữu ích cho mọi người.
«Đó cũng
là ý kiến của Doãn Ngạn Minh
尹
彥
明
(1200), một nhà bình giải Luận Ngữ. Ông nói: «Tuy là bậc thánh nhân,
thông minh thiên phú, và sinh nhi tri chi, đức Khổng thường nhắc đi nhắc
lại rằng Ngài ham học, hiếu học. Ta đừng tưởng đó là Ngài nói nhún
nhường, để khuyến khích các đệ tử theo gương mà cố gắng. Không, Ngài chỉ
biết những chân lý hằng cửu, còn những áp dụng cụ thể, đặc thù, ví như
những chi tiết về lễ nghi hay nhã nhạc, những chuyện xưa tích cũ, những
biến cố lịch sử cổ kim, thời đức Khổng cũng phải học mới biết. Nhưng mỗi
khi gặp những vấn đề nan giải, khó khăn, Ngài liền thấu triệt dễ dàng,
có những quyết định sáng suốt, những phán đoán xác đáng, minh triết, vì
Ngài thông minh tinh tế rất mực.» Chu Hi cho rằng thánh nhân có một khối
óc hoàn toàn trong sáng, hàm tàng vạn lý, vừa thoạt mới cảm xúc, liền
thông suốt ngay…
«Các bậc
chí thánh đều tiên tri, tiên đoán được sự suy thịnh của các triều đại.
Các Ngài biết trước những điều hay, dở xảy tới cho đất nước bằng cách
quan sát các hiện tượng thiên nhiên, nhân tình, thế thái, hay bằng
phương pháp bốc phệ, thi, qui.»
«Thánh
nhân sở dĩ có cái nhìn tinh tế thấu triệt, vì lòng không bợn tư tà, dục
vọng, cho nên mới nhìn thấu đáo được những điều tinh vi huyền diệu.
«Thánh
nhân lại còn là những người có đức hạnh siêu việt, theo đúng Trung Dung,
Trung Đạo; xử sự luôn theo chính lý. Mạnh Tử nói: «Các quan năng thì
Trời ban cho mọi người, nhưng chỉ có thánh nhân tận dụng được quan năng
mình, vì các Ngài sống hoàn toàn hợp với chân lý, hợp với lương tri,
lương năng…
Bình đoạn
này Trình Tử cũng cho rằng thánh nhân theo đúng thiên lý, thiên đạo vì
vậy đã tận dụng được quan năng mình. Phàm nhân tuy là có đạo lý trong
mình, nhưng họ nào có biết, có hay; hiền nhân quân tử, tuy biết và theo,
nhưng không hoàn toàn triệt để; duy có thánh nhân là giữ vẹn đạo lý, cho
nên mới sử dụng quan năng được đúng mức.
«Thánh
nhân vì không bị dục tình quấy nhiễu, nên lúc nào cũng ung dung thanh
thản. Thiên lý, thiên đạo được thể hiện nơi Ngài một cách sáng tỏ để soi
đường dẫn lối cho kẻ khác…»
«Ở nơi
thánh nhân, mỗi động tác, mỗi cử chỉ, mỗi lời ăn tiếng nói, ngay đến sự
ngơi nghỉ yên lặng, cũng là những bài học hữu ích cho các bậc chính nhân
quân tử. Những kẻ phàm phu tục tử nếu không được cải hóa, thời chỉ tại
họ đã thâm căn cố đế trong tính hư nết xấu, và lòng họ đã hư hỏng. Còn
thánh nhân luôn luôn có thể soi sáng nhân trí và cải hóa nhân tâm.
«Ảnh hưởng
của thánh nhân thực là vô biên như ảnh hưởng của Trời. Chu Hi nói: «Cũng
y như xem bốn mùa vần xoay, xem vạn vật sinh hóa, thì biết được thiên lý
biến dịch ở khắp nơi mà chẳng cần Trời phải nói nên lời. Ở nơi thánh
nhân cũng vậy, động hay tĩnh, nhất nhất đều khải minh nguyên lý huyền
diệu; sự toàn thiện, tinh tuyền sẵn chứa nơi người. Và Chu Hi kết luận
bằng những lời hết sức hào hứng như sau: «Thánh nhân là hiện thân của
Trời.»
«Dịch Kinh
từ lâu vẫn coi con người toàn thiện là có đức độ sánh với Trời. Dịch
Kinh viết: «Đức độ người ngang với đức độ trời đất, người sáng láng như
hai vầng nhật nguyệt, biến thông tựa bốn mùa, ảnh hưởng người in tựa
thần minh…»
«Tử Tư,
trong bộ Trung Dung, cũng nương theo ý Dịch Kinh, chủ trương thánh nhân
có thể chuyển hóa chúng nhân bằng gương mẫu và bằng lời giáo hóa, khiến
chúng dân có thể tiến hóa đến cùng cực tinh hoa. Như vậy thánh nhân đã
giúp đất trời trong công cuộc sinh thành muôn vật, và cùng đất trời hợp
thành bộ ba. Thánh nhân sánh vai với Trời, kết hợp với Trời …»
Những lời
bình luận trên về thánh nhân rất là xác đáng. Nó đúng với quan niệm
truyền thống Nho giáo. Theo Kinh Thư, thiên Khang Cáo, vua Thành Vương
khi phong cho chú là Ông hoàng Khang làm Vệ hầu, đã khuyên Ông Khang
phải cố gắng sao cho đức độ «cao vút tới Trời» (Hoằng vu Thiên).
Ông Khế
bình ba chữ «Hoằng vu Thiên» như sau: «Người ta ai cũng có tính Trời.
Tính Trời đó ở trong họ như lửa vừa nhen nhóm, như suối vừa tung tỏa.
Con người chỉ phải khuếch sung tính Trời đó mà thôi.»
Vũ Chính
bình rằng: «Phải khuếch sung đức hạnh để được hợp nhất với Trời.»
C. THUYẾT THIÊN NHÂN
TƯƠNG DỮ VÀ THIÊN NHÂN HỢP NHẤT TRONG NHO GIÁO
Cho nên
thánh nhân là người «kế thiên lập cực»,
thay Trời
chỉ vẽ cho nhân loại đâu là cực điểm tiến hóa, soi đường dẫn lối cho mọi
người tiến tới Trung đạo, tiến tới tinh hoa của nhân loại.
Quan niệm
về thánh nhân của dân tộc Trung Hoa đã cho chúng ta thấy rõ ràng rằng
muốn tiến tới Trời, tiến tới tinh hoa của nhân loại, phải thông minh duệ
trí, sống cuộc đời nhân đức thánh thiện, phối hợp với Trời.
Nhưng muốn
sống phối hợp với Trời, phải biết Trời ra sao, Trời ở đâu. Đó là cả một
vấn đề ! Nho gia cho rằng Trời chính là bản thể nhân loại.
Cho nên
muốn tìm Trời phải tìm ngay trong đáy lòng mình, vì thế mà Trung Dung đã
có một câu rất là táo bạo:
«Biết người trước phải biết Trời,
Biết Trời chẳng nổi, hiểu
người làm sao?»
[21]
Đọc bộ Thư
Kinh Đại Toàn, ta thấy người xưa bàn về tâm pháp của các đấng thánh
vương như sau:
«Tinh ròng chuyên nhất ngày đêm
Ra công ra sức giữ nguyên lòng Trời.»
«Đó là tâm
pháp Nghiêu truyền cho Thuấn. «Kiến trung», cố đạt tới Trung Dung, tới
tinh hoa nhân loại (Thang), «Kiến cực», cố đạt tới tuyệt đỉnh tinh hoa
hoàn thiện (Vũ). Đó là tâ pháp của các đời Thương Thang, Chu Vũ. Sự toàn
thiện đó hoặc gọi là Đức, là Nhân, là Kính, là Thành, lời tuy khác nhưng
ý là một; nghĩa là không ngoài sự làm sáng tỏ nguồn mạch kỳ diệu của tâm
hồn. Nói đến Trời thì nghiêm chỉnh lòng lại, là Trời tự hiện; nói đến
dân, thì cố cẩn thận tâm tư, dân sẽ được nhờ. Lễ nhạc, giáo hóa cốt là
để phát huy tâm hồn. Điển chương văn vật là sự biểu dương phát lộ của
tâm hồn. Suy lòng mình ra thì có thể làm cho nhà yên nước trị; thiên hạ
bình. Sức mạnh của tâm hồn thực là kỳ diệu vậy.»
Cho nên
thánh nhân giảng dạy không phải là truyền đạo của mình, mà chính là
truyền lòng mình; không phải là truyền lòng mình cho người, mà chính là
truyền lòng người cho người,
bởi vì
trong lòng mỗi người đã sẵn có lòng Trời rồi vậy.
Mạnh Tử
viết:
«Thấu triệt lòng sẽ hay
biết tính,
Hay biết tính, nhất định
biết Trời.
Tồn tâm dưỡng tính chẳng
rời,
Ấy là giữ đạo thờ Trời chẳng sai.»
[25]
Mạnh Tử
cũng viết:
«Cả vạn
vật ở trong ta đó,
Quay về ta, ta cố tinh thành,
Kiện toàn, hoàn thiện, tinh anh,
Vui nào hơn được khi mình đang vui...»
[26]
Cho nên
muốn tìm đạo Trời phải tìm nơi đáy lòng. Chu Hi viết trong phụ chú
chương 1 Trung Dung như sau:
«Những học giả muốn tìm đạo ấy
Tìm đáy lòng sẽ thấy chẳng sai.
Dẹp tan cám dỗ bên ngoài,
Căn lành sẵn có đồng thời
khuếch sung.»
[27]
Trong bộ
Cận Tư Lục, Chu Hi lại chủ trương: nếu khai phá được hết chướng ngại
vật, thấy được bản tính mình, sẽ đạt tới thiên đạo, và sẽ trở nên một
với thánh nhân.
Vương
Dương Minh viết:
Thần thánh ngàn xưa đều quá vãng,
Lương tri mới thực chính
thầy ta.[29]
Theo vi ý
Kinh Thi, Kinh Thư, ta có thể hiểu truyền thống chính yếu của Nho giáo
như sau: Trời sinh ra con người, đã ghi tạc vào lòng con người những
khuôn phép thánh thiện tuyệt hảo, để làm di luân, qui tắc hằng cửu cho
con người theo.
Con người
chỉ cần nhận ra bản tâm, bản tính của mình sẽ thấy định mệnh cao sang
của mình… chỉ cần sống hoàn toàn theo tiếng gọi lương tâm, nghĩa là gạt
bỏ hết mọi tư dục, tư tà, sống cuộc đời công chính cao đại, hoàn toàn
theo đúng Thiên lý, Thiên đạo, tức là lên tới mức độ thánh thiện tuyệt
vời, thế là đạt tới Trung điểm, Trung đạo, thế là theo đúng mệnh Trời.
Mạnh Tử
nói rằng: «Bực đại nhân vẫn giữ được cái tâm tốt lành của con đỏ.»
Như vậy
thánh nhân chỉ là những người giữ được bản tâm, bản tính, những người
giữ được «xích tử chi tâm»; còn phàm phu tục tử chính là những người
sống cuộc đời phóng túng chạy theo vật dục bên ngoài, để mất bản tâm,
bản tính mình, có thế thôi.
Thánh nhân
và người thường giống nhau ở chỗ cùng có một bản tâm, bản tính, mà khác
nhau ở chỗ giữ được và đánh mất nó mà thôi.
Mạnh Tử
viết:
«Cho nên
phàm những vật đồng loại thì bản tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân
loại, người ta lại nghĩ rằng bản tính chẳng tương tự? Những vị thánh
nhân và chúng ta đều là một loại…
«Tâm tính
của người ta giống nhau ở chỗ nào? Tức là ai nấy đều công nhận chỗ hợp
lý, hợp nghĩa vậy. (Lý là những lẽ đương nhiên của bản tính, nghĩa là sự
thi hành những lẽ đương nhiên ấy). Thánh nhân chẳng qua là những người
trước ta đã tỉnh ngộ, và bày tỏ ý nghĩa mà chúng ta nhìn nhận đó…»
Nếu chúng
ta trở nên xấu xa, đánh mất bản tâm, bản tính, thì lỗi tại chúng ta chứ
đâu phải lỗi nơi bản tâm, bản tính?
Mạnh Tử
viết:
«Cây cối
trên núi Ngưu Sơn (phía đông nam nước Tề) ngày xưa vẫn tốt tươi. Nhưng
vì ở về chỗ giáp mối với một nước lớn, cho nên thường bị búa rìu bửa
đốn. Như vậy có thể nào giữ được vẻ tốt tươi được chăng?»
«Nhưng nhờ
có sức mạnh nhựa lưu thông ngày đêm, lại được nước sương tẩm nhuận, cho
nên mới đâm chồi nảy mộng. Rồi thì bò, chiên kéo nhau từng đoàn đến ăn
phá. Vì vậy mà cảnh núi ấy trở nên trơ trụi. Hiện nay thấy nó trơ trụi,
ai ai cũng ngỡ rằng núi ấy chưa từng sản xuất tài mộc. Như thế há nên đổ
lỗi cho bản tính của núi sao?»
«Cái bản
tính tồn tại nơi người cũng thế. Người ta há chẳng có những nỗi lòng
nhân nghĩa sao. Nhưng vì họ (mê sa theo các sở dục) mà buông mất tấm
lòng lương thiện của họ đi, cũng như cảnh núi trở nên trơ trụi vì cây
cối đều bị búa rìu bửa đốn hết vậy.»
«Mỗi ngày
họ cứ sát phạt tấm lòng lương thiện của họ mãi thì lòng dạ của họ có thể
nào mà tốt đẹp như xưa chăng?»
«… Cho nên
nếu khéo bồi dưỡng thì vật nào cũng sinh nảy thêm ra, còn như chẳng chịu
bồi dưỡng, thì vật nào cũng phải tiêu mòn.»
«Đức Khổng
có nói rằng: Giữ thì còn, bỏ thì mất. Nó ra vào không chừng, không ai
biết nó ở đâu. Đó là đức Khổng nói về những nỗi lòng lương thiện của con
người vậy.»
«… Nhân là
lương tâm con người, nghĩa là con đường chính đại của người. Những ai bỏ
con đường chính đại của mình mà chẳng theo, những kẻ để thất lạc lương
tâm mình mà chẳng biết tìm nó lại, thật đáng thương hại thay! Mỗi khi
con gà, con chó họ chạy lạc, thì họ biết đi kiếm mà đem về. Nhưng tới
chừng cái lương tâm họ thất lạc thì họ chẳng biết cách tìm nó trở lại.
Người học vấn đạo lý chỉ có cái mục đích này mà thôi: Tìm lại lương tâm
thất lạc của mình.»
Trương
Hoành Cừ chủ trương: «người theo đạo Nho sẽ từ chỗ toàn thiến tiến tới
chỗ minh triết hoàn toàn. Cho nên «thiên nhân hợp nhất» là tuyệt đỉnh
của sự học vấn và như vậy con người có thể thành Thánh…»
Tống Nho
luận về «Thiên tính tại nhân tâm» hay «thánh nhân kết hợp làm một với
Trời» thật là rõ ràng. Dưới đây xin đan cử thêm một vài chứng cứ:
Diệp Lục
Đồng chủ trương: «Thiên tính nơi con người cũng như tính nước nơi băng;
nước và băng tuy lưu thông hay ngưng kết có khác nhau, nhưng cũng chỉ là
một vật; sự hấp thụ ánh sáng nhiều ít có khác nhau, chiếu sáng mờ tỏ có
khác nhau, nhưng tinh chất hấp thụ và chiếu diệu ánh sáng chỉ có một.»
Cao Trung Hiến bình rằng: «Lấy nước ví Trời, lấy băng ví người, lấy sự
lưu thông ngưng đọng để ví sự sống chết; lấy sự hấp thụ ánh sáng để ví
sự khác nhau về bẩm chất; lấy sự thâu quang, chiếu quang để ví tính
trước sau chẳng có hai.»
Tôn Chung
Nguyên viết: «Trời và Thần chỉ là một, Thánh với Trời cũng chẳng là
hai.»
Trương Tải
dạy học trò rằng: «Đã học tất phải nên như thánh nhân rồi mới được thôi.
Đòi biết người mà chẳng biết Trời, chỉ cầu làm hiền nhân mà chẳng cầu
làm thánh nhân, đó là tệ hại của các học giả từ thời Tần, Hán đến nay.»
Trương Kỳ
Quân, một học giả Trung Hoa lỗi lạc hiện thời, đã viết như sau: trong
tạp chí Trung Quốc Nhất Chu và trong bộ Trung Hoa Ngũ Thiên Niên Sử của
ông trước tác như sau:
«Trung
Quốc tự thời Đường, Ngu (Nghiêu, Thuấn) tới nay đều có chủ trương Trời
người có thể kết hợp… Kính Trời cốt là để yêu người. Yêu người cốt là để
kính Trời. Các thánh triết lịch đại chỉ cốt làm sáng tỏ lẽ “Trời người
hợp nhất”.»
Trong bài
khảo luận của ông về Chu Dịch, ông cũng viết: «Sách Dịch thật mênh mông
bao quát, nhưng đại khái là cốt xiển minh lẽ “Thiên nhân hợp nhất”.»
Thực ra,
ngay ở thời nhà Thanh, khi mà nền văn học, đạo học nước Trung Hoa đã suy
vi, những quan niệm trên vẫn còn phổ thông trong giới học giả. Các giáo
sĩ Âu Châu cũng đã nhận xét thấy trào lưu này, khi các ngài mới du nhập
vào Trung Quốc hồi thế kỷ 16.
Cha Ricci
viết:
«Trào lưu
tư tưởng mà nhiều người theo hiện nay, theo tôi, có lẽ đã vay mượn ở một
giáo phái tà thần từ 500 năm nay (Tống triết). quan niệm ấy là: thiên
địa vạn vật nhất thể. Hóa công cùng với trời đất, người vật, cỏ cây, tứ
tượng điều họp thành như một cơ
thể duy nhất mà vạn vật là những
phân bộ. Từ quan niệm nhất thể ấy, họ rút ra nhiệm vụ bác ái đối với mọi
người, và chủ trương mọi người đều có thể trở nên giống Thiên Chúa …
Đó là điều
mà chúng ta cố gắng phi bác, chẳng những bằng lý luận mà còn bằng uy thế
của tiền nhân Trung Hoa, vì các vị ấy đã giảng dạy một học thuyết khác.»
Nhưng tiền
nhân Trung Hoa, như các chứng cứ Kinh Thi, Kinh Thư, Luận Ngữ, Mạnh Tử
trích dẫn trên cho thấy, trước sau đều có một chủ trương, một tín ngưỡng
y thức như nhau và y thức như các bậc đại hiền triết thời Tống!
Theo Mạnh
Tử thì dẫu là vị thánh ở Đông Di hay là vị thánh ở Tây Di, dẫu là xa
nhau nghìn dặm, hay là cách nhau nghìn năm, thì tôn chỉ lề lối cũng y
thức như nhau, như hai mảnh tre ở một phù tiết. Đường lối thánh trước
thánh sau chỉ là một …
Để rộng
đường khảo sát, so sánh, tôi xin trưng ra đây quan điểm về vấn đề, của
một vài vị thánh nhân Thiên Chúa giáo.
Theo thánh
Augustin, thì lương tâm là nơi tâm hồn gặp gỡ Thiên Chúa, là nơi huyền
nhiệm của lòng người, nơi là tâm hồn nhận chân được sự hiện diện của
Thiên Chúa trong lòng mình.
Trong một
bài giảng thuyết, ngài nói: «Cũng một nhẽ ấy, Thiên Chúa vẫn là Thiên
Chúa, vẫn là Ngôi hai… mà đồng thời cũng làm cho các thiên thần sung
mãn, hoàn toàn ở khắp mọi nơi, hoàn toàn hiện diện trong hoàn võ, hoàn
toàn ở trong các tổ phụ, hoàn toàn ở trong các đấng tiên tri, hoàn toàn
ở trong mọi đấng thánh, hoàn toàn ở trong lòng đấng Trinh nữ…»
Nơi khác
ngài than thở: «Lạy Chúa, trong Chúa, con sẽ có sự chắc chắn, vững vàng,
và bản thể rốt ráo của con.»
Thánh
Paolo nhìn nhận rằng ngay những người ngoại giáo cũng tuân theo những
giới luật của Thiên Chúa đã ghi tạc trong tâm khảm họ.
Thánh
Paolo cũng là vị thánh Công giáo đầu tiên sống với niềm tin say say là
có Thiên Chúa hiện diện trong tâm khảm ngài.
Thánh
Paolo viết: «Thiên Chúa là đấng đã truyền cho ánh sáng bừng lên trong
tăm tối, chính cũng đã bừng sáng lên trong lòng chúng ta.»
Nơi khác
ngài viết: «Anh em hãy ngợi khen và hãy mang Thiên Chúa trong thể xác
anh em.»
Đời sống
của ngài hoàn toàn phối hợp với Thiên Chúa, vì thế ngài mới dám viết cho
những người xứ Galates: «Tôi sống chẳng phải tôi sống nữa, mà là Chúa
sống trong tôi.»
Gần đây
quan điểm «thiên địa vạn vật nhất thể» và chủ trương «con người có thể
tiến hóa tới cùng cực tinh hoa», «có thể phối hợp với Thượng Đế» của
Kinh Dịch và của thánh hiền Trung Hoa lại được cha Teilhard de Chardin
công khai chủ trương bên phía trời Âu, và được các giới văn học khắp nơi
tán đồng và sùng thượng. Phải chăng đó là điềm báo hiệu cho một cuộc
Đông Tây gặp gỡ, kim cổ giao duyên trong một tương lai gần gũi?
Tóm lại
đối với hiền thánh Trung Hoa: Đạo Trời vốn đã ẩn áo ở đáy lòng nhân
loại.
Sự toàn
thiện toàn mỹ cũng vốn đã nằm sẵn trong đáy thẳm lòng sâu con người.
Thánh nhân
là những người thông minh duệ trí, nhận ra được căn bản hoàn thiện nơi
đáy lòng mình, sống hờp với thiên lý, thiên đạo, hợp nhất với Trời. Cực
điểm ấy tức là cùng đích đã đặt ra cho nhân loại: Chưa đi đến mức hoàn
thiện ấy, dĩ nhiên là nhân loại còn phải tiến hóa mãi. Đại Học vì thế
mới đặt lằn mức cho mọi người dừng chân: lằn mức ấy là sự chí thành chí
thiện (Chỉ ư chí thiện. Đại Học chương 1).
Cực điểm
ấy cũng chính là Trung điểm, Trung đạo, là Trung Dung.
Đạo thánh
nhân cao siêu toàn mỹ, vì thế mới được Trung Dung khen tặng chẳng tiếc
lời. Trung Dung (chương 27)
viết:
«Đạo thánh nhân to sao, to lớn quá,
Nó mênh mang biến hóa chúng nhân.
Nó cao, cao vút tới trời thẳm muôn tầm,
Nó rộng, rộng bát ngát khôn kể xiết.
Gồm thâu mọi điều lễ nghi chi tiết,
Bao uy nghi quán triệt hết chẳng trừ.
Đợi thánh nhân, Trời mới phú thác cho.
Không đức cả, Trời không ngưng đạo cả,
Nên quân tử dốc một lòng một dạ.
Trọng tính Trời, quyết gắn bó học hành,
Tiến sao cho đến mức rộng rãi tinh anh.
Mức cao sáng của Trung Dung đạo cả.
Ôn điều cũ, học thêm điều mới lạ,
Chuộng lễ nghĩa, sống đời sống nết na.
Ở ngôi cao, không có thói kiêu xa,
Ở cấp dưới không làm điều trái nghịch.
Nước có đạo, chỉ một lời làm tiến ích,
Nước đảo điên: lặng lẽ đủ dung thân.
Thơ rằng: Khôn lại còn ngoan,
Khôn ngoan nên mới bảo toàn tấm thân.»
D. PHƯƠNG PHÁP TU
LUYỆN ĐỂ TRỞ NÊN HIỀN THÁNH
Như vậy
cùng đích của nhân loại đã được xác định rõ ràng: con người sinh ra đời,
cốt là để «thực hiện» Thượng Đế ngay từ khi còn ở trần gian này; cốt là
để sống một cuộc đời thánh thiện phối hợp với Thượng Đế. Đại Học gọi thế
là «dừng chân lại ở nơi toàn thiện tuyệt đối» (chỉ ư chí thiện); Trung
Dung gọi thế là «phối thiên» (kết hợp với Trời) (Trung Dung chương 31).
Lão Tử cũng chủ trương rằng: «Lý tưởng cao siêu nhất của người xưa là
sống phối hợp với Trời.»
Gần đây,
nhà đại hiền triết Ramakrishna mà dân Ấn Độ coi là một vị thánh sống,
một hiện thân của Thượng Đế, đã nói: «uổng thay cho những kẻ đã được
diễm phúc sinh ra làm người mà không thực hiện nổi được Thiên Chúa trong
đời mình! Họ sinh ra như thế thực là uổng phí, vô ích!»
Vì thế các
Nho gia cự phách và chân chính đã khinh thường mũ áo, công danh, coi rẻ
bạc vàng, phú quí,
suốt đời
cố gắng học hỏi suy tư, cải thiện mình,
ngõ hầu
trở nên một hiền nhân quân tử, nên một vị thánh nhân, sống hoàn toàn
thuận theo thiên lý, phối hợp với Trời …
Mạnh Tử
viết: «Người quân tử trọn đời hằng có điều lo, mà không khi nào có điều
sợ. Như cần phải lo thì lo thế này: «Vua Thuấn cũng là người, mình cũng
là người. Vua Thuấn đã làm gương mẫu cho thiên hạ, roi truyền cho các
đời sau. Còn mình đây chẳng hơn gì một kẻ làng mạc quê mùa.» Đó là điều
mình nên lo sợ vậy. Đã lo, thì phải làm sao? Thưa phải làm như vua Thuấn
vậy thôi. Còn như sợ thì người quân tử chẳng hề. Việc trái đức nhân mình
không làm; việc trái lễ phép mình chẳng động. Như có một buổi, xảy ra
điều đáng sợ, người quân tử cũng không lấy làm sợ đó.»
Sở nguyện
của Mạnh Tử là theo đòi đức Khổng mà thôi.
Vương
Dương Minh lập chí cũng chẳng kém.
Đào Trinh
Nhất viết: «Người thường nói “biết con không ai bằng cha”, nhưng ở đây
Long Sơn Công dù tài giỏi học đỗ tới trạng nguyên mặc lòng, thật không
biết lập chí của cậu ấm con cụ.
«Cậu (khi
ấy Vương Dương Minh mới 12, 13 tuổi) muốn học tới bậc gì cao hơn trạng
nguyên, tể tướng, tôn hơn đế vương nữa kia. Học sao tới chỗ có ích cho
muôn dân, cho nghìn đời, chứ cầu lấy béo nhà sướng thân, hiển hách một
đời có sá kể gì. Xưa nay lắm kẻ chẳng học chữ nào cũng đi tới đó.»
«Cậu định
học đến bậc thánh nhân !»
«Có lần
nghe thầy đồ giảng sách rồi cậu bé Dương Minh hỏi:
- Thưa
thầy, ở đời làm việc gì cao hơn hết?
- Chỉ có
việc đi học thi đỗ thôi. Thầy học trả lời.
- Thi đỗ
không phải là việc cao nhất đâu. Duy có việc học làm thánh hiền là cao
hơn tất cả …»
Mà muốn
nên thánh hiền, tất nhiên phải biết quí trọng, biết tài bồi thiên tính,
biết rèn luyện, biết khuếch sung nhân tâm.
Công Tôn
Đô Tử thưa với Mạnh Tử: «Cũng đều là người nhưng tại sao có người thành
ra đại nhân, có kẻ hóa ra tiểu nhân?» Mạnh Tử đáp rằng: «Ai noi theo cái
đại thể của mình thì làm bực đại nhân, ai noi theo cái tiểu thể của mình
thì làm tiểu nhân.»
Công Tôn
Đô Tử hỏi tiếp rằng: «Cũng đều là người nhưng tại sao có người noi theo
đại thể, có kẻ noi theo tiểu thể ?» Mạnh Tử đáp rằng: «Lỗ tai là cơ quan
để nghe, con mắt là là cơ quan để thấy, người ta có thể dùng chúng mà
suy tư, chúng nó lại còn bị vật ngoài mê hoặc nữa. Vật trong và vật
ngoài giao tiếp nhau, do đó mà những căn cơ ở người, bị các cảnh trần
lôi cuốn; lỗ tai mê theo âm thanh, con mắt mê theo sắc đẹp, lỗ mũi mê
theo mùi thơm, cái miệng mê theo món ngon, tay chân mình mẩy mê theo vật
mịn.
«Chỉ có
tâm là cơ quan để tư tưởng mà thôi. Hễ biết tư tưởng thì rõ thông chân
lý; mà chẳng xét nét thì chẳng biết được chính tà.
«Các cơ
quan ấy, từ những cái nhỏ là lỗ tai, con mắt, lỗ mũi, cái miệng, thân
thể, tay chân, cho đến cái lớn là tâm chí đều do nơi Trời ban tất cả.
Nếu trước mình đã định đặt xong cái đại thể, bồi dưỡng tâm chí, thì
những cái tiểu thể như tai, mắt, v.v…chẳng chiếm đoạt quyền hành được.
Nhờ đó mình thành ra bậc đại nhân vậy.»
Sau khi
biết mục phiêu của đời mình, sau khi đã biết mình sẽ phải rèn luyện cái
gì, phải đặt trọng tâm công tác vào đâu, bấy giờ ta mới để hết tâm trí
suy tư, học hỏi
để mở
mang trí tuệ, rèn luyện cho tâm hồn ngày một thêm sắt son, sáng láng;
cẩn thận giữ gìn cho mọi tâm tư, ngôn ngữ, hành vi, cử chỉ của mình, sự
giao tiếp đối đãi của mình đối với mọi người lúc nào cũng hợp nghĩa lý,
lúc nào cũng quang minh chính đại, không ai có thể chê trách mình được.
Trung Dung
(chương 20) viết:
«Muốn thông thái không ngoài học vấn,
Muốn tu nhân phải gắng công lao.
Muốn lên hùng dũng anh hào,
Hai câu liêm sỉ ghi vào thâm tâm.
Trí-nhân-dũng tu thân là lý,
Biết tu thân ắt trị nổi người.
Trị người, hiểu biết khúc nhôi,
Con thuyền thiên hạ âu tài đẩy đưa.»
Tu thân
chẳng qua là cùng lý, trí tri,
hàm dưỡng
tính tình,
chuyên
tâm chú ý khử trừ nhân dục, hoàn toàn thuận theo thiên lý.
Mạnh Tử
nói rằng: «cách bồi dưỡng lương tâm hay hơn hết là nên bớt dần những
điều ham muốn. Những người nào bớt được những điều ham muốn của mình, có
thể chẳng bảo tồn được thiên lý, nhưng ít có cảnh ấy lắm. Kẻ nào tham
dục nhiều, có thể bảo tồn được thiên lý, nhưng ít có cảnh ấy lắm.»
Theo
Thượng Thái, Thiên lý và nhân dục là hai lẽ tương đối, người ta có một
phần nhân dục tức là diệt mất một phần thiên lý, có một phần thiên lý
tức là thắng được một phần nhân dục. Khi người ta đã trừ bỏ được tất cả
những dục vọng ở trong lòng thì phần còn lại tức là thiên lý. Bởi vậy,
đối với Thượng Thái, kẻ học đạo muốn được giác ngộ, không cần phải tìm
những điều xa xôi hư phiếm, chỉ biết «khắc kỷ phục lễ» để giữ toàn thiên
lý là đủ.
Học đạo
phải biết tuần tự nhi tiến.
Trình Y
Xuyên cho rằng học đạo cũng phải tuần tự trước sau, có gần, có xa, có
thấp, có cao, có dễ, có khó, không thể nhất đán mà lĩnh hội được đạo
thể. Người mới bắt đầu học đạo, đã muốn được «mặc thức tâm thông ngay»,
cũng chẳng khác gì kẻ muốn đứng trên đỉnh núi nhưng không leo núi, muốn
ở bên kia sông mà chẳng vượt sông; chỉ là chuyện hão huyền, không thể
nào thực hiện được …
Thế tức
là kẻ sĩ thời mong nên giống hiền nhân, hiền nhân mong nên giống thánh
nhân, thánh nhân mong nên giống Trời.
Đàng khác,
công cuộc tu trì rất cần có sự kiên gan, bền chí. Đức Khổng nói: «Tỉ như
đắp đất cho thành núi, chỉ còn một giỏ nữa là xong, nhưng mình lại thôi,
đó là tại mình bỏ vậy.»
Đời sống
của những người chính nhân quân tử đang tiến bước trên con đường hoàn
thiện phải là một bài kinh nguyện trường thiên,
sống cuộc
đời đạo hạnh mẫu mực khả dĩ có thể treo gương cho mọi người.
Trung Dung
(chương 29) viết:
«Mỗi động tác quân tử đều nên như mẫu
mực,
Mỗi hành vi là khuôn phép chúng nhân
theo.
Mỗi lời nói, thiên hạ đời sau sẽ nương
vào,
Người xa ngưỡng vọng, người gần không
ngán.»
Tất cả các
công trình tu luyện trên đây tuy rất là quan trọng nhưng chưa có thể gọi
được là đi đến Trung điểm, cực điểm, chưa gọi được là đạt tới tinh hoa
nhân loại. Muốn vào tới Trung cung, Trung điểm, vào tới Trung Dung, còn
phải biết nhận ra nguồn gốc và định mệnh cao sang của mình, còn cần phải
rũ bỏ tất cả cái mình nhỏ nhoi hèn mọn, mà mặc lấy đại thể, đại đồng.
Lúc ấy
tâm thần sẽ khinh khoát, quên mọi biên cương, bờ cõi, giới hạn, quên hết
mọi tiểu tiết đặc thù, thung dung sống trong toàn thể vô biên. Luận Ngữ
cho rằng bậc thánh nhân rốt ráo sẽ không còn bị nội giới hay ngoại cảnh
chi phối, thung dung tự tại, không còn tình ý riêng tư, không còn cái
mình nhỏ nhoi ti tiện.
Thế tức là
tuyệt hết niềm tây, hoàn toàn quên mình, để phối hợp với Thượng Đế. Đạo
Lão gọi thế là «Tâm tử thần hoạt», «lòng chết để thần sống».
Đó là
trạng thái vô ngã, vô kỷ, bỏ mình, bỏ mọi sự, mà các nhà huyền học mọi
đạo giáo đều đề cập tới.
E. KẾT LUẬN
Để toát
lược và kết thúc thiên này tưởng không gì hơn là dùng những lời lẽ của
Trung Dung (chương 20):
«Hoàn toàn là đạo của Trời,
Trở nên hoàn thiện đạo người xưa nay.
Người hoàn thiện cất tay là trúng,
Chẳng cần suy cũng đúng chẳng sai.
Thung dung trung đạo tháng ngày,
Ấy là vị Thánh từ ngày lọt lòng.
Còn những kẻ cố công nên thánh,
Gặp điều lành phải mạnh tay co...
Ra công học hỏi thăm dò,
Học cho uyên bác, hỏi cho tận tường.
Đắn đo suy nghĩ kỹ càng,
Biện minh thấu triệt, quyết mang thi
hành.
Đã định học chưa thành chưa bỏ,
Đã hỏi han, chưa tỏ chưa thôi.
Đã suy, suy hết khúc nhôi.
Chưa ra manh mối, chưa rời xét suy.
Biện luận mãi, tới khi vỡ lẽ,
Chưa rõ ràng, không thể bỏ qua.
Đã làm làm tới tinh hoa,
Tinh hoa chưa đạt, việc ta còn làm.
Người một chuyến thâu toàn thắng lợi,
Ta tốn công dở dói trăm khoanh;
Người làm mười lượt đã thành,
Ta làm nghìn thứ, ta ganh với người.
Đường lối ấy nếu ai theo được,
Dẫu u mê sau trước sẽ thông.
Dẫu rằng mềm yếu như không,
Sớm chày
cũng sẽ ra lòng sắt son.»
CHÚ THÍCH
Mais à
mesure que le monde vieillit, la matière se charge d’impureté, les
Saints deviennent plus rares, l’humanité se dégrade, l’univers
revient insensiblement au chaos, son point de départ.
Voici la liste des personnages
reconnus officiellemeni comme Saints: 1) Fou-Hi (2852-2737); 2)
Chen-Nong (2737-2697); 3) Hoang-Ti (2697-2597); 4) Yao (2357-2255);
5) — Choen (2255-2205); 6) Yu (2205-2197); Tch’eng T’ang
(1766-1753); 8) I-In (mort en 1713): 9) Pi-Kan (1222); 10) Wen Wang
(1331-1135); 11) Ou Wang (1169-1116); 12) Tcheou-Kong (mort en
1105); 13) Lieou h’a Hoei (environ 600); 14) Confucius
(551-479)…
Trong thiên Tận Tâm chương cú hạ, tiết
38, Mạnh Tử cho một danh sách khác đôi chút: Nghiêu (2357-2255);
Thuấn (2255-2205); Vũ (2205-2197); Cao Dao (hiền thần của Thuấn và
Nghiêu); Thành Thang (1766-1753); Y Doãn (hiền thần của vua Thành
Thang, Thái Giáp); Lai Châu (đời vua Thành Thang); Văn Vương
(1231-1135); Tản Nghi Sinh (hiền thần của Văn Vương); Thái Công Vọng
(hiền thần của Văn Vương); Khổng Tử (551-479).
Le
dernier dans l’ordre chronologique, Confucius occupe cependant
depuis longtemps, parmi ses congénères, le premier rang d’honneur:
il est le Saint par excellence
至 聖 先 師 孔 子…
Tse-Kong disait «Certainement le Ciel l’a doué sans mesure: il doit
être un Saint»... L’idéal de l’humanité réalisé dans la personne du
Saint, la perfection absolue qui est son partage, est bien ce que
signifie le term
誠. Rémusat l’a rendu par «la
perfection», «la perfection morale»; le P. Intorcetti par «vera
solidaque perfectio» Legge le traduit par «sincerity»; simplicity or
singleness of Soul»; «the disposition to and the capacity of what is
good, without any deteriorating element, with no defect of
intelligence or intromission of selfish thoughts».
Ces derniers mots décrivent très bien
les effets de 誠
signalés par. Tchou-Hi
德 無 不 實 而 無 不 照 者 聖 人 之
德 所 性 而 有 者 天 道 也 mais ils
n’expriment pas clairement ce qu’il est en soi. Tchou-Hi en donne
cette definition:
誠 者 真 實 無 妄 之 謂.
Il
nous semble que ce qui rend le mieux l’idée de Tch’eng d’après les
philosophes chinois, c’est la conformité parfaite d’un être avec sa
nature, ou avec le principe d’ordre universel (天
理), c’est par cette conformité
que l’homme devient l’égal du Ciel et de la Terre (聖
人 體 道 無 隱 與 天 象 昭 然 莫 非 至 教 常 以 示 人 而 人 自 不察).
Tcheng, dit Tcheou-Lien-Ki est synonyme de Tai-Ki ou Li, que chaque
être reçoit tout entier; mais il peut être et il east généralement
limité dans ses effets par l’imperfection de la matière qui le
renferme. Dans le Saint, ces limites n’existent pas: Il agit
constamment en conformité avec sa vertueuse nature. Son intelligence
perçoit sans effort la raison intime de chaque chose, sa volonté
n’éprouve aucune difficulté à se porter au bien et à demeurer ferme
dans la voie de la justice, de l’ordre et du devoir.
L’homme parfait peut lire dans l’avenir la prospérité ou la ruine
des dynasties. Tous les changements en bien ou en mal, qui doivent
arriver dans l’empire, il les connaît d’avance d’une science
certaine, par l’observation des phénomènes de la nature, la
disposition de l’herbe divinatoire (蓍)
et les lignes qu’il remarque sur la carapace de la merveilleuse
tortue (龜).
La raison de ce pouvoir de claire vue
est, dit Tchou-Hi, que la Saint n’a devant les yeux de son
intelligence aucune trace d’égoïsme ou de fausseté puisqu’il est de
tout point conforme à la nature; rien ne l’empêche donc d’apercevoir
les choses les plus subtiles; par sa connaissance admirable, il
ressemble, aux Koei-chen (唯
誠 之 至 極 而 無 毫 私 偽 留 於 心 目 之 間).
Le saint est de plus le paragon de la
perfection morale. Il possède toutes les vertus à un degré eminent
聖 者
…
幾 無 不 明 德 無不 備 者 也 乃 以 能
察 其 幾 焉 (Cf. Tchong Yong 34
comment).
Ce
passage, dit aussi Tcheng-tse, signifie que le Saint suit en tout la
voie que la nature a tracée aux hommes et par là, il fait un bon
emploi de ses sens. Le vulgaire possède bien aussi le principe
directif (li) mais il l’ignore, le sage ordinaire s’y conforme mais
pas parfaitement; seul le Saint peut faire un emploi correct de ses
sens.
程
子
曰:
此
言
聖
人
盡
得
人
道
而
能
充
其
形
也…
眾
人
有
之
而
不
知;
賢
人
踐
之
而
未
盡;
能
充
其
形
惟
聖
人
也
(Ibid. comment)
Son
influence bienfaisante est sans bornes, comme l’influence du Ciel.
«De même, dit Tchou-Hi, que dans le cours régulier des quatre
saisons, dans la production et la conservation des êtres de
l’univers, se voient partout avec évidence, les effets de
l’évolution du principe céleste (天
理) sans que le Ciel doive pour
cela rompre son silence; ainsi tout dans le Saint, l’action et le
repos, révèle également le principe merveilleux, la droiture
parfaite dont il est plein». Et il conclut par ce cri
d’enthousiasme: «En un mot, le Saint est le Ciel personnifié».
四 時行 百 物 生 莫 非 天 理 發 見 流
行 之 實 不 得 言 而 可 見 聖 人 一 動 一 靜 莫 非 妙 道 精 義 之 際 亦 天 而 已
(Luen Yu chap. XVII, No 18 comment)
Le I-King avait depuis longtemps déjà
représenté l’homme parfait
Cáo
Thần Tông viết: Tiên thánh hậu thánh nhược hợp phù tiết, phi truyền
thánh nhân chi đạo, truyền thánh nhân chi tâm dã; phi truyền thánh
nhân chi tâm dã, truyền kỷ chi tâm dã. Kỷ chi tâm vô dị thánh nhân
chi tâm. Quảng đại vô hạn, vạn thiện giai bị. Dục thánh nhân chi đạo
khuếch sung thử tâm yên nhĩ.
Mạnh
Tử viết: Đại nhân giả bất thất kỳ xích tử chi tâm giả dã
孟 子 曰: 大 人 者 不 失 其 赤 子 之
心 者 也 (Mạnh Tử – Ly Lâu chương
cú hạ, 12.)
Cáo
chư sinh dĩ
học tất như thánh nhân nhi hậu dĩ. Dĩ vi tri nhân nhi bất tri thiên;
cầu vi hiền nhân nhi bất cầu vi thánh nhân, thử tần hán dĩ lai học
giả chi đại tế dã.
告
諸
生
以
學
必
如
聖
人
而
後
已
. 以
為
知
人
而
不
知
天.
求
為
賢
人
而
不
求
為
聖
人
. 此
秦
漢
以
來
學
者
之
大
蔽
也
(Tống Nguyên Học Án, quyển 17, trang 2. Hoành Cừ học án, thượng)
«Cùng tính mệnh chi nguyên, tất dĩ thể
thiên vi học vấn chi bản.»
窮
性
命
之
源
必
以
體
天
為
學
問
之
本
(Liêm Khê học án. Tống Nguyên Học Án, quyển 11, trang 10)
Cf.
Opere storiche, tome I,
Henri Bernard Maître, Sagesse chinoise
et philosophie chrétienne, page 108:
Cf.
Revue des sciences philosophiques et théologiques. (Paris Librairie
philosophique J. Vrin 6, Place de la Sorbone V, Tome XLIV No 3
Juillet 1960) page 570:
Cf.
Romains 2, 14 et 15. Ceux-là (les Gentils) montrent gravées dans
leurs cœurs les prescriptions de la Loi…
Trong Deutéronome, đoạn XXX, câu
11-15, Chúa cũng phán: «Vì luật mà ta truyền hôm nay, không có quá
sức, quá tầm ngươi. ó không ở trên trời, để
ngươi phải nói: «Ai sẽ trời tìm nó cho ta để chúng ta được nghe biết
Luật và tuân cứ.» Nó cũng chẳng cách mấy trùng dương, để ngươi phải
nói: «Ai sẽ vượt bể tìm nó cho ta để chúng ta được nghe biết Luật và
tuân cứ.» Vì Đạo (Lời) nào có xa ngươi, nó đã ở trong miệng ngươi và
lòng ngươi, để ngươi tuân cứ. (Dịch theo Bible de Jérusalem, trang
206)
Glorificate et portate Deum in corpore vestro. (I Cor. 6, 20.)
(Biblia sacra juxta Vulgatae
exemplaria et correctoria romana. Paris Librairie Letouzey et Ane,
87 Boulevard Raspail, page 1265).
Ce
n’est plus moi qui vis, c’est le Christ qui vit en moi. Aux Galates
11, 20) (Crampon, page 215)... Puto autem quod et ego, Spiritum Dei
habeam (Et je pense bien, moi aussi, avoir l’Esprit de Dieu) (Biblia
sacra (Vulgata) et Bible de Jérusalem: 1 Cor, 40.
Pierre Teilhard voit le cosmos tout entier construit à partir d’une
seule et même énergie, cette énergie s’actualise sous des aspects
très différents. La science, particulièrement la physique, confirme
de plus en plus le bien fondé de cette conception...
George Magloire & Hubert Cuypers,
Teilhard de Chardin, page 131.
… Teilhard de Chardin résume
admirablement sa conception cosmique dans ces quatre propositions:
«Je crois que l’univers est en
évolution.»
«Je crois que l’évolution va vers
l’Esprit.»
«Je crois que l’Esprit s’achève en
Dieu personnel.»
«Je crois que le Personnel suprême est
le Christ universel.»
Si quelqu’un veut venir à ma suite,
qu’il se renonce lui-même, qu’il prenne sa croix et qu’il me
suive... (Mat. 16, 24)
Ce n’est plus moi qui vis, c’est le
Christ qui vit en moi. (Aux Galates 11, 20).
Mục
lục | Lời nói đầu |
chương
1
2
3 4 |
Tổng luận | Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
 
|