KHỔNG HỌC TINH HOA
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Lời nói đầu |
chương
1
2
3
4 |
Tổng luận | Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
 
Chương 3
Quan niệm thiên tử Trung
Hoa đối chiếu với
quan niệm thiên tử trong
các quốc gia Âu Á cổ kim
I. QUAN NIỆM THIÊN TỬ THEO TRUNG HOA
A. SỨ MẠNG VÀ THIÊN CHỨC
Thánh nhân
lĩnh mệnh Trời trị dân thì được gọi là Thiên tử.
Theo
nguyên nghĩa, Thiên tử tức là con Trời, hay nói theo từ ngữ Âu Châu, là
con Thiên Chúa.
Thánh
thiện phối hợp với Trời, thông minh, duệ trí, xứng đáng là tinh hoa nhân
loại, thiên tử sẽ ở ngôi hoàng cực, tâm điểm nhân quần, thay Trời trị
dân. Thiên tử là những Người Trời (Homme-Dieu), làm môi giới giữa Trời
và người.
Phù hiệu
của các vị Thiên tử Trung Hoa là rồng vàng, vì theo Dịch Kinh, rồng
tượng trưng cho sự biến hóa vô lường, cho Càn Đạo, cho Thiên Đạo,
và theo Hà
Đồ, màu vàng là màu của Trung cung, Trung điểm.
Trên phẩm
phục nhà vua có thêu mười hai hình gọi là mười hai chương, phân phối như
sau:
1- Mặt
trời (nhật
日)
2- Mặt
trăng (nguyệt
月)
3- Những
vì sao (tinh thần
星辰)
Nhật,
nguyệt, tinh thần lấy ý nghĩa soi sáng.
4- Núi lấy
nghĩa vững vàng (sơn
山)
5- Rồng
lấy nghĩa biến hóa (long
龍)
6- Chim
trĩ lấy nghĩa văn hoa (hoa trùng
華蟲)
Nửa áo
dưới (thường) có thêu:
7- Bình
tông di, có mang hình con hổ và con vị (một thử khỉ đuôi dài) tượng
trưng cho quyền tế lễ (tông di
宗彞)
8- Rau
tảo, lấy nghĩa khiết tịnh, thanh đạm (tảo
藻)
9- Gạo
trắng, có nghĩa nuôi nấng (phấn mễ
粉米)
10- Lửa có
nghĩa sáng soi và làm cho ấm áp (hỏa
火)
11- Lưỡi
rìu chỉ sự quyết đoán, và quyền sửa phạt (phủ
黼)
12- Chữ
phất, thành bởi hai chữ kỷ quay lại với nhau, chỉ sự cân nhắc, thận
trọng. (phất
黻)
Cũng như
Thượng Đế ngự giữa hoàn võ làm khu nữu cho vũ trụ, hoàng đế cũng ngự
giữa đất nước để cai trị muôn dân.
Các sơ đồ
về tổ chức quốc gia thời Hạ, thời Thương, thời Chu chứng minh điều đó:

Thiên tử
còn có thể sánh được với ngôi sao bắc Thần, vì ở trên trời, Bắc Thần làm
khu nữu cho muôn phương.
Thiên tử
thay Trời trị dân, làm môi giới giữa Trời và người nên nắm trọn trong
tay cả thần quyền, thế quyền. Do đó ta thấy các vị thiên tử có thể phong
thánh, phong thần, tế lễ Thượng Đế, v.v… Trung Hoa thời cổ không có hàng
giáo sĩ riêng biệt.
Trong bộ
Trung Hoa Ký Sự, các vị thừa sai ở Bắc Kinh đã viết như sau: «Hoàng đế
lại còn là vị giáo chủ trong nước. Chỉ ngài có quyền công khai dâng lễ
tế Trời; từ Phục Hi đến Càn Long, không ai nảy ra ý định tước quyền ấy
của vua.
Chúng dân
đối với vua, như là con nhỏ đối với cha. Vua là cha chung, truyền lệnh
cho dân, như là cho bày con, những điều phải làm. Vua cai trị dân và lo
cho dân mọi sự. Nếu cần xin trời đất giáng phúc, thì đã có vua cầu đảo.
Tóm lại, những nguyên tắc chính trị và đạo giáo Trung Hoa thực là giản
dị: Bổn phận cha đối với con, con đối với cha sao cho phải đạo, đó là
nền móng chính trị. Thờ Trời, thờ thần, thờ tổ tiên, đó là nền móng đạo
giáo của một dân tộc khi đã chấp nhận một quan niệm thời không hề đổi
thay, của một dân tộc trung kiên nhất hoàn cầu.»
Hồng Phạm
dành chương 5 để dạy nghệ thuật làm vua, vì số 5 ở Trung cung, tâm điểm,
tượng trưng cho Đạo, cho Trời, vì chương 5 Hồng Phạm dạy vua lề lối sống
xứng đáng thể hiện Trời, Đạo nơi trần thế.
Thiên tử
xứng đáng với tước hiệu và ngôi vị mình, phải nhân đức tuyệt vời.
Muốn là
hoàng đế phải có đức độ sánh với Trời.
Khang Hi
tự điển ghi chú về chữ Hoàng và chữ Đế như sau:
Hoàng là
lớn, là Trời.
Đế là có
đức hợp với Trời.
Những vị
thánh vương Trung Hoa tin tưởng mình là con Trời, cho nên khi cầu khẩn
Trời thì xưng mình là «tiểu tử» là «con nhỏ», còn khi đối thoại với mọi
người thì xưng mình là «dư nhất nhân», là «một mình ta».
Lúc nhà
vua mất, Lễ Ký gọi là «đăng hà», ý nói lên một nơi xa thẳm như là lên
trời
và trên
bài vị dùng chữ «Đế» nghĩa là được phối hợp với Thượng Đế.
Kinh Thi
cũng còn ghi lại niềm tin ấy. Kinh Thi viết:
«Uy danh vang khắp nước non
Trời coi vua Võ là con của Trời
Nước Châu vinh hiển mấy mươi
Ý vua đà muốn, người người hãi vâng
Nhu hoài đến cả chúng thần
Tấm lòng lân mẫn thấm nhuần non sông
Võ Vương đáng mặt Cửu Trùng…»
Đoạn Kinh
Thi này làm ta liên tưởng đến một đoạn Thánh Vịnh tương tự:
Trên Sion Chúa đặt ta
Làm vua núi thánh truyền ra luật Ngài
Cùng ta, Chúa phán lời chí thiết:
«Con là Con nay thiệt Cha sinh
Hãy xin gia sản Cha dành
Bốn phương cõi đất quyền hành Cha ban
Con thống trị khắp toàn dân đó
Roi sắt dùng phạt cả thế gian
Con sẽ đập chúng cho tan
Như bình thợ gốm ra ngàn
mảnh rơi…»
Tóm lại,
thiên tử chẳng những là thay Trời trị dân, mà còn treo cao gương nhân
đức cho mọi người soi.
«Đấng
thánh nhân ở ngôi cao, đã lập ra được một gương mẫu tuyệt đỉnh về nhân
đức, lấy chính bản thân mình, đời sống mình để dạy dỗ thiên hạ, lại dùng
lời nói để giáo hóa thiên hạ; lấy đời sống mình dạy dỗ, tức là cho chúng
dân trông thấy những hành vi, cử chỉ của mình, lấy lời lẽ dạy dỗ để dân
ca tụng ngâm vịnh cho thuộc, cho nhớ. Cả hai phương diện đều cần thiết,
không thể bỏ dân nào được.
«Trong
thiên hạ chỉ có Lý là hằng cửu, là cao đại, lời minh diễn về Hoàng Cực,
tức là thuần chân, thuần lý, vì thế nên gọi là hằng cửu, là cao đại. Lý
đó bắt nguồn từ Trời, vì Trời đã đem chân lý ấy ghi tạc vào tâm khảm con
người, nên những lời lẽ hợp với chân lý, hợp với lương tâm con người tức
là lời giáo huấn của Trời – Trời tức là vị thánh nhân không nói. Thánh
nhân tức là Trời biết nói, một là hai, hai là một vậy.»
B. ĐỨC ĐỘ CÁC VỊ CHÂN
THIÊN TỬ TRUNG HOA
Lịch sử
Trung Hoa đã ghi chép và đã khen lao đức độ các vị thánh quân, những bậc
chân thiên tử.
Hoàng đế
được coi là vị thánh nhân. Trong Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn, chương Thượng
Cổ Thiên Chân Luận có ghi chú như sau:
«Trong khi
đúc đỉnh ở Đỉnh Hồ Sơn xong thì Hoàng Đế lên trời giữa ban ngày. Quần
thần chôn áo mão ngài ở Kiều Sơn…»
Vua Thành
Thang biết «lấy Trời làm lòng mình», nghĩa là hoàn toàn sống phối hợp
với ý Trời.
Sử chép
vua Nghiêu rất thương dân. Ngài nói: «Thấy một người dân đói, ta thấy
như là ta đói; thấy một người dân rét, ta thấy như là ta rét; thấy một
người dân bị áp bức, ta thấy như là ta bị áp bức.»
Vì thế,
dân chúng coi Ngài như cha, và khi Ngài băng hà, trong ba năm trong nước
không nghe thấy tiếng âm nhạc.
Vua Đại Võ
khen vua Thuấn như sau: «Lời nói phải không còn bị che đậy giấu diếm,
đồng nội không còn sót hiền tài. Muôn nước đều yên. Vua cư xử vừa lòng
chúng dân, bỏ ý mình theo ý người, không hiếp đáp kẻ bơ vơ, không ruồng
rẫy người cùng khốn, chỉ vua Nghiêu là được thế.»
Ích Tắc
nói tiếp: «Vâng, đức vua Nghiêu lẫy lừng vang khắp. Ngài là thánh, là
thần, gồm văn, gồm võ. Trời cao thương Ngài, trao cho mệnh cả… Ngài gồm
thâu bốn bể, làm vua thiên hạ.»
Trong
Chiến Quốc Sách có chép: Đời vua Vũ có viên quan tên là Nghi Địch nấu
rượu rất ngon. Nghi Địch dâng rượu lên vua. Vua Vũ uống vào, thấy rượu
ngon ngọt, phán rằng: «Đời sau ắt có vị vua vì rượu mà mất nước.» Ngài
bèn xa lánh Nghi Địch, và tự hậu chẳng hề uống rượu.
Trong một
cuộc tuần thú, vua Đại Võ trông thấy một tội nhân, liền xuống xe, han
hỏi và khóc ròng. Tả hữu nói: «Tội nhân này trái đạo, đức vua can chi
phải khổ đau?» Vua nói: «Thời Nghiêu Thuấn, dân lấy lòng Nghiêu, Thuấn
làm lòng mình. Ta nay lên làm vua, bách tính theo ý riêng mình, vì vậy
ta khóc. Vạn phương có tội, lỗi tự mình ta…» Một hôm Ngài qua sông
Giang, bị con rồng vàng đội thuyền lên. Cả thuyền đều sợ. Nhà vua không
thay đổi thần sắc nói: «Ta chịu mệnh Trời, một niềm tận tụy vì dân. Sống
chết của ta là do ý Trời, rồng này làm gì được ta.» Thoắt thôi, rồng cúi
đầu cúp đuôi lặn mất.
Chu Công
nói: «Trung Tông nhà Ân kính sợ mệnh Trời, giữ mình, trị dân cẩn thận,
hãi hùng không dám hoang toàng, yên vui. Cho nên vua Trung Tông hưởng
nước 75 năm. Tới đời vua Cao Tông, trước vốn khó nhọc ở ngoài cung, làm
lụng với dân hèn, cho nên khi lên ngôi, có thời cư tang trong lều, ba
năm không nói. Về sau vua cũng ít nói, nhưng khi nói ra là hợp lẽ. Ngài
không dám hoang toàng, yên vui. Làm đẹp, làm yên nước Ân, cho nên kẻ nhỏ
người lớn không hề khi nào oán trách. Cao Tông trị nước 59 năm. Văn
Vương phục sức xoàng xĩnh, chỉ chăm việc trị an và canh nông. Ngài khiêm
cung nhu mì, thương yêu, bênh vực dân hèn, làm ơn cho kẻ góa bụa. Từ sớm
đến trưa, từ trưa đến tối, vua không còn có thời giờ rảnh để ăn, mà mê
mải lo cho muôn dân được vui hòa. Ngài không dám ham mê chơi săn. Thâu
thuế các nước thì chỉ thâu chính đáng. Cho nên vua Văn chịu mệnh khi đã
đứng tuổi, mà còn hưởng nước được 50 năm.»
Đức Khổng
khen các thánh vương thời cổ như sau: «Cao siêu thay! Thuấn Vũ có thiên
hạ mà lòng không dính bén.»
«… Đức
nghiệp vua Nghiêu to lớn biết bao! Cao siêu biết bao! Chỉ có Trời là
lớn; chỉ có vua Nghiêu sánh được với Trời. Lồng lộng thay! Dân chúng
không thể khen tặng cho xiết. Cao siêu thay sự thành công của Ngài ! Lễ
nhạc, pháp độ Ngài rõ ràng thay.»
«Vua Văn
nhà Châu được hai phần ba thiên hạ theo mình mà vẫn phụng sự nhà Ân. Đức
độ ấy có thể gọi là chí cực vậy.»
Đức Khổng
nói: «Vua Vũ nhà Hạ ta chẳng chê trách được. Trong việc ăn uống ngài giữ
đạm bạc, nhưng trong việc cúng tế quỉ thần thì lại trọng hậu. Y phục
ngài thường mặc thì xấu, nhưng áo mão Ngài trang sức trong dịp cúng tế
thì lại rất đẹp. Cung thất của Ngài thì nhỏ hẹp, nhưng ngòi lạch trong
nước thì Ngài tận lực sửa sang. Vua Vũ nhà Hạ ta chẳng chê trách được.»
Đọc lịch
sử ta thấy các vị thánh vương xưa rất trọng dân, thương dân, cai trị dân
một cách dân chủ và bình dị.
Vua Nghiêu
cho đặt trống và bản trước triều ca. Hễ ai muốn can gián khuyến cáo nhà
vua thì đánh trống xin vào triều kiến, hoặc là viết lời gián nghị lên
bảng.
Vua Đại Võ
cho treo chuông, trống lớn, khánh, mõ, trống khẩu tại triều đình. Vua
truyền viết trên giá chuông trống như sau: «Ai muốn chỉ dẫn quả nhân về
đạo lý, xin đánh trống lớn, muốn khuyến cáo về việc nghĩa xin đánh
chuông, muốn trình bày công việc xin đánh mõ, muốn khiếu oan xin đánh
khánh, muốn thưa kiện xin đánh trống khẩu.»
Vua thường
nói: «Các hiền sĩ lận đận ngoài đạo lộ còn khả trợ. Nhưng để họ lận đận
trước cửa ta thì không thể được.» Nên nhiều khi nhà vua đang gội đầu,
phải bỏ dở, vắt tóc đến hai ba lần, có ngày lại mất cả ăn uống thư thả,
để giữ trọn lễ với các hiền sĩ.
Dưới triều
nhà Hạ, hằng năm vào tháng đầu xuân, viên chấp lệnh gõ mõ đi khắp nẻo
đường, rao rằng:
«Hỡi các
quan, các thầy hãy cho nhà vua biết các khuyết điểm của triều chính; hỡi
các thợ thuyền hãy cho nhà vua biết các lỗi lầm mà triều chính đã phạm
đối với từng nghề nghiệp. Kẻ nào không tuân cứ, sẽ bị phạt theo phép
nước.»
Nói chung,
các vị thánh vương xưa, tuy ở ngôi cao đứng đầu trăm họ, nhưng không hề
dám trễ nải, ăn chơi, trái lại, thường tự nhủ: «Làm vua khó mà làm bầy
tôi cũng chẳng dễ.»
Các ngài
dùng người hiền thì tôn trọng và không nghi ngờ, gặp kẻ xấu thì xua đuổi
không ngần ngại.
Các ngài
không dám làm điều trái đạo để cầu lời khen của trăm họ, không dám trái
ý trăm họ để thể theo ý riêng mình.
Các ngài
ra công học hỏi, tu thân; cố gắng không ngừng để trở nên giỏi giang,
nhân đức, ngõ hầu trị dân một cách khôn ngoan sáng suốt.
Các ngài
cấp phát tài sản cho dân, vì biết rằng có «hằng sản»
thì dân
mới có «hằng tâm».
Các ngài
khuyến khích chúng dân triệt để khai thác đất đai, để cho dân được no
ấm, có đầy đủ tiện nghi và sống một cuộc đời phong phú về vật chất,
thuần mỹ về tinh thần, khả dĩ có thể tiến tới được tinh hoa, thánh
thiện.
Các ngài
lấy đức độ mình để cảm hóa dân, coi mình như ngọn gió, và chúng dân như
ngọn cỏ; hễ gió thổi thì cỏ lướt theo chiều.
Không bao
giờ các ngài nghĩ đến sự tàn sát dân, và luôn luôn giữ được đức hiếu
sinh,
tuy có
lập ra hình phạt để sửa trị dân, nhưng trong lòng hằng mong mỏi có ngày
vất bỏ được những hình phạt ấy.
Các ngài
cố giáo hóa dân, mong sao cho dân một ngày một thêm hoàn thiện, có thể
đạt tới Trung đạo thông phần vinh quang của thiên tử.
Các vị
chân thiên tử xưa trị dân cốt lấy đức độ mình mà cảm hóa dân, và đặc
biệt nhất, là các ngài tỏ ra rất là nhân từ khoan hậu.
Đối với
dân, thì thương dân và trọng dân, nếu cần sửa phạt thì đắn đo cân nhắc,
coi là chuyện bất đắc dĩ. Khi chinh phạt thì chỉ chinh phạt kẻ tàn hung,
còn lê dân thì tuyệt đối không sát hại. Khi diệt trừ những bạo chúa xong
rồi thì giòng dõi được nhiêu dung, hay, hơn nữa, lại còn được trọng
dụng, phong quan tước.
Cao Dao
khen Đại Võ: «Đức độ nhà vua thật là toàn vẹn. Ngài giản dị khi tiếp xức
với bầy tôi, khoan hồng trong việc cai trị dân chúng. Phạt không tới
con, mà thưởng thì thưởng đến con cháu.
Tha cho
kẻ lầm lẫn, dù họ phạm tội to; bắt tội kẻ cố ý, dù họ phạm tội nhẹ. Tội
nghi ngờ thì coi là nhẹ; công nghi ngờ thì coi là lớn. Thà là đắc tội
không thi hành luật pháp còn hơn là giết người vô tội. Đức vua cố làm
cho dân thấy ngài quí trọng mạng sống của họ, cho nên dân cố tránh tội
lệ, để khỏi bị các giới chức của nhà vua trừng trị.»
Trong Kinh
Thư có chép rằng: «Vua Thành Thang khi khởi cuộc chinh phạt (chống vua
Kiệt), trước hết chiếm đất Cát. Thiên hạ đều tin tưởng ngài. Ngài đương
chinh phục miền Đông thì đoàn rợ Di miền Tây phiền trách; tới chừng ngài
chinh phục miền Nam thì thì đoàn rợ Địch miền Bắc phiền trách. Nó trách
rằng: «Sao ngài chẳng tới sớm nước ta?» Dân chúng khắp thiên hạ mong chờ
ngài đến, như lúc trời hạn người ta trông cho thấy mây và mống trời. Đến
chừng ngài kéo binh vào xứ họ, họ vẫn tự nhiên chẳng sơ sệt gì cả: Người
đi chợ vẫn đi, người đương cày vẫn cày. Ngài giết những vị vua hôn bạo,
mà giải cứu cho nhân dân. Bá tánh đều mừng rỡ, dường như được mưa tuôn
phải lúc.»
Các vị
thánh vương Trung Hoa thực đã có những thái độ đường lối khác hẳn với
các vị lãnh đạo, các vị đế vương Do Thái.
Thánh Kinh
đã cho ta thấy cách cai trị, cách xử sự của các vị lãnh tụ, các vị đế
vương Do Thái thật là bạo tàn cứng rắn, chẳng hề có chút tình thương.
Các vị lãnh đạo Do Thái đã trị dân bằng sự khủng bố, bằng những hình
phạt, bằng sự giết lát.
Moïse đã
tàn sát dân chúng hai lần: một lần ở Sinaï, tiêu diệt 23.000 người, vì
tội thờ bò vàng, nhưng trớ trêu thay lại tha cho thủ phạm là Aaron anh
mình;
chẳng
những thế, ít lâu sau còn phong cho Aaron làm thầy cả thượng phẩm… Một
lần khác, ở Péor, 24.000 dân lại bị tàn sát, vì tội trai lơ, trăng gió
với các con gái dân Moab, với lễ thần Baal.
Deutéronome xác nhận rằng Moïse đã làm cho cả Israel thấy bàn tay quyền
phép, và sự kinh hoàng lớn lao…
Khi Josué
đưa dân Do Thái vào chiếm xứ Canaan thì đã ra tiêu lệnh phải tận diệt
người, vật trong các thành mình sẽ chiếm.
Vua Saül,
trong khi tiêu diệt dân Amalec, đã phạm phải lỗi lầm là nhiêu sinh cho
vua Agag, nên từ đấy đã bị chúc dữ, đã mất vương quyền trên lý thuyết.
Còn Agag
rốt cuộc cũng bị Samuel đích thân chém chết.
David sau
khi đã được Samuel tấn phong và đã trở nên đấng Messie của Do Thái, vì
sợ Saül giết, nên đã cùng bộ hạ qui hàng vua dân Philistins là Akish,
trong vòng một năm bốn tháng.
Trong
khoảng thời gian ấy, David thường cùng bộ hạ trở về cướp phá miền Negeb,
phía nam Palestine, và tận diệt dân chúng vùng ấy, như dân Geshurites,
Girzites, Amalécites, cũng như đã tận diệt dân thành Gat, để hết còn ai
tố cáo hành động mình.
Khi ngài
đã lên ngôi, ngoài những trận tiêu diệt địch quân ngoài chiến địa không
kể, ngài còn tận diệt dân thành Rabba, cũng như dân chúng trong các
thành trì của dân Ammonites. Sử Do Thái chép: «Còn dân sự trong thành,
người đem ra mà cắt xé ra hoặc bằng cưa, hoặc bằng búa sắt, hoặc bằng
rìu. David làm như vậy cho các thành của Ammon.»
Sau khi
thắng dân Moabites, vua bắt họ nằm cả xuống đất đoạn lấy dây đo; cứ giết
hai dây, lại tha một dây.
Khi ngài ở
ngôi, trong nước có nạn đói kém ba năm. Ngài nghe lời dân Gabaonites,
buộc cho con cháu vua Saül đã gây ra tai ương ấy, vì những tiền khiên
của vua Saül, cha ông họ, nên đã giao tất cả con cháu vua Saül là 7
người, cho dân Gabaonites đóng cọc nhọn vào ruột, dựng lên trên một ngọn
núi cho đến chết; cho rằng làm vậy, Chúa sẽ nguôi cơn thịnh nộ.
Trong vụ
này vua chỉ tha cho một mình Meribaal, con jonathan. Nhưng Meribaal chỉ
là một phế nhân vì bị què quặt từ bé.
Salomon
vừa lên ngôi, liền kiếm cớ giết anh cùng cha khác mẹ với mình là
Adonias, người đáng lý ra được thừa kế ngôi vua David, và đại tướng
Joab, vị khai quốc công thần dưới triều David, vì đã muốn phò Adonias
lên ngôi.
Sử khen
vua Salomon khôn ngoan, thông tuệ, giàu sang, phú quí, có tới những 700
vợ hàng vương tước, và 300 cung tần (I, Rois, XI, 1-3). Nhưng thực ra,
dân chúng rên siết vì phải phục dịch nặng nề vất vả. Sau khi Salomon
thăng hà, dân chúng đến cùng tân vương là Roboam mà tâu rằng: «Thân phụ
vua đã làm cho ách chúng tôi nặng nề quá, nhưng bây giờ vua hãy giảm nhẹ
sự phục dịch khó nhọc và cái ách nặng mà thân phụ của vua đã gán cho
chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục dịch vua.» Vua Roboam, sau ba ngày suy
nghĩ và vấn kế đình thần, đã trả lời dân như sau: «Cha ta đã khiến ách
các ngươi nặng nề; ta sẽ làm cho ách các ngươi nặng nề hơn nữa. Cha ta
có sửa phạt các ngươi bằng roi da; ta sẽ sửa phạt các ngươi bằng roi bò
cạp.»
Một lời
nói vô ý thức ấy đã làm cho mười họ Israel bỏ vua Roboam mà qui thuận
Jéroboam thuộc giòng họ khác.
C. CÔNG TRÌNH CỦA CÁC VỊ
THÁNH VƯƠNG TRUNG HOA
Các vị
thánh vương Trung Hoa là những người vừa mẫn tiệp, vừa thánh thiện, vừa
tài ba xuất chúng, cho nên thường đã lưu lại những công nghiệp vĩ đại.
Phục Hi đã
dạy dân săn, câu, chăn nuôi gia súc, lập lễ nghi cưới hỏi, lập văn tự,
chế đàn cầm, đàn sắt, vẽ bát quái, đặt nền móng cho Kinh Dịch.
Thần Nông
dạy dân canh tác. Vua nghiên cứu thảo mộc để học tính chất. Thần Nông là
thủy tổ ngành y dược. Ông lập chợ cho dân buôn bán, phân phối đình thần.
Hoàng Đế
tổ chức triều thần để trị dân, lập chức tả hữu sử để ghi chép lịch sử,
san định lại văn tự, lập thiên văn đài gọi là Linh đài để quan sát thiên
tượng, thời tiết; qui định can chi để tính năm; lập lịch số, toán số,
qui định cân lương, cung điện, sáng tác nhạc phẩm Hàm Trì, lập chế độ áo
mão, y thường, chế tạo khí giới, dụng cụ, xe thuyền; lập những qui tắc
cho công việc xây cất nhà cửa, tế lễ Thượng Đế, và dạy dỗ dân, tổ chức
tiền tệ để tiện buôn bán, viết Nội Kinh. Vợ ngài là Luy Tổ dạy dân nuôi
tằm.
Ngài ưa
tuần thú, tổ chức quân lữ thành doanh vệ, chế trận pháp, làm kỳ hiệu,
lập phép tỉnh điền, để qui tụ dân chúng và khai khẩn đất đai, bắt đầu
cho vẽ bản đồ các châu quận.
Vua Nghiêu
rất chú trọng đến thiên văn lịch số. Vua định vòng năm là 366 ngày. Sai
Hi, Hòa trí lịch tượng, lập ghép thêm tháng nhuận, xác định khởi điểm
bốn mùa theo vị trí biểu kiến mặt trời. Để trống và bảng trước triều
đình cho dân chúng tới khiếu nại. Đi tuần thú tứ phương 12 năm một lần,
để kiểm soát phong tục, lịch số, lễ nghi, phẩm phục, nhã nhạc, cốt cho
phong tục trong nước đâu đấy được đồng nhất.
Vua Thuấn
qui định thống nhất lại hệ thống cân lường, lễ nhạc. Lập chính sách tuần
thú năm năm một lần, phân công cho đình thần. Thủa ấy vua Thuấn đã biết
phân công cho đình thần mỗi người một nhiệm vụ, thật là rõ rệt. Về chính
trị ta thấy vua Thuấn chú trọng đến:
1- Nông
nghiệp
2- Sản vật
tự nhiên
3- Công
chánh
4- Hình
pháp
5- Giáo
dục
6- Nghi lễ
7- Nhã
nhạc
8- Thiên
thời, địa lợi
9- Tấu đối
(tức là phúc trình tường thuật mọi công việc cho nhà vua được hay biết).
Vua còn
lập ra quan Bách quỹ có quyền trông nom, kiểm soát cả 9 bộ nói trên. Tổ
chức của vua Thuấn chẳng khác nào tổ chức của nội các ngày nay.
Vua Đại Võ
khai sông, đào ngòi, đục núi làm đường, trị hồng thủy, lập thuế khóa,
đúc cửu đỉnh, v.v…
Văn Vương,
Võ Vương nối tiếp đường lối của Nghiêu, Thuấn để trị dân. Văn Vương khi
bị giam ở ngục Dũ Lý đã làm ra Dịch hậu thiên. Võ Vương nhờ Cơ Tử viết
ra chương Hồng Phạm đúc kết lại tinh hoa phương pháp thay Trời trị dân.
Công trình
các vị thánh vương Trung Hoa nói tóm lại thực là bao la vĩ đại…
II. TƯƠNG QUAN GIỮA THÁNH NHÂN VÀ THIÊN
TỬ THEO QUAN NIỆM TRUNG HOA
Trên
nguyên tắc, thiên tử phải:
1/ là một
thánh nhân
đức hạnh
tuyệt vời.
2/ là một
triết vương
có mắt
tinh đời, biết người, biết dùng người.
3/ được
mệnh Trời.
4/ được
lòng dân.
5/ có
trách nhiệm đem lại cho dân chúng hòa bình thái thịnh, dạy dỗ dân, làm
gương cho dân, để họ tiến bước trên đường nhân nẻo đức. Như vậy thiên tử
có trách nhiệm và quyền hạn cả về vật chất lẫn tinh thần đối với dân.
Cho nên,
dẫu là thánh nhân, dẫu đáng ngôi thiên tử, nếu không được tiến cử với
Trời, không được mệnh Trời, thì cũng không được quyền cai trị thiên hạ.
Tuy nhiên,
thiên tử hay thánh nhân chỉ khác nhau về nhiệm vụ và địa vị, nhưng trên
lý thuyết, không khác nhau về giá trị nội tại.
Các ngài
trước sau vẫn là những người sống phối hợp với Thượng Đế, là vẻ sáng của
Thượng Đế, là hiện thân của Thượng Đế.
Kinh Thi
viết:
«Việc Trời chẳng tiếng chẳng tăm,
Nên dùng dạng thức vua Văn hiển hình,
Cho muôn dân thấy mà tin.»
Cao Trung
Hiến bình đoạn Kinh Thi này như sau:
«Thánh
nhân là đạo Trời có hình tướng. Muốn tìm đạo Trời nơi Trời thì ẩn vi khó
thấy, tìm đạo Trời nơi thánh nhân thì có thể thấy và bắt chước được. Cho
nên Dịch viết: «Thần minh âu cũng ở nơi người nghĩa là thần minh có thể
âm thầm khế hợp với người vậy.»
Khổng Tử
lúc gian nan nguy khốn mới xưng mình là vẻ sáng của Thượng Đế y thức như
Văn Vương xưa.
Khi bị vây
ở đất Khuông, Ngài nói: «Văn Vương thác rồi, vẻ sáng ấy chẳng ở lại nơi
ta hay sao? Nếu Trời muốn để mất vẻ sáng ấy, thì sau khi Văn Vương thăng
hà đâu có ban cho ta. Nếu Trời không muốn mất vẻ sáng ấy, thì người đất
Khuông làm gì được ta?»
Tống Nho
minh xác: «Thánh nhân và Trời là một.»
Những lời
lẽ trên gợi lại cho chúng ta một câu Phúc Âm: «Cha ta và ta là một.»
Diệp Các
Lão 葉
閣
老
đời Thanh chủ trương Thiên Chúa đã giáng
trần nhiều lần dưới hình hài Nghiêu, Thuấn, Khổng Tử, nhiều vua, và
nhiều vị thánh nhân khác. Cho nên cũng giáng trần bên Âu Châu trong hình
hài Chúa Jésus… Kết luận là Chúa Jésus đối với Âu Châu thế nào thì Khổng
Tử và các văn hào lỗi lạc khác đối với Trung Hoa cũng vậy.
Tiến sĩ
Michel còn nói: học thuyết Khổng Tử hoàn bị vì chính là học thuyết của
Trời.
III. QUAN NIỀM VỀ THIÊN TỬ TRONG ÍT NHIỀU
QUỐC GIA KHÁC VÀ QUA CÁC THỜI ĐẠI
Thực ra,
niềm tin tưởng rằng vị thánh quân này, vị thánh nhân kia là hiện thân
của Thượng Đế, là Thượng Đế giáng trần, đối với các dân tộc xưa không có
gì là lạ cả.
Khảo sát
các nền văn hóa cũ ta thấy khắp nơi đều tin tưởng như vậy.
Trong
quyển The Golden Bough, nơi chương VII, nhan đề Incarnate human gods
«Thần minh giáng phàm», ông James George Frazer đã khảo sát về vấn đề
này rất là tường tận kỹ càng.
Ông viết:
«Quan niệm Người-Trời hay một nhân vật có quyền phép Trời hay quyền phép
siêu nhiên là một quan niệm đặc biệt thời cổ sơ của lịch sử đạo giáo.
Thời ấy thần minh và nhân loại còn được coi hầu như đồng loại. Sau này,
hố sâu ngăn cách chia rẽ đôi đàng mới một ngày một thêm sâu thẳm.»
Tóm lại,
trong khi các đế vương Trung Hoa xưng mình là:
- Thiên tử
(con Thiên Chúa, con Trời)
- Thiên sứ
(sứ giả của Trời)
- Thiên
dịch (tôi tá của Trời)
thì các vị
đế vương hay các vị thánh nhân các nước khác trong hoàn võ cũng thường
xưng mình, hay thường được xưng tụng là:
- Con
Thiên Chúa
- Thiên
Chúa
- Đấng
Christ, hay Messie
- Đấng Cứu
Thế.
Chúng ta
sẽ dùng lịch sử cổ kim để chứng minh điều đó.
Trước hết,
chúng ta hãy lần giở Thánh Kinh cũ và mới. Tước hiệu «Con Thiên Chúa» đã
xuất hiện từ trước thời Hồng Thủy như đã được ghi chép trong chương 6
Sáng Thế Ký.
Ý nghĩa
đoạn này chưa được giải thích chính xác. Những con Thiên Chúa đề cập nơi
đây, có thể là những thiên thần, những người Trời, hay những người đã
được Thần Chúa nhập vào. Nói được vậy, là vì Sáng thế ký, sau khi ghi
chép rằng các Con Thiên Chúa bắt đầu yêu và lấy con gái loài người, đã
viết tiếp: Yahve nói: «Thần
ta sẽ chẳng ở mãi trong loài người, vì loài người chỉ là xác thịt.
Trong
Deutéronome, ta thấy chữ «Những
Con Trời»
dùng đối với chữ «Những
Con Người».
Và ở đây, «Những
Con Trời»
được quyền cai trị «Những
Con Người»,
trong những vùng đất đai Thiên Chúa đã chỉ định sẵn. Ở Israel, Jacob là
«Con
Thiên Chúa được phần gia nghiệp».
Về sau vua
David cũng đã được gọi là Con Thiên Chúa, là Thiên tử.
Thánh Vịnh
89 đã ghi rõ điều đó:
«Chúa
từng phán trong khi mặc khải
Ánh siêu nhiên, giãi tới tôi hiền
Ta ban dũng sĩ triều thiên
Đặt người lê thứ lên trên ngai vàng
Tìm David trong hàng tôi tá
Lấy dầu thiêng ta đã xức cho
Ta còn vững mạnh hộ phù
Cho người sức mạnh cơ đồ làm nên...
Kẻ gian ác khôn tìm hành hạ,
Kẻ đối phương chằng khá lọc lừa,
Và bao đảng nghịch quân thù,
Vì người, ta sẽ diệt trừ phá tan.
Ta cho tựa lòng nhân, đức tín
Nhờ danh ta nước tiến oai hùng,
Quyền người lan rộng Tây Đông,
Bao la mặt biển, dòng sông rộng dài,
Người sẽ gọi Cha tôi Chúa hỡi,
Thành đá hằng cứu rỗi của tôi,
Và ta con trưởng đặt người
Lên ngôi cao cả các ngôi vương hầu.
Ta sẽ trọn lòng yêu mãi mãi
Lời ước giao giữ tới đời đời,
Cháu con người sẽ truyền ngôi.
Tháng năm cùng với tầng trời dài lâu.
Kế đến, vua
Salomon cũng được Chúa chính thửc công nhận là con, qua lời tiên tri
Nathan. Chúa phán:
«…Đến
khi ngươi (David) mãn phần về cùng tổ phụ ngươi, ta sẽ giữ vững giòng
giõi ngươi, một trong các con trai ngươi sẽ được ta cho lên trị vì
vững.chắc. Người sẽ xây cho ta một đền thờ, và ta sẽ làm cho ngôi báu
người bền vững mãi. Ta sẽ là cha người và người sẽ là con ta. Sự phù hộ
ta, ta sẽ chẳng cất khỏi người như ta đã làm đối với những kẻ ở trước
ngươi, song ta sẽ lập người đời đời tại trong nhà ta và trong nước, và
ngôi báu người sẽ bền vững mãi.
Vua xứ Tyr,
lại tiến thêm bước nữa: vua xưng mình là Thiên Chúa ngự tòa Thiên Chúa ở
giữa trùng dương.
Đàng khác,
chính Thiên Chúa cũng công nhận vua xứ Tyr trước khi trở nên giàu có,
oai quyền, kiêu ngạo đó là một gương mẫu cho sự toàn thiện, và đã được
coi như một thiên thần Chérubin, được Chúa hết sức thương yêu chiều
chuộng.
Chúa nói
cùng vua Tyr:
Xưa ngươi là một tấm gương hoàn thiện,
Ngươi khôn ngoan, kiều diễm biết là
bao.
Ngươi ở Eden, thượng uyển đấng Tối
cao,
Y thường ngươi, được dệt bằng muôn
châu ngọc.
Mã não, kim cương, ngọc thanh, hoàng,
xích, lục,
Với hoàng kim để làm sáo trống ngươi,
Ta đã sắm, từ khi ngươi vừa mới chào
đời.
Ngươi y như một thiên thần giang rộng
cánh
Và chính ta, đã đặt ngươi trên núi
thánh.
Cho ngươi bước trên toàn là những ngọc
châu
Và ngươi từng đã có đời sống thanh
tao,
Cho tới ngày ngươi sa vào vòng tội lệ.
Chúa cũng
đã gọi Cyrus một vua Ba Tư ngoại đạo
là đấng
Christ, đấng Messie.
Yahvé phán
cùng Cyrus đấng Christ của Ngài:
«Ta đã cầm lấy tay hữu người,
để
hàng phục
các dân nước trước mặt người.
Chẳng những
thế, tước vị con Thiên Chúa còn được áp dụng cho những người có đời sống
thánh thiện hoàn hảo.
Sách Minh
Triết viết:
«Kẻ
lành tự đắc mình được biết
Chúa và tự xưng mình là con Thiên Chúa...
Nếu kẻ công chính con Thiên Chúa thật, thì Chúa sẽ giúp họ, Chúa sẽ cứu
họ khỏi tay thù địch! Vậy ta hãy sỉ vả quấy nhiễu họ.»
Kinh Thánh
cũng chép khi Otniel, Saül, David được thụ phong thì Thần Chúa nhập vào
các ngài,
và như
vậy Chúa ở cùng Saül,
cùng
David.
Những
đoạn này làm liên tưởng tới câu Kinh Thi:
«Thượng
đế lâm nhữ, vô nhị nhĩ tâm.»
Khi Chúa
Jésus ra đời, bao nhiêu huy hiệu:
- Thiên tử
- Thiên
chúa
- Christ,
Messie
- Cứu thế
lại được
dùng để xưng tụng Ngài và chính Chúa Jésus cũng rất nhiều lần xưng mình
là Con Thiên Chúa.
Tuy nhiên
Thánh Jean và Thánh Paul vẫn chủ trương mọi người đều có thể trở nên con
Thíên Chúa
và hoàn
võ chỉ cốt để tạo thành những con Thiên Chúa.
Vì thế ước
vọng và vinh dự lớn lao nhất của người Thiên Chúa giáo là trở thành
«đấng
Christ mới»
(Christanus Alter Christus).
Cho nên
ngay trong giáo hội Công giáo nhất là máy thế kỷ đầu ta đã thấy có những
người xưng mình là con Thiên Chúa, là hiện thân của
Thượng Đế.
Ở thế kỷ
thứ hai, Montanus người Phrygie xưng mình là hiện thân của Thượng Đế.
Các môn đệ
Thánh Columba cũng tôn thờ ngài như là hiện thân của Chúa Ki Tô.
Thế kỷ
thứ 8, Elipandus ở Toledo, nói về Chúa Ki Tô như là
«Chúa
giữa các Chúa»,
ý nói mọi người tin đạo đều là Chúa y như Chúa Jésus vậy.
Thế kỷ
XIII, có một giáo phái gọi là «Anh
chị em tinh thần tự do»
chủ trương:
Nhờ sự chiêm ngưỡng miệt mài, ai cũng có thể kết hợp với Chúa một cách
tuyệt diệu và nên một với Nguồn gốc vạn vật; và ai đã được nhập vào bản
thể hạnh phúc của Chúa, sẽ trở
nên phần mình Chúa, nên con Chúa như đấng
Christ và sẽ không còn bị mọi luật lệ gian trần và thiên cung chi
phối...
Dĩ nhiên
những chủ trương trên bị Giáo Hội phi bác và cho là lầm lạc hết.
Khảo sát
lịch sử các nước sống ở ngoài ảnh hưởng Thiên Chúa giáo ta cũng vẫn thấy
quan điểm tương tự về «thần
nhân»,
về «Người
Trời»,
về «Thiên tử»,
và đấng «Cứu
thế»
ở khắp các dân nước.
Khi Pháp
còn theo đạo Druidisme thì quốc
gia
Celte được coi là tiểu vũ trụ mà vị quân
vương giáo chủ được coi là Hóa Công suy lòng mình để đem sự hòa bình
thượng giới vào trong xã hội loài người.
Thủa xa
xưa, các vua xứ Akkad thuộc miền Mésopotamie, vẫn cho mình là đại diện
của Trời,
là thần minh, là đấng Christ, đấng Messie vì mỗi triều đại mới là một
hứa hẹn cho sự bình yên thái thịnh.
Các vua
Babylone thời sơ thủy, từ Sargon I tới triều đại Ur hay sau hơn nữa, đều
coi mình là thần minh, ngay khi còn sinh thời.
Các vua Ai
Cập cũng được thần thánh hóa ngay khi sinh tiền. Và chắc chắn lả các vua
Ai Cập coi mình là người Trời.. là con thần Ra. Các ngài cho rằng mình
có chủ quyền chẳng những trên nước Ai Cập, mà trên khắp mọi dân nước,
trên toàn thế giới...
Ernest
Findlay Scott cho rằng:
Chữ đấng
«Cứu
thế»
xưa là một tiếng ngoại giáo thường được áp dụng cho nhiều vị thần minh,
hay những người đã được thần thánh hóa.
Nhiều vua
xứ Syrie và Ai Cập cũng được mệnh danh
«đấng
Cứu thế».
Có lẽ vì nguồn gốc ngoại giáo như
vậy nên thoạt kỳ thủy giáo dân đã
tránh không muốn dùng tước hiệu ấy để xưng tụng chúa Jésus, và mãi đến
thế kỷ thứ 2, tiếng «đấng
Cứu thế»
mới trở nên
tước hiệu phổ thông để chỉ đấng Christ.
Andrew F.
Wall viết trong bộ Tự điển Thần học như sau:
Các dân
nước quanh dân Do Thái xưa thường hay thần thánh hóa vua chúa. Chẳng
hạn, người Hi Lạp tin rằng thần minh có thể mặc xác phàm, và ngược lại
con người có hồn thiêng bất tử giống thần minh. Vì thế họ thần thánh hóa
vua chúa rất dễ dàng.
Các vị anh
hùng, các bậc cứu quốc, kiến quốc
thường được tôn sùng như thần minh
ngay khi họ còn sinh thời.
Alexandre
được thờ sống trong những quốc gia Á Châu mà õng chinh phục được.
Đối với các
vua chúa kế vị Alexandre, thời việc được thờ phụng trở nên quá thông
thường. Đó có thể là một kiểu dua nịnh Á Đông mà vua Hérode Agrippa đã
mua với một giá rất đắt (Actes 12: 20ff), nhưng cũng có thể là một cử
chỉ thành thực, như khi vua Antiochus IV Epiphanus, vị vua ác cảm với Do
Thái, và Thiên Chúa Do Thái, đã xưng mình là Chúa Thần Zeus, và trên
tiền tệ phát hành, ghi tạc, tuyên xưng mình là Chúa (God). Chủ trương
này cũng liên quan mật thiết với truyền thống Ai Cập, một quốc gia coi
giòng giõi vua chúa là Thần thánh, ngôi vua được truyền tử, lưu tôn, và
giống họ Ptolémée dầu chết sống cũng được thờ phụng công khai.
Từ thời
Jules Caesar về sau, thì sự thần thánh hóa vua chúa được qui định cẩn
thận, và sự thờ phượng vua chúa được thi hành nguyên ở La Mã không
thôi...
Jules Cesar
được thờ phụng trong những nơi ông chinh phục được. Vua Auguste khuyến
cáo tôn thờ «Thần
Jules Caesar»
nhưng lại giảm bớt sự tôn thờ đối với mình. Auguste và các vua kế vị đều
được thần thánh hóa chính thức lúc băng hà. Các vua như Caligula, Neron,
Domitien bắt dân phải thờ phụng mình ngay khi còn sống...
Ông Andrew
F. Walls có lẽ muốn giải thích những dữ kiện trên, nên tiếp tục viết đại
khái như sau:
Đạo huyền
đồng, mật giáo Hi Lạp có mục đích
tu luyện cho tâm hồn được hòa đồng
với thần minh, và chủ trương
tâm hồn cũng cùng một giòng giống
với Thần minh. Quan niệm
này đã
ảnh hưởng
tới Philon và cũng đã xâm nhập vào một
vài hình thức của Huyền đồng Công giáo. Người ta không còn coi con người
là nghĩa tử, dưỡng tử của Thiên Chúa mà chính là thông phần bản thể
Thiên Chúa; tu trì là chuyển hóa bản thể chứ
không phải
là chuyển biến
trên
bình diện luân lý.
IV. CÁC BIẾN
CHUYỂN VỀ QUAN NIỆM THIÊN TỬ THEO GIÒNG THỜI GIAN
Quan niệm
Thiên tử có thể coi như là một
quan niệm, một khám phá vĩ đại của người xưa. Năm sáu nghìn năm lịch sử
còn đó để chứng minh rằng con người đã có những ngưỡng vọng quả là to
tát; mà ngưỡng vọng to tát nhất là tin
tưởng
rằng con người có thề trở nên nhân
đức,
thông tuệ, vẹn toàn, trở nên
Con Thiên Chúa, nên Thiên tử, bước lên ngôi vị Trời, thay Trời trị dân,
để cầm cân nảy mực cho muôn dân.
Chức vị ấy
mở rộng chờ đón mọi người không dàmh cho riêng ai. Và trong lịch sử đã
có những con người siêu việt đăng ngôi Thiên
Tử,
lên trị vì để đem hạnh phúc cho
nhân loại.
Thay vì
giới hạn ở Trung Hoa, quan niệm tuy đã có thời kỳ phổ cập khắp thiên hạ.
Đọc cổ sử
ta đã thấy tước hiệu ấy được áp dụng cho những đấng
quân
vương tài đức, hoặc cho những vị
thánh nhân.
Nhưng dần
dà, theo đà thời gian, tước hiệu Thiên
Tử
đã mất ý nghĩa thiêng liêng của nó, đã
mất hồn thiêng mà chỉ còn lại cái xác, còn lại mũ miện, áo xống, tước vị
đã mất thiên tước để
trở thành một huy hiệu chính trị trần tục suông. Lúc hưng thịnh nó rực
rỡ như vầng nhật nguyệt, chất chứa bao là hứa hẹn thanh bình hạnh phúc
cho nhân loại; thời mạt vận, lắm
hồi nó lại tăm tối như trời vắng
trăng sao, và gieo rắc biết bao hãi hùng, đau thương, tang tóc cho nhân
loại.
Nhìn sang
phía trời Tây, đã từ ngót hai nghìn năm nay, hai tiếng Thiên Tử đã trở
nên một huy hiệu độc đáo, duy nhất, để tặng dữ cho Chúa Ki Tô.
Và từ đấy
các vua chúa Âu Châu
không còn ai dám xưng mình là Thiên tử
nữa. Quan niệm «Vua
–
Đại diện Trời
–
Giáo chủ»
không còn toàn vẹn nữa, và ta thấy trong vòng hơn một nghìn
năm,
sau bao thăng trầm, bao tranh chấp hoặc
thầm lặng hoặc công khai, quan niệm ấy chuyển hướng dần
để
đi tới một đối đỉnh là:
«Giáo
chủ –
đại diện Trời
–
vua».
Chúng ta hãy quay lại cuốn phim lịch sử...
Cách đây
ngót hai mươi thế kỷ, Thiên Chúa giáo đã như ngọn nước thủy triều lan
tràn khắp Âu Châu, nhất là
khi vua Constantin chính thức công nhận đạo Thiên Chúa là quốc giáo
(312)…
Khi giáo
quyền còn bỡ ngỡ, sự tổ chức
chưa có qui mô, thì các vua thượng
vị còn có rất nhiều quyền hạn cả đạo lẫn đời.
Tuy không
chính thức tuyên xưng là giáo chủ, các vua lúc ấy hành động y thức như
vị giáo chủ ngày nay.
Vua
Constantin đã triệu tập cộng đồng chung Nicée (325) đoán định về giáo
lý, chủ tọa nhiều phiên họp công đồng, truất phế lưu đầy các giám mục có
những tư tưởng chống đối với đại đa số.
Giám mục
Anathase bị cộng đồng Tyr (335) kết án, đã trốn sang Constantinople để
minh oan với vua, chứ không sang Rome.
Théodore
(408-450), và Pulchérie (414-453) cũng có ảnh hưởng sâu rộng đối với các
cộng đồng Ephèse (431) và Chalcédoine (453), v.v…
Khảo sát lễ
tấn phong các bậc đế vương nước Pháp ta thấy vua cũng được coi là vị đại
diện Chúa Ki Tô, là «một
Chúa Ki Tô mới»,
«Chúa
Ki Tô thứ hai»,
làm môi giới giữa Trời và Người.
Charlemagne
được thụ phong với tước hiệu là:
«đại diện Chúa Giê su»
chủ tể nước thượng vị Công giáo».
Trong
một bức thư gửi Giáo Hoàng, nhà vua xưng mình là
«Chúa,
là Cha, là Vua, là Thầy cả, là lãnh đạo và hướng đạo cho toàn thể giáo
hữu».
Ngài chủ
trương trị dân là lĩnh trách nhiệm hướng dẫn dân đến sự cứu rỗi hằng
cửu.
Và khi
Giáo Hoàng Léon III lên ngôi, liền gửi cho Ngài bản sao sắc tấn phong,
kèm theo chìa khoá mồ Thánh Phêrô với cờ hiệu thành La Mã, tỏ lòng thần
phục.
Dần dà giáo
hội không cho các vị Hoàng đế xen lấn vào công việc giáo hội nữa. Các
nhà thần học chủ trương: Giáo Hoàng và Hoàng đế tượng trưng cho hai nửa
mình Thiên Chúa, một bên giữ quyền giáo hóa, giải kết (tha hay buộc
tội), một bên giữ quyền cai trị thưởng phạt. Một bên là
«Con Người»,
một bên là
«Con
Trời».
Càng về
sau, khi giáo hội càng lớn mạnh, thì vua chúa càng mất quyền.
Thế kỷ XI,
Giáo Hoàng Grégoire VII (1073-1085) tuyên 27 Sắc chỉ (Dictatus Papoe),
xác định uy quyền tuyệt đối của Giáo Hoàng:
Sắc chỉ 12:
«Giáo
Hoàng có quyền truất phế Hoàng đế.»
Sắc chỉ 20:
«Không
ai được bài bác, chỉ trích một quyết định của Giáo tông.»
Đến thế kỷ
XIII, dưới triều đại Giáo Hoàng Innocent III (1198-1216), Giáo Hoàng
thực sự có quyền tuyệt đối. Ngài
tuyên xưng mình là
«Đại
diện Chúa Ki Tô, đại diện Thiên Chúa, Bá chủ Giáo hội và Thế giới»
có quyền truất phế vua chúa và mọi sự trên Trời dưới đất, trong hỏa ngục
đều thuộc quyền đấng thay mặt Chúa Ki Tô.
Ngài tuyên
bố: «Cũng
như mặt trăng nhờ ánh sáng mặt trời... quyền Chúa cũng vay mượn nơi
quyền Giáo Hoàng sự huy hoàng của tước vị nó.»
«Các
vua chúa chỉ có quyền dưới đất, còn các linh mục có quyền cả dưới đất
lẫn trên trời. Quyền vua chỉ chi phối thể xác, quyền các linh mục chi
phối cả thể xác lẫn tâm hồn.»
Giáo Hoàng
Boniface VIII (1294-1303) trong sắc lệnh
«Unam
Sanctam»
viết: «Ta
tuyên bố, phán quyết, xác định và tuyên cáo: sự thần phục Giáo Hoàng La
Mã là điều hoàn toàn thiết yếu cho sự cứu rỗi của
mọi người.»
Các nhà
thần học như Henri de Suse cũng chủ trương:
«Giáo
dân chỉ có một đầu là Giáo Hoàng.»
Giáo Hoàng
Calixte III (l455-l458) truyền ghi trên đồng tiền kỷ niệm triều đại:
«Omnes
reges servient ei»
(mọi vua chúa tuân phục ngài).
Giáo Hoàng
Jules III (1550-1555) truyền ghi trên đồng tiền kỷ niệm triều đại:
«Gens
et regnum quod non servierit tibi peribit»
(Dân tộc, quốc gia nào không tuân phục ngài, sẽ tiêu ma).
Và trên
thực tế, ta đã thấy Hoàng đế Henri IV, bị Giáo Hoàng Grégoire VII truất phế, đã lặn lội tới Canossa, chịu nhục nhằn, đóì rét, đứng chầu
chực ba ngày trước lâu đài để
xin Giáo Hoàng thứ tội.»
Thời Giáo
Hoàng Innocent III (1198-l216) vua Jean sans Terre nước Anh cũng bị vạ
tuyệt thông (1209).
Hoàng đế
Frédéric II (1194-1250) bị truất phế, v.v...
Giáo Hoàng
Innocent III đã chủ trương lập
nền thiên trị do đức Giáo Hoàng đứng đầu
và làm bá chủ hoàn cầu…
Thực ra,
Giáo Hoàng được coi y như là Thiên Chúa,
«vì
thế ngài đội mũ miện ba tầng khác nào như vua trên
trời,
dưới đất, và hỏa ngục».
Thế là:
Quan niệm
Thiên tử thay Trời
trị dân ở Trung Hoa thời cổ lại sống lại
phía trời Âu dưới hình thức thần quyền và
đạo giáo.
KẾT LUẬN
Trong công
cuộc khảo sát quan niệm Thiên tử Trung Hoa,
chúng ta
đã tìm tòi học hỏi về vấn đề một cách hết
sức sâu rộng, chúng ta đã vượt khỏi biên cương Trung Quốc, chúng ta đã
rẽ sóng thời gian đảo mắt nhìn ngót năm nghìn năm lịch sử nhân quần. Đối
với một vấn đề quan trọng như vậy, công trình của chúng ta thiết tưởng
không có viễn vông, vô lý. Bởi vì có nhìn xa trông rộng, chúng ta mới
hiểu rõ vấn đề, chúng ta
mới lĩnh hội thấu đảo được rằng xưa nay
Trời chẳng xa người vì từ ngàn xưa nơi trần ai tục lụy đầy gian nan mâu
thuẫn này, đã có những vị thánh hiền cố công đem thanh bình an lạc từ
thiên quốc xuống cho nhân loại.
Chúng ta
ghi nhận những sự kiện và biến chuyển lịch sử sau đây:
1/ Từ ngàn
xưa, đã có những vị Thánh vương lĩnh mệnh trời trị dân.
Trong khi ở
các dân nước khác, các vua chúa tự xưng là Trời, là Người Trời, là Thần
minh, ở Trung Hoa sau trước các vị đế vương chỉ xưng mình là Con Trời,
lĩnh mệnh Trời trị dân.
2/ Quan
niệm Thiên tử ngày một bị trần tục hóa và có thể nói được từ thời
Xuân Thu
Chiến Quốc về sau không còn một vị vua
chúa nào ở Trung Hoa quan niệm
được một cách chính xác thiên chức
cao cả và sứ mạng thiêng liêng của mình.
3/ Ở
Âu Châu, quan niệm Thiên tử, từ khi có Thiên Chúa giáo, đã được thu hẹp lại, và
đã được siêu thăng hóa, để áp dụng cho một mình Chúa Ki Tô.
4/ Tuy
nhiên quan niệm Thiên tử như là một
thánh nhân
hay một hiện thân của
Thượng Đế
vẫn còn được ít nhiều dân tộc không Công
giáo, chủ trương (ví dụ như
Ấn Độ).
5/ Đã từ
lâu dân chúng hết tin tưởng ở các vị vua chúa hay ít ra
chủ nghĩa quân quyền
mất hết vẻ quyến rũ đối với dân chúng, vì đã có nhiều vua chúa lạm dụng
quyền thế áp bức dân lành. Cho nên tước hiệu
thiên tử
đã rút lui khỏi trần gian để trở thành
một huy hiệu hoàn toàn đạo giáo.
Ngày nay,
nếu chúng ta
chịu suy nghĩ cho sâu xa về phương diện
đạo giáo
thì hai chữ
thiên tử
vẫn còn có thể nên
như
một chìa khóa nhiệm mầu mở cho chúng ta cánh cửa vĩnh cửu thiêng liêng
huyền bí.
Thiên tử
hiểu theo nghĩa đạo giáo
sẽ
trở nên
một
lý tưởng
cao đẹp lôi cuốn
chúng ta
tiến bước mãi
trên
con đường hoàn thiện
để
tiến tới tinh hoa, tiến tới cùng cực.
Thiên tử
sẽ là cùng điểm của nhân loại.
Hồng phạm
nói:
«Hội kỳ
hữu cực» «Qui kỳ hữu cực».
Phải
chăng định mệnh cao sang của
nhân loại
là đều cùng qui hướng về tâm điểm
hoàn thiện, đều hội tụ cả về cực điểm tinh hoa mà xưa vị
thiên tử
đã là một tượng trưng sống động.
Phải
chăng vũ trụ tương lai huy hoàng xán lạn cốt là để đón chờ những vị
thiên tử
mai sau.
CHÚ THÍCH
Ts’ai
Peen (Thái Biện 蔡
卞 says: «In the announcement to
the myriad regions, and in distinction from the multitudes, the
emperor calls himself «The one man». Realizing his relation to God,
and feeling as in his presence, he calls himself a little child (Dĩ
thiên tử cáo vạn phương cố xưng dư nhất nhân, đối Thượng Đế nhi ngôn
cố xưng «Di tiểu tử»).
以 天 子 告 萬 方 故 稱 予 一 人 對
上 帝 而 言 故 稱 台 小 子
(Thang Thệ tiết 2, chú thích của James
Legge) (James Legge, The Shoo King, trang 174)
Thời mại kỳ bang
時 邁 其 邦
Hạo Thiên kỳ tử chi
昊 天 其 子 之
Thực hữu tự hữu
Chu
實 右 序 有 周
Bạc ngôn chấn chi
薄 言 震 之
Mạc bất chấn điệp
莫 不 震 疊
Hoài nhu bách thần
懷 柔 百 神
Cập hà kiều nhạc
及 河 喬 嶽
Doãn vương duy hậu
允 王 維 后
Thánh
nhân tại thượng, ký kiến cực nhi dĩ thân giáo vu thiên hạ, phục phu
ngôn nhi dĩ ngôn giáo vu thiên hạ, cái thân giáo giả, thị dĩ cung
hành tiễn lý chi thực; ngôn giáo giả, sử kỳ ca tụng ngâm vịnh nhi
đắc, nhị giả bất khả thiên phế dã. Thiên hạ duy Lý vi chí thường,
duy Lý chi vi đại. Hoàng cực chi phu ngôn, thuần hồ nhất lý, cố vị
chi thường lý, cố vị chi đại huấn, thị lý dã, bản chi ư thiên, duy
Hoàng Thượng Đế giáng trung chi lý dã, ngôn nhi bất dị ư giáng trung
chi lý, thị khởi dĩ quân chi huấn thị chi tai, nãi thiên chi huấn
dã. Thiên giả kỳ bất ngôn chi thánh nhân, thánh nhân giả kỳ năng
ngôn chi thiên, nhất nhi nhị, nhị nhi nhất dã.
聖 人 在 上 既 建 極 而 以 身 教 于
天 下, 復 敷 言 而 以 言 教 于 天 下,蓋 身 教 者 示 以 躬 行 踐 履之 實;言教 者 使 其 歌 誦 吟 詠 而
得.二者 不 可 偏 廢 也.天下 惟 理 為 至 常,惟理 之 為 大,皇極 之 敷 言,純乎 一 理.故謂 之 常 理,故謂 之 大
訓,是理 也 本 之 於 天.惟皇 上 帝 降 衷 之 理 也,言而 不 異 於 降 衷 之 理,是豈 以 君 之 訓 視 之 哉,乃天
之 訓 也.天者 其 不 言 之 聖 人,聖人 者 其 能 言 之 天,一而 二,二而 一 也.
… Nghi Địch tác tửu. Vương ẩm nhi cam
chi viết: «Hậu thế tất hữu dĩ tửu vong kỳ quốc giả.» Toại sơ Nghi
Địch nhi tuyệt chỉ tửu.
儀
狄
作
酒
王
飲
而
甘
之
曰:
後
世
必
有
以
酒
亡
其
國
者
遂
疏
儀
狄
而
絕
旨
酒
(Wieger, Textes historiques, Tome I, page 30).
Ngũ
tuế tuần thú chu hành thiên hạ. Vương xuất, kiến tội nhân, há xa,
vấn nhi khấp chi. Tả hữu viết: Tội nhân bất thuận đạo, quân vương hà
vi thống chi? Vương viết: Nghiêu Thuấn chi nhân giai dĩ Nghiêu Thuấn
chi tâm vi tâm. Quả nhân vi quân bách tính các tự dĩ kỳ tâm vi tâm.
Thị dĩ thống chi. Vạn phương hữu tội tại dư nhất nhân … Vương tế
giang hoàng long phụ chu. Chu nhân khủng. Vương thần sắc bất biến,
viết: Ngô thụ mệnh ư thiên kiệt lực dĩ lao vạn dân. Sinh tính dã tử
mệnh dã. Long hà vi giả tu du long nghê thủ đê vĩ nhi thệ.
Tam
phân thiên hạ hữu kỳ nhị, dĩ phục sự Ân. Châu
chi đức, kỳ khả vị chí đức dã dĩ hĩ.
三
分
天
下
有
其
二,
以
服
事
殷,
周
之
德,
其
可
謂
至
德
也
已
矣
(Luận Ngữ – Thái Bá đệ bát, tiết 20.)
Léon
Wieger, Textes historiques, Tome I, page 25.
Ensuite, il divisa les terres arables
d’après le système tsing c’est-à-dire qu’il établit huit familles
sur un carré de terrain de un li de côté, divisé par deux sentiers
Nord-Sud et deux sentiers Est-Ouest, en 9 carrés de cent mou chacun;
le carré central contenant le puit était common. Les 8 familles d’un
tsing formait un linn, 24 familles un p’eng, 72 familles formaient
un li, 360 familles formaient un i, 3600 familles un tou’ et 36000
familles un Tcheou. II ne faut pas se figurer que cette division se
soit faite par arpentage d’un seul coup et d’après la forrnule.
Mais retenons que Hoang-Ti inaugura le
double système (1) cadastral d’après lequel le Gouvernement leva
depuis lors l’impôt foncier, (2) familial d’après lequel, il exigea
certaines prestations et corvées. (Ư thị hoạch dã phân châu đắc bá
lý chi quốc vạn khu. Mệnh tượng doanh quốc ấp, toại kinh thổ thiết
tỉnh, sử bát gia vi tỉnh, khai tứ đạo nhi phân bát trạch, tỉnh nhất
vi lân; lân tam vi lý, lý ngũ vi ấp, ấp thập vi sư, sư thập vi đô,
đô thập vi châu. Vị trước thổ địa nhi hữu thường cư, phi hành quốc
tùy súc mục thiên tỉ giả thử dã.)
Đế
viết: Tư nhữ Hi ký Hoà, kỳ tam bách hữu lục tuần hữu lục nhật, dĩ
nhuận nguyệt định tứ thời
帝
曰:
咨
汝
羲
既
和,
其
三
百
有
六
旬
有
六
日,
以
閏
月
定
四
時
(Kinh Thư – Nghiểu Điển, 8)
…
C’est à cela que fait allusion le Ye Kolao (Diệp Các Lão
葉 閣 老
grand ami du père Aleni, mais non
chrétien) lorsqu’il a prétendu que le Roi d’en haut, ou le T’ien
Chou s’éetait incarné en notre pays. Ce qu’il prouve ainsi: Le Roi
d’en haut s’est incarné plusieurs fois en cet Orient comme dans les
personnnes de Yao, de Choen, de Confucius, de plusieurs rois et même
de plusieurs parliculiers. Il a donc pu dans l’Occident s’incarner
de même dans la personne de Jésus... La conséquence qu’on doit tirer
de ces paroles est que Jésus Christ est dans l’Occident ce que
Confucius ou tout autre lettré de distinction est à la Chine. Ce
docteur Michel dit encore... que la doctrine de Confucius est
parfaite en tout et la même que celle de Dieu. –
The
notion of man-god, or of a human being endowed with divine or
supernatural powers, belongs essentially to the earlier period of
religious history in which gods and men are still viewed as beings
of much the same order, and before they are divided by the
impassable gulf which, to later thought, open out between them.
Strange therefore as may seem to us the idea of a god incarnate in
human form it has nothing very startling for early man, who sees in
a man-god or a god-man only a higher degree of the same supernatural
powers which he arrogates in perfect good faith to himself.
Hoec
dicit Dominus Christo meo Cyro, cujus apprehendi dexteram, ut
subjiciam ante faciem ejus gentes... Vulgate, Isaïe XLIV, 1.
Ainsi parle Yahvé à son oint, à Cyrus
qu’il a pris par la main droite pour abattre devant lui les nations.
Livre
de la Sagesse II, 13, 19.
-
Juges 3, 10
- I Samuel 10, 6
Mat:
3: 17; 4: 3, 6; 8: 29: 14: 33; 16: 16; 17: 5; 26: 63; 27: 54.
Marc: 1: 1; 1: 11; 5: 7; 14: 61, 62.
Luc: 1: 32, 35; 3: 22; 4: 41; 9: 35;
22: 70.
Jean: 1: 34; 1: 49; 3: 16, 18; 5: 25;
9: 35; 10: 36; 19: 7; 20: 31.
Chúa Jésus xưng mình là Con Thiên
Chúa:
Jean: 5: 25; 5: 18; Marc: 14: 61, 62.
Jean: 1: 1; 10: 33; 20: 28; Rom: 9: 5.
Col. 1: 16; 2: 9; I Tim. 1: 17.
Quotquot autem receperunt eum, dedit eis potestatem filios Dei
fieri... (Joan. Capt. I, II)
... on les appellera fils du Dieu
vivant (Romains 9, 26) (Bible de Jérusalem, 1504)
... Car vous êtes tous fils de Dieu
par la foi au Christ Jésus (Galates 3, 26) (Bible de Jérusalem, page
1540)
... Aussi n’es-tu plus esclave mais
fils, et donc héritier de par Dieu (Galates 4, 7) (Bible de
Jérusalem, page 1540)
... En effet, tous ceux qu’anime
l’Esprit de Dieu sont fils de Dieu (Romains 8, 14).
In
the second century, Montanus the Phrygian claimed to be the
incarnate Trinity uniting in his single person God the Father, God
the Son and God the Holy Ghost...
Nor is this an isolated case, the
exorbitant pretension of a single ill-balanced mind. From the
earliest times down to the present day many sects have believed that
Christ, nay God himself, is incarnate in every fully initiated
Christian, and they have carried this belief to its logical
conclusion by adoring each other. Tertullian records that this was
done by his fellow-Christians at Carthage in the second century.
And
in the eighth century, Elipandus of Toledo spoke of Christ as «a God
among Gods», meaning that all believers were Gods just as truly as
Jesus himself.
Le
monde Celte était considéré comme un petit univers, dont le
roi-prêtre devait être le démiurge écoutant en lui-même pour
l’orchestrer dans la société humaine l’harmonie céleste chère à
Platon.
Cf.
Initiation biblique (A. Robert et A Tricot page 855) Les religions
de l’Asie antérieure. La religion akkadienne:
Deification of the king held an acknowledged place in the cultus of
the nations surrounding Israel; but the covenant between Jehovah and
the head of the Davidic house was a standing protest against
assimilation to the commun pattern. For Greeks, deification followed
easily from both the anthropomorphism of the myths which emptied the
concept of godhead of much numinous content and the
philosophico-religious belief in immortality and the divine
affinities of the soul.
Heroes and benefactors received quasi
divine honors and at least from fifth century B.C., divine honors
were paid to living men. Alexander received worship in the Oriental
lands he conquered.
With
his successors and kings and kinglets thereafter it become a common
place. This might be oriental flattery, like that dearly bought by
Herod Agrippa (Acts 12: 20ff), but it might be intensely serious; as
when Antiochus IV Epiphanus, opponent of devout Jews and their God,
identified himself with Zeus and called «himself» God on coins; and
it might have deep associations as in Egypt, where sacred kingship
was traditional and the Ptolemais family living and dead were
worshipped officially.
Julius received worship in his conquests. Augustus promoted the
worship of «Divas Julius», but moderated the worship proffered to
himself. He and most of his successors were officially deified at
death (hence Vespasian’s deathbed joke, «I think L’m becoming a
god»). Unbalanced Emperors – Caligula, Nero, Donnitian – insisted on
divine honors during life.
Hellenistic mysticism as expressed most fully in the mystery
religion but observably even in the Jewish Philo, tended to seek
identification of the soul with the divinity to which it was kin.
This passed into some forms of Christian mysticism; the Christian’s
adoptive status was neglected; «partakers of the divine nature» (II
Pet, 1:4) came to express an essential, rather than a moral
transformation.
Cf.
La vocation de l’Occident, page 156.
Il
(Léon III) adressa aussitôt au roi des Francs copie de l’acte de son
élection et y joignit les clefs du tombeau de Saint Pierre ainsi que
l’étendard de la ville de Rome. C’était une manière d’hommage.
«De
même que la lune reçoit la lumière du soleil de même le pouvoir
royal emprunte à l’autorité pontificale, la splendeur de sa
dignité»… «Aux princes a été donné le pouvoir sur la terre, aux
prêtres a été attribué le pouvoir sur la terre et dans le ciel. La
puissance des rois atteint seulement les corps, celle des prêtres
atteint les corps et les âmes.» (Miroir de l’Histoire No 157, page
54.)
Boniface VIII, (1293-1303), in his famous bull, «Unam Sanctam» said:
we declare, affirm, define and pronounce that it is altogether
necessary for salvation that every human creature be subject to the
Roman Pontiff.» (Halley’s Bible Handbook, page 678)
Arrivé le 25 Janvier (1077) au terme de son pénible pèlerinage, «le
souverain déchu» se tint trois jours devant la porte, sans aucun
insigne royal, ne cessant d’implorer la miséricorde apostolique»
Grégoire VII ne voulut être «vaincu» que par la persévérance du
repentir», au soir du 28 Janvier, comme le pénitent l’implorait de
nouveau d’une voix que le froid et le jeûne prolongé rendaient à
peine perceptible, il consentit enfin à le laisser au château et peu
après, il l’admet au repas du soir.
Miroir de l’Historire No 157.
Vạ
tuyệt thông là một hình phạt tinh thần rất nặng. Đọc lễ nghi lời
nguyền sau đây sẽ rõ:
La cérémonie de l’excommunication.
Dans l’église tendue de noir, au son
des cloches, l’évêque entouré de son clergé, torches en mains,
lisait devant le peuple assemblé la sentence d’excommunication. Puis
il prononçait la formule d’anathème (ce mot a à-peu-près le même
sens que: excommunication), dont voici quelques passages: «Qu’ils
soient maudits toujours et partout: qu’ils soient maudits la nuit et
le jour et à toute heure, qu’ils soient maudits quand ils dorment et
quand ils mangent et quand ils boivent: qu’ils soient maudits quand
ils se taisent et quand ils parlent, qu’ils soient maudits depuis le
sommet de la tête jusqu’à la plante des pides. Que leurs yeux
deviennent aveugles, que leurs oreilles deviennent sourdes, que leur
bouche devient muette, que leur langue s’attache à leur palais, que
leur mains ne touchent plus, que leurs pieds ne marchent plus. Que
tous les membres de leur corps soient maudits; qu’ils soient maudits
quand ils se tiennent debout; quand ils sont couchés et quand ils
sont assis, qu’ils soient enterrés avec les chiens et les ânes; que
les loups rapaces dévorent leurs cadavres... Et de même que
s’éteignent aujourd’hui ces torches par nos mains, que la lumière de
leur vie soit éteinte pour l’éternité, à moins qu’ils ne se
repentent.» L’évêque et les prêtres, qui portaient des torches
allumées, les renversaient alors contre terre et les éteignaient
sous leurs pieds.
(D’après le Dictionnaire d’Archéologie
et de Liturgie, Letouzey édit.)
«...
Non simplex homo, sed quasi Deus» – not simply man but as it were
God...»
«... Tantoe enim est dignitatis et
potestatis, ut faciat unum et idem tribunal cum Christo... et quasi
Deus in terra». – «of so great dignity and power that he may
constitute one and the same tribunal with Christ.., and as if God on
earth...»
...
Hinc Papa triplici coronatur tamquan Rex Coeli et Terroe et
Infernorum.
– Ibid. page 70.
– Annot 1, ad decis – Biblioth. Canon
Ferraris Tome VII
... In his investiture with the papal
tiara, the Pope is thus addressed: Receive this triple crown, and
know that thou art the Father of Princes and the King and Ruler of
the world...
The
coronation oath enjoined by Popes and agreed to by the Western
Emperors was that they would «be faithful and submissive to the Pope
and Roman Church». In token of their subjection they prostrated
themselves before the Pope, and kissed his feet. They held their
kingdoms from him...
(Key to the Apocalypse, page 86)
Mục
lục | Lời nói đầu |
chương
1
2
3
4 |
Tổng luận | Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
 
|