KHỔNG HỌC TINH HOA
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Lời nói đầu |
chương
1
2
3
4 |
Tổng luận | Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
 
Chương 4
Nền thiên trị Trung Hoa
thời cổ
Thiên:
Dẫn đầu
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Thiên dẫn đầu: Đại
cương Hồng Phạm Cửu Trù
Thiên 1: Đấng quân
vương phải am tường vật lý
Thiên 2: Đấng quân
vương phải biết phương pháp tu thân
Thiên 3: Đấng quân
vương phải biết phương pháp trị dân
Thiên 4: Đấng quân
vương phải am tường ý nghĩa của tháng năm, hiểu thiên văn, lịch số
Thiên 5: Đấng quân
vương sẽ ở ngôi Hoàng Cực, thay Trời trị dân
Thiên 6: Thuật cai
trị: chính trực nhưng phải biết cương nhu, quyền biến
Thiên 7: Đấng quân
vương phải biết suy nghĩ bàn bạc, hỏi han khi gặp những trường hợp nan
giải
Thiên 8: Đấng quân
vương phải nhân các điềm trời mà soát xét lại đường lối cai trị
Thiên 9: Đấng quân
vương phải nhìn vào tình cảnh dân, để nhận định giá trị của nền cai trị
Tổng luận
THIÊN 4
ĐẤNG QUÂN VƯƠNG PHẢI AM
TƯỜNG Ý NGHĨA
CỦA THÁNG NĂM, HIỂU THIÊN VĂN, LỊCH SỐ
Đấng quân
vương phải hiểu rõ liên lạc giữa sự chuyển vân của tinh cầu trên trời,
với công việc làm ăn của dân gian và sự biến chuyển của khí hậu, thời
tiết. Như vậy mới hướng dẫn được quốc dân trong việc nông tang, và mới
mong được phong đăng, hòa cốc.
Hồng Phạm
viết:
BỐN là năm
kỷ.
Một là
năm.
Hai là
tháng,
Ba là
ngày,
Bốn là các
sao, các độ,
Năm là
phép làm ra lịch.
Khoa thiên
văn, lịch số không biết khởi thủy tự bao giờ, chỉ biết Hoàng Đế (2402)
đã cho lập Linh Đài quan sát tinh tượng và lập can chi để tính năm.
Chuyên Húc
(2302-2246) lấy tháng Dần làm tháng Giêng.
Vua Nghiêu
rất am hiểu thiên văn, đã biết căn cứ vào các vị trí của mặt trờiở các
cung sao mà đoán định nhị phân (Xuân phân, Thu phân) và nhị chí (Dông
chí, Hạ chí),
định năm
là 366 ngày, sai hai họ Hi, Hòa chuyên khảo về thiên tượng.
Vua Thuấn
đã cho làm lại tuyền ki một bầu trời giả tạo với các vòng hoàng đạo,
xích đạo và các vì tinh tú nạm vào bằng châu ngọc.
Trung Dung
(chương 30) khen phép trị dân của Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ như sau:
«Đức Khổng tiếp nối đạo Thuấn Nghiêu,
Làm sáng tỏ lối đường Văn Võ.
Trên thuận thiên trời, dưới theo thủy
thổ,
Như đất trời bát ngát bao la.
Che chở muôn loài khắp gần xa,
Như tứ thời luân lưu chuyển động.
Như nhật nguyệt hai vầng chiếu rạng.»
Lời Trung
Dung cho thấy bí quyết trị dân của các vị thánh vương xưa là luôn luôn
uyển chuyển, xử sự hợp tình, hợp lý, hợp cảnh, hợp thời,
rất chú
trọng đến triền năm, ngày, tháng, tinh tượng và lịch số.
Cổ nhân
xưa luôn luôn nuôi hoài bão sống hợp ý Trời nên lập lịch số cốt sao cho
nhân sự hợp thiên thời.
Muốn lập
lịch số trước hết phải biết sự chuyển vận của guồng máy Âm Dương và các
tinh cầu, sau sẽ quan sát tinh tượng để suy diễn ra các định luật.
Như vậy
đời xưa quan sát tinh tượng rồi mới lập luật pháp rồi cố cắt nghĩa bằng
tinh tượng. Người xưa lập pháp độ là để thuận theo Trời, người sau ép
Trời theo pháp độ của họ.
Cho nên
muốn hiểu bí quyết trị dân của người xưa, chúng ta hãy theo dõi tấn
tuồng âm dương đắp đổi qua bốn bộ mặt:
hỉ, lạc,
nộ, ai của trời đất và của lòng người và qua bốn mùa đời: xuân sinh, hạ
trưởng, thu liễm, đông tàng.
Chúng ta
hãy bắt đầu từ ngày Đông Chí.
Nhìn phiến
diện bên ngoài thì Đông Chí là ngày thê lương ảm đạm; ngày mà bức màn
tóc tang chết chóc của mùa Đông giăng mắc khắp nơi. Nhưng tra cứu đến
căn nguyên, thì ngày Đông Chí là ngày «âm dương hợp tinh», «nhật nguyệt
hợp bích»,
cho nên
ngày Đông Chí lại là ngày «nhất dương lai phục», là ngày của nguồn sống
bắt đầu âm thầm tung tỏa từ lòng sâu vật chất và vạn vật.
Thời gian
ấyứng vào giờ, gọi là Tí hàm ngụ ý nghĩa xuất sinh,
ứng vào
quẻ, gọi là «Phục» để đánh dấu sự trở lại của sinh khí, cũng như của
vừng dương.
Nhưng thực
ra Đông Chí chỉ là khởi điểm của đường Trời; tháng giêng mới chính là
khởi điểm cho các động tác của nhân loại.
Sinh khí
của đất trời vươn mình lên từ thời Đông Chí, ngấm ngầm hoạt động, tới
ngày xuân mới thấy phát hiện công trình. Ngày xuân mới công khai mang
lại cho con người sự đầm ấm, thức tỉnh muôn loài, làm cho lòng đất thêm
ấm áp, để cho muôn mầm sống có thể sinh sôi nảy nở. Xuân là rung động,
là sinh nở, là sống động,
người xưa
đã khoác cho xuân một bộ mặt hớn hở, vui tươi.
Ngày Xuân
Phân, dương quang hoàn toàn thắng âm khí.
Xuân Phân
tức là thời giải thoát nên tháng hai còn gọi là tháng Mão, vì Mão có
nghĩa là «cửa Trời», một «cửa Trời» đã rộng mở để muôn loài lũ lượt kéo
nhau ra, vui hưởng kiếp phù sinh.
Xuân ra
rồi Hạ lại, sức sống vạn vật ngày nay không còn êm đềm mơn mởn như những
ngọn cỏ xanh mà rạt rào bừng cháy lên, như những ngọn lửa đỏ.
Để đánh
dấu những ngày vui tươi, vạn vật cài muôn hoa thắm lên trên áo lá xanh
um.
Sức nóng
của mùa hè làm tiêu tan những tuyết băng từ trên những đầu non thẳm làm
cho các nguồn suối thêm rạt rào các mạch nước ngầm dưới lòng đất thêm
phong phú.
Mới hay:
Thanh minh, hàn thực qua rồi,
Thanh tuyền, du hỏa đồng
thời canh tân.
[23]
Tới ngày
Hạ Chí, dương cực thịnh. Nhưng âm khí đã bắt đầu vẩn lên trong lòng ánh
sáng, và nọc độc của sự suy vong tàn tạ đã bắt đầu tiêm nhiễm vào trong
tinh tủy của muôn loài.
Âm sinh
tức là mầm mộng chống đối với dương quang bắt đầu hoạt động. Vì thế
tháng «Trọng Hạ» còn gọi là tháng Ngọ vì Ngọ có nghĩa là «ngỗ nghịch»
chống
đối, để đưa trần hoàn vào con đường phong trần luân lạc mới.
Chiều trời
dần ngả về thu. Một vẻ u buồn phảng phất bàng bạc trên khắp trời mây hoa
lá. Người xưa viết chữ
愁
«sầu» bằng hai chữ
秋
«thu» và
心
«tâm», tức là buồn như tấc lòng gặp tiết thu sang.
Mùa thu là
thời kết quả, gặt hái. Tạo vật như đã hoàn tất công trình, nên để cho
cây cối ra chiều ngất ngây bả lả. Vừng dương bớt nóng, và mấy trận thu
phong nổi dậy thê lương, làm đó đây xào xạc lá vàng rơi lả tả. Ngoài
đồng, mùa gặt đã xong, chỉ còn trơ những cọng rạ tiêu điều. Mùa thu gợi
nên sự thịnh nộ của đất trời, và ở gian trần lưỡi liềm sắc bén đã vung
lên để giết lát, để cắt chặt hết cả những bông lúa vàng tươi mơn mởn.
Trung thu
là tiết Thu Phân; chị Hằng ngự trị trên nền trời với tất cả những gì thơ
mộng. Trong tháng 8 này, vạn vật như sửa soạn trở vào trong lòng đất
nghỉ ngơi. Nên tháng 8 là tháng Dậu, mà Dậu tức là cánh cửa trần gian sẽ
sắp khép lại.
Cho nên
mùa thu là mùa thê lương, là mùa của sương rơi lá rụng. Mùa thu là mùa
gặt hái các thành quả vật chất đem về thu cất vào kho lẫm để dành, trước
khi mùa đông lạnh lẽo trở về…
Mùa đông
lạnh lẽo sửa soạn trở về với gió sương…
Từ Thu
Phân, mặt trời như đi chậm lại dần. Sức nóng của dương quang càng ngày
càng yếu ớt. Vạn vật dĩ nhiên là bị ảnh hưởng trực tiếp: Cây cối bị rụng
dần hết lá; các cây nhỏ yếu dần dần còi cọc, vì tuyết sương băng giá.
Các sinh vật thi nhau đi lẩn tránh giá rét: người về nhà, vật về hang,
chim chóc đua nhau vỗ cánh xuôi Nam, tới những chân trời còn ấm áp hơn.
Cho nên mùa Đông là mùa ẩn áo bế tàng. Đường xá nhiều nơi trở nên hoang
vắng u buồn, chỉ thấy có gió gào tuyết phủ.
Mùa Đông
là mùa tang tóc của muôn phương.
Tóm lại:
«Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàng.»
Xuân như
con rồng xanh (Thanh long
青
龍
) vẫy vùng biến hóa; Hạ như chim phượng đỏ (Chu Tước
朱
雀
) tung bay; Thu như con hổ trắng (Bạch Hổ
白
虎
) rảo tìm mồi; Đông như rùa đen (Huyền Vũ
玄
武
) lạnh lùng chậm chạp.
Cơ trời
biến ảo, nhưng chung qui là như thế. Con người phải biết thuận cơ trời,
thi hành các công tác, thuận theo tiết trời.
Mùa xuân
vạn vật từ lòng đất muốn nhô lên, thì con người sẽ lấy lưỡi cày, như
gươm thiên mà phá vỡ đất giúp cho muôn loài vươn lên.
Mùa hè,
khi lúa má đã nhờ ánh dương quang mọc lên, thời con người sẽ phải săn
sóc đồng ruộng, nhổ cỏ, tưới, bón để giúp trời đất làm cho cây cối thêm
phần tươi tốt.
Mùa thu,
khi vạn vật tang thương, lá rơi quả rụng, thì con người phải lo gặt hái,
đem mùa màng về.
Mùa đông,
khi đất trời đã hoàn thành công việc muốn nghỉ ngơi, thì con người cũng
bắt chước mà về ngơi nghỉ.
Đất trời
như đóng cửa lại, thì vua chúa cũng ra lệnh đóng các kho lẫm, đóng quan
ải, thành thị, làng mạc, sửa sang lại bờ cõi, đề phòng giặc ngoại xâm.
Thế gọi là
«pháp tượng», bắt chước vẻ trời, chiều trời.
Muốn «pháp
tượng», muốn bắt chước trời, còn phải hiểu rõ cơ trời, hiểu rõ sự vận
chuyển của đất trời, biết sự thăng trầm của các vì tinh tú. Vì thế mà
khoa Thiên Văn xuất sinh:
Mỗi vì sao
đều được đặt tên tuổi, được phân cư thành chòm xóm, các sự thay đổi hình
dạng của các vì sao, các giờ giấc mọc lặn, các vị trí thẳng ngay hay
thiên lệch của chúng đều được ghi chú.
Và bầu
trời được chia thành kinh, vĩ, các vòng hoàng đạo, xích đạo được ấn
định; đường lối trời mây dần dà trở nên quen thuộc đối với người và các
sao bắt đầu đối thoại, bắt đầu tâm sự được với người nơi trần thế.
Cổ nhân
chia các sao quanh vòng hoàng đạo làm 28 chòm sao, gọi là 28 cung sao,
để làm quán xá trời mây
cho hai
vầng nhật nguyệt và năm vì sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Thế rồi
ngày ngày lại theo rõi bộ mặt biến thiên của vầng trăng, và tùy như
trăng tròn, khuyết, tối, sáng, sẽ định các ngày trong tháng; mặt trăng
trở thành tấm lịch lớn treo trên trời cho người Đông Á trông trăng biết
ngày.
Theo rõi
gót lãng du của mặt trăng, mặt trời,
và
năm vì sao
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ sẽ định được
tháng được mùa.
Ví dụ mùa
đông mặt trời mặt trăng sẽ lần lượt ở những cung trong quần tinh Huyền
Vũ: gồm các cung sao Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. Mùa hạ sẽ ở
trong quần tinh Chu Tước: gồm các cung sao Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương
Dực, Chẩn, v.v…
Còn năm
tháng
đầu lịch số, sẽ là năm kỷ niệm khi hai vầng nhật nguyệt và năm vị chính
tinh đoàn tụ tại một cung khoảng chòm sao Ngưu Đẩu, đó là
năm
Giáp Tí
nguyên niên.
Thế là
cuộc đời
luân lạc của hai vầng nhật nguyệt,
trên đường mây muôn vạn dặm được liên
kết với 28 quán xá trời.
Người xưa
thay vì nói ngày ấy tháng ấy có nhật thực hay nguyệt thực, sẽ nói rõ
thêm nhật thực hay nguyệt thực xảy ra ở chòm sao nào.
Ví dụ sử
chép:
Năm thứ
năm, đời vua Trọng Khang (1948 trước CN) mùa thu, tháng 9, mồng một, có
nhật thực ở chòm sao Phòng.
Ngày xưa
lại còn muốn lồng thời gian vào nhạc điệu cho mỗi mùa ứng với một cung
đàn,
mỗi tháng
trở thành một dấu nhạc.
Khúc nhạc
thời gian như bắt đầu bằng những hồi trống rung vang, như sấm động dưới
lòng đất sâu, rồi dần dà trở nên vui tươi sống động trong tiếng sáo,
tiếng quản; đằm thắm mạnh mẽ trong tiếng ngữ dồn dập, tiếng đàn sắt tưng
bừng rộn rã; uy nghi hùng tráng trong tiếng huân nhặt khoan, tiếng
chuông vang lừng uy dũng, để kết thúc bằng những tiếng khánh tiêu sơ,
như muốn hòa hài cùng tiết đông băng giá.
Hiểu được
nhạc Trời mới mong hướng dẫn được nhân quần một cách êm đềm, khéo léo.
Các công
tác của vị thánh vương sẽ tương ứng với sự biến thiên của nhị khí âm
dương trong hoàn võ, sẽ đúng nhịp điệu với sự xuất hiện của các vì sao
trên trời, và sẽ đáp ứng được nhu cầu tinh thần và vật chất của nhân
thế.
Các ngài
đã ghi tuần tự diễn tiến của những động tác chính yếu của mình cũng như
của dân vào «nhị thập bát tú» và các phụ tinh, để hễ trông thấy sao là
nhớ đến công việc phải làm.
Cho nên
ngày nay chúng ta chỉ việc giở quyển thiên văn cổ Trung Hoa, xem xét lại
ý nghĩa từng vì sao, xem xét lại thời gian nó xuất hiện là biết ngay lúc
ấy dưới trần gian phải làm công việc gì.
Trong bộ
Tinh Thần Khảo Nguyên (Uranographie chinoise), nhà học giả Hòa Lan
Gustave Schlegel đã làm công việc vĩ đại ấy. Ông giải thích ý nghĩa của
nhị thập bát tú cùng các phụ tinh để chứng minh sự xuất hiện của nó ăn
khớp với các tác động của các vị thánh vương xưa nay trần thế. Có đi sâu
vào vấn đề này, ta mới hiểu được ý nghĩa chương trình hoạt động của các
vị đế vương trong 12 tháng như đã ghi trong Nguyệt Lệnh, Lễ Ký.
Cái đẹp
cái hay trong công việc lồng thiên văn lịch số vào công cuộc trị dân,
chính là ở chỗ muốn cho các công việc con người được hòa nhịp với tiết
tấu của trăng sao, với vũ khúc của hoàn võ, để cho con người cũng như
các vì sao trên trời vận chuyển tác động theo nhịp điệu chung trời đất,
cho thời gian vũ trụ ăn khớp với thời gian hoạt động của con người.
Kinh Thư
thiên Nghiêu Điển đã cho ta thấy sự chuyển động của các vì tinh tú có
liên quan mật thiết đến tác động và biến động nơi người và vật ở trần
gian vì vậy nhà vua phải lo sao cho vạn vật gian trần bước theo đúng
nhịp điệu hoàn vũ bằng cách minh định lịch số. Để chứng minh ta có thể
sắp xếp những nhận xét của vua Nghiêu thành những vần thơ như sau:
Xuân Phân Tinh Điểu đỉnh đầu
Dân con nay đã rủ nhau ra ngoài
Chim muông đẻ trứng tìm đôi
Ngày xuân ta chớ buông lơi
việc làm.
[44]
oOo
Tới ngày Hạ Chí chói chang
Đêm về sao Hỏa hiên ngang đỉnh đầu
Chúng dân tản mạn dãi dầu
Chim muông thôi cũng
thay mầu đổi lông.
[45]
oOo
Thu Phân, trú dạ tương đồng
Sao Hư chập tối vời trông đỉnh đầu
Dân con mát mẻ bên nhau
Chim muông lông lá ra màu
tốt tươi.
[46]
oOo
Đông Chí ngày vắn đêm dài
Đêm về sao Mão chơi vơi đỉnh đầu
Dân con ít muốn
đi đâu
Chim muông lông lá trước
sau thêm dài.
[47]
Đọc thiên
Nguyệt Lệnh trong
Lễ Ký, thiên mân Phong trong Kinh Thi, đọc
các sách thiên văn Trung Quốc, ta lại càng thấy rõ người xưa, từ Thiên
tử đến dân gian đều có hoạt động theo đúng tiết tấu của đất trời.
oOo
CHÚ THÍCH
春
者,
天
地
開
闢
之
所,
養
生
之
首,
法
象
所
出.
(公
羊
傳
隱
元
年)
Xuân giả, thiên địa khai tịch chi sở,
dưỡng sinh chi thủ, pháp tượng sở xuất. (Công Dương Truyện, Ẩn
nguyên niên). Tinh thần khảo nguyên, Gustave Schlegel, page 82.
春
喜
氣
故
生
秋
怒
氣
故
殺
夏
樂
氣
故
養
冬
哀
氣
故
藏
(春
秋
繁
露)
通
曆
數
家
算
法,
推
考
其
紀,
從
上
古
天
元
以
來,
訖
十
一
月,
甲
子,
夜
半,
朔,
冬,
至
(桓
譚
新
論)
星
辰
考
原.
Thông lịch số gia toán pháp suy khảo
kỳ kỷ tòng thượng cổ thiên nguyên dĩ lai, cật thập nhất nguyệt giáp
tý dạ bán sóc đông chí. (Hoàn đàm tân luận). Tinh thần khảo nguyên.
十
一
月
陰
極
之
至
陽
氣
始
生
(致
富
奇
書
冬
至)
Thập nhất nguyệt, âm cực chi chí,
dương khí thuỷ sinh. (Trí phú kỳ thư; Đông Chí)
午
牾
也,
五
月
陰
氣
午
逆
陽,
昌
地
而
出
也.
(說
文)
Ngọ ngộ dã, ngũ nguyệt âm khí ngọ
nghịch dương, xương địa nhi xuất dã. (Thuyết Văn)
冬
哀
氣
故
藏
(春
秋
繁
露)
Đông ai khí, cố tàng. (Xuân Thu Phồn
Lộ) (Gustave Schlegel, page 215)
喪
者
人
之
終.
冬
者
歲
之
終.
(禮
月
令
朱
氏
註)
冬
終
也.
萬
物
所
以
終
成
也.
(釋
名)
Or
qu’avait fait l’homme pendant l’époque qui précédait la résurrection
du soleil ? Il avait imité la Nature comme le fait toujours un
peuple, aussi longtemps qu’il n’est pas forcé, par des lois humaines
et sociales, à agir contre l’ordre de cette nature, qui seule devait
le guider dans ses actions. Donc, puisque la neige couvrait la
Terre, que les bêtes restaient cachées dans leurs cavernes, l’homme
se cachait égalemenl dans des cavernes et se retirait dans ses
maisons de terre ou de troncs d’arbres, au lieu de demeurer dans ses
nids, construits de branches ou de bambou dans les arbres qui lui
servaient d’habitation pendant la belle saison. (Gustave Schlegel,
Uranographie chinoise, pages 243-241)
Ce ne
sont pus seulement les Chinois qui ont agi ainsi, tous les anciens
peuples ont fait de même. «Les Anciens, dit Maïmonides, portant
toute leur attention sur l’agriculture, donnèrent aux étoiles des
noms tirés de leurs occupations pendant l’année.»
Volney exprime exactement la pensée de
l’autenr chinois susdit quand il dit: «Les étoiles,
individuellement, on en groupe avaient reçu des noms tirés des
opérations de l’homme ou de la nature pendant la révolution solaire;
et le ciel astronomique était devenu comme un miroir de réflexion de
ce qui se passait sur la terre.»

Thiên:
Dẫn đầu
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Mục
lục | Lời nói đầu |
chương
1
2
3
4 |
Tổng luận | Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
 
|