KHỔNG HỌC TINH HOA
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục
lục | Lời nói đầu |
chương
1
2
3
4 |
Tổng luận | Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
 
Chương 4
Nền thiên trị Trung Hoa
thời cổ
Thiên:
Dẫn đầu
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Thiên dẫn đầu: Đại
cương Hồng Phạm Cửu Trù
Thiên 1: Đấng quân
vương phải am tường vật lý
Thiên 2: Đấng quân
vương phải biết phương pháp tu thân
Thiên 3: Đấng quân
vương phải biết phương pháp trị dân
Thiên 4: Đấng quân
vương phải am tường ý nghĩa của tháng năm, hiểu thiên văn, lịch số
Thiên 5: Đấng quân
vương sẽ ở ngôi Hoàng Cực, thay Trời trị dân
Thiên 6: Thuật cai
trị: chính trực nhưng phải biết cương nhu, quyền biến
Thiên 7: Đấng quân
vương phải biết suy nghĩ bàn bạc, hỏi han khi gặp những trường hợp nan
giải
Thiên 8: Đấng quân
vương phải nhân các điềm trời mà soát xét lại đường lối cai trị
Thiên 9: Đấng quân
vương phải nhìn vào tình cảnh dân, để nhận định giá trị của nền cai trị
Tổng luận
THIÊN
9
ĐẤNG QUÂN VƯƠNG PHẢI
NHÌN VÀO TÌNH CẢNH DÂN
ĐỂ NHẬN ĐỊNH GIÁ TRỊ CỦA NỀN CAI TRỊ
Sau hết
nhà vua muốn biết mình cai trị dở hay thế nào, cứ nhìn vào tình cảnh dân
chúng sẽ thấy.
Nếu cai
trị hay, dân sẽ sung sướng, hạnh phúc, sống lâu, giàu bền, yên ổn, ưa
chuộng nhân đức và được chết già!
Nếu cai
trị dở, dân sẽ khổ sở, lao lung, bệnh tật, tảo vong, yểu tử, nghèo khổ,
bất lương, tật bệnh, v.v…
Hồng Phạm
viết:
CHÍN là
năm phúc:
Một là
thọ,
Hai là
giàu,
Ba là yên
vui,
Bốn là ham
về đức,
Năm là
chết già yên ổn.
Sáu cực:
Một là
chết non,
Hai là
bệnh tật,
Ba là lo
buồn,
Bốn là
nghèo khổ,
Năm là tội
ác,
Sáu là yếu
ớt.
Thế tức là
nhìn xem đời sống, nhìn xem tình cảnh dân chúng có thể biết ngay một nền
hành chánh hay dở thế nào.
Kinh Thư
viết:
Người xưa
có lời rằng:
«Con người chẳng những soi bóng nước
Còn phải ngắm mình với gương dân.»
Tăng Cống
bình rằng: «Hạnh phúc hay khổ cực của dân là những yếu tố để nhà vua xem
xét mình đã thành công hay thất bại trong công cuộc trị dân. Trị dân là
mang hạnh phúc no ấm lại cho dân, và tránh cho dân mọi tai ương khổ ải.»
Một nền
hành chánh dở hay có ảnh hưởng rất nhiều đến tình cảnh của dân. Một vị
quốc quân luôn thương dân, dìu dắt dân, đỡ đần dân, tổ chức đời sống xã
hội cho dân được no ấm, không quấy nhiễu dân bằng sưu cao thuế nặng,
không đàn áp dân bằng những luật lệ vô tình, giúp đỡ những người quan
quả, ấu thơ, côi cút, tránh cho dân khỏi mắc vòng binh đao, đạn lửa, dạy
cho dân sùng thượng những thuần phong mỹ tục, giáo hóa cho dân biết hòa
mục lễ nghĩa, thời chắc chắn sẽ đi đến kết quả là toàn dân sẽ hạnh phúc.
Còn như
coi dân chúng như cỏ rác; hành hạ dân, di chuyển dân mà không để ý đến
tập quán, những nghề nghiệp của họ,
sử dụng
dân không đúng với khả năng của họ, không hợp với thời tiết, làm cho đời
sống họ bị xáo trộn, công việc bị gián đoạn, chồng vợ bị chia phôi, bắt
họ phải phục dịch nhà nước tối ngày, gôm cùm họ bằng những luật lệ,
những chỉ thị quái ác, xô đẩy họ vào vòng lửa đạn, để cho họ đêm mất
ngủ, ngày mất ăn, lao lung cùng khốn, để cho họ thân tàn ma dại. Những
tai họa, những lầm than ấy chẳng phải là tiền oan nghiệp chướng của dân,
mà chính là lỗi tại chính quyền thiếu sáng suốt, thiếu khôn ngoan, thiếu
tổ chức.
Ngày xưa
các vị thánh vương cai trị hoàn toàn vì dân vì nước, nên coi dân như
mình, thương xót dân chứ không quấy phá, thành thực giúp đỡ dân, thành
thực muốn cho dân hạnh phúc. Và dĩ nhiên các Ngài tin tưởng rằng hạnh
phúc của dân chúng là mục phiêu có thể đạt được nơi trần gian này.
Đọc Lễ Ký,
ta thấy rõ đường lối ngày xưa:
Thiên Lễ
Vận viết: «Cho nên thánh nhân, trong cuộc cai trị, bắt chước trời đất,
quỉ thần. Ngài xây nền tảng chính trị trên những nguyên lý, những định
tắc bất biến của trời đất, và do đó, lập ra lễ nghi, qui tắc để giữ gìn
trật tự. Ngài yêu thích những điều dân ưa thích, vì thế dân bình trị.»
Mỗi khi
đem dân cư đến lập nghiệp nơi nào, đều xem xét kỹ lưỡng địa thế, khí hậu
trước. Bắt dân làm việc thì bắt làm nhẹ nhàng vừa sức, mà cho ăn thì tử
tế no nê: «Làm việc của ông lão, ăn khẩu phần của người trai!»
Xưa, nhà
nông góp phần canh tác công điền, nhưng không phải nạp thuế. Nơi chợ
búa, cửa hàng phải thuê, nhưng hàng hóa không mất lệ phí. Ở quan ải,
khám thương lữ, mà không đánh thuế quan.
Mỗi năm,
có kỳ dân được tự do lên rừng, lên núi chặt cây, ra sông, ra hồ câu cá.
Các khuê
điền không mất thuế. Bắt dân làm xâu không quá ba ngày.
Đất thổ cư
mỗi gia đình không được bán.
Nhà cầm
quyền xưa nhận thấy rằng phong tục, đồ ăn thức dùng, áo xống có thể tùy
thổ ngơi, tùy khí hậu đổi thay, nên đến xứ nào cũng lo giáo hóa dân, lo
cai trị dân, nhưng không thay đổi tập tục, hay kiểu cách của dân.
Cũng vì
nghĩ đến hạnh phúc của dân, và muốn xoa dịu những nỗi niềm đau khổ của
dân, nên các vị thánh vương xưa đặc biệt lưu ý và trợ cấp cho những
người cô đơn, quan quả.
Hơn nữa
tất cả những người tật nguyền, câm điếc, què quặt hay bất thành nhân đều
được chính quyền thâu dụng giao cho công việc làm ăn tùy theo khả năng,
được chính quyền nuôi dưỡng.
Văn Vương
đã cai trị theo đúng những nguyên tắc ấy.
Tề Tuyên
Vương hỏi Mạnh Tử: «Nền chính trị của các vì Thiên tử, ngài có thể giải
cho ta nghe chăng?» Mạnh Tử đáp rằng : «Thuở xưa Văn Vương cai trị đất
Kỳ, ngài thi hành phép chính trị như sau:
«Ruộng đất
thì phân ra chín khu (một tỉnh), tám khu ngoài thì chia cho tám gia đình
dân chúng làm mà hưởng trọn huê lợi; còn khu thứ chín ở giữa thì tám gia
đình ấy phải chung sức mà làm cho nhà vua. Những vị quan chức ăn lộc
vua, khi qua đời, thì con cháu được truyền nối nhau mà hưởng lộc. Ở
những chợ búa, nơi miền quan ải, người ta khám xét kẻ bộ hành qua lại,
nhưng chẳng đánh thuế vào hàng hóa họ mang theo. Ở những ao hồ, ngòi
lạch, để cho dân tự do đánh cá mà kiếm ăn. Đối với kẻ phạm tội, chỉ phạt
một mình họ mà thôi, chẳng bắt lây tới vợ con họ.
«Lại nữa,
quan là những ông lão không vợ, quả là những
bà lão không chồng, độc là những ông lão hay bà lão chẳng
có ai phụng dưỡng, cô là những trẻ mồ côi cha. Đó là bốn
hạng người cùng khổ nhất trong thiên hạ, chẳng biết nhờ cậy vào ai. Văn
Vương khi mới bắt đầu hành chính và thi nhân, ngài lưu tâm cứu giúp bốn
hạng người ấy trước nhất.»
Xét như
vậy thì một nền hành chánh đúng mức, nhất định phải đem hạnh phúc sung
sướng lại cho nhân dân. Cho nên những kết quả cụ thể mà dân chúng thâu
lượm được sẽ trở nên những bản tuyên dương, hay ngược lại, trở thành
những bản cáo trạng đối với chính quyền.
Cho nên,
thăm dân tình sẽ biết chính sự.
Vua Nghiêu
đã áp dụng những nguyên tắc này để thưởng, phạt, thăng, giáng các chư
hầu, trong khi ngài đi tuần thú bốn phương.
Mạnh Tử
viết:
«Thiên
tử đến viếng các vua chư hầu gọi là tuần thú.
Mùa Xuân, Thiên tử và chư hầu đi xem xét ruộng nương của bá tánh, thấy
những ai thiếu thốn thì giúp lúa giống cho. Mùa Thu các ngài đi xem xét
việc gặt thâu: biết những ai hụt hạt, các ngài tư trợ cho. Khi Thiên tử
bước vào ranh giới một vua chư hầu, ngài nhận thấy đất đai mở mang,
ruộng vườn trồng trọt, người già cả được phụng dưỡng, bực hiền đức được
tôn trọng, và tranh anh tuấn có chức vị, thấy vậy ngài vui mừng mà ban
thưởng. Ban thưởng tức là phong đất thêm cho. Khi Thiên tử bước vào ranh
giới một vua chư hầu, ngài nhận thấy đất đai hoang phế, cỏ mọc um tùm,
người già cả bị bỏ rơi, bậc hiền đức không được trọng dụng, những kẻ bóc
lột và hà khắc với dân lại chiếm đoạt chức vị cao, thấy vậy, ắt Ngài quở
trách vị vua chư hầu…»
Thiên IX
Hồng Phạm này đem lại cho chúng ta một niềm tin tưởng lớn lao, và xác
định một lần nữa nhiệm vụ của nhà cầm quyền.
Con người
được hạnh phúc hay không là do con người được cai trị hay hay dở. Tai
họa và khổ cực không phải là gia tài của con người, mà chỉ là những bước
đường gian lao, những hoàn cảnh éo le gây nên do sự dốt nát, sự thiếu tổ
chức, thiếu đoàn kết, thiếu thương yêu mà thôi.
Và một nền
hành chánh lý tưởng, với sự đoàn kết nhất trí của các tầng lớp xã hội
nhất định sẽ khắc phục được mọi gian khổ, sẽ đem lại cho con người sự
hòa bình thái thịnh thực sự và bền vững.
oOo
CHÚ THÍCH

Thiên:
Dẫn đầu
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Mục
lục | Lời nói đầu |
chương
1
2
3
4 |
Tổng luận | Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
 
|