HỆ TỪ THƯỢNG

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê

» Dịch Kinh Đại Toàn » chương 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12 


 

 

CHƯƠNG  X

(Chương này gồm 7 Tiết)

Bốn công dụng của Kinh Dịch

 

 

Chương này tiếp tục tán dương sách Dịch, nhất là phép bói cỏ thi, làm cho ta đặt nghi vấn không biết chương này có phải là của Đức Khổng hay không?

James Legge cho rằng Tiết 1 và Tiết 7 chương này chứng minh một cách hùng hồn rằng chúng không phải do đức Khổng viết, mà do một kẻ hậu thuật sau này.

Tiết 1 có câu: Dịch hữu Thánh nhân chi đạo tứ yên 

Tiết 7 có câu: Tử viết:

Như vậy, Tiết 1 cho thấy tác giả không phải là Thánh nhân.  Tiết 7 cho thấy: tác giả đã thuật lại lời Đức Khổng.  Tiết 5 cũng nêu ra nghi vấn tương tự như vậy.  Sau mấy nhận định ấy, chúng ta hãy bình giải Chương này một cách khái quát.

 Tiết 1.

焉;以 辭,以 變,以

象,以卜 占。

 

Dịch hữu Thánh nhân chi đạo tứ yên.  Dĩ ngôn giả  thượng  kỳ  từ.  Dĩ  động  giả thượng kỳ biến.  Dĩ chế  khí giả thượng kỳ tượng.  Dĩ bốc phệ giả thượng kỳ chiếm.

 

Dịch.  Tiết 1. 

Dịch kinh có bốn lối đường,

Để cho Hiền Thánh muôn phương theo đòi.

Theo Từ ăn nói sẽ xuôi,

Hành vi theo đúng lẽ Trời Biến thiên.

Chế đồ, lấy Tượng ra xem.

Tri cơ, Dịch đã cho điềm Cát Hung.

Kinh Dịch có: Từ, Biến, Tượng, Chiếm.

Từ: là lời để minh hiển ý tứ, nghĩa lý.

Biến: cho thấy chiều hướng biến thiên.

Tượng: Cho thấy hình dung sự vật.

Chiếm: Đoán định hay dở của việc làm.

Cho nên:

*Khi ăn nói nên dựa theo Lời Lẽ của Dịch.  Như vậy lời nói sẽ đúng mực.

*Khi hành động, nên thuận theo lẽ biến thiên của Dịch.  Như vậy, hành vi sẽ thức thời.

*Khi chế vật dụng, nên bắt chước Tượng của Dịch.  Như vậy đồ vật chế ra sẽ thích nghi.  Ví dụ: Chế lưới theo hình quẻ Ly.  (quẻ Ly gợi ra hình mắt lưới).  Làm cày theo Tượng quẻ Ích vv ...

Về phép quan tượng, chế khí, chúng ta sẽ có dịp nói tới nơi chương II Hệ Từ hạ.

*Khi bói toán, nên dựa vào lời chiếm của Dịch; như vậy sẽ biết trước được sự hay, dở của công việc.   

Tiết 2.

也,將 也,問 言,

響,無 深,遂 物。

精,其 此。

 

Thị dĩ quân tử tương hữu vi dã.  Tương hữu hành dã.  Vấn yên nhi dĩ ngôn.  Kỳ thụ mệnh dã như hưởng.  Vô hữu viễn cận u thâm.  Toại tri lai vật.  Phi thiên hạ chi chí tinh.  Kỳ thục năng dữ ư thử.

 

Dịch.  Tiết 2. 

Hiền nhân trong mọi hành tung.

Theo lời Dịch dạy, ung dung chu toàn.

Mệnh trời âm hưởng vang vang,

Chẳng còn sâu nhiệm, chẳng còn gần xa.

Vị lai cũng sẽ đoán ra,

Thật là chí hảo, thật là chí tinh.

Không tinh, sao lại rõ rành,

Rõ rành sâu nhiệm, rõ rành vị lai.

Tiết này dạy người quân tử, trước khi làm việc gì, nên hỏi Kinh Dịch.  Muốn hỏi gì cần phải phát biểu  cho rõ ràng, rồi ra sẽ được trả lời, như là nghe thấy một tiếng vang đáp lại.  Đó là cách làm cho ý thức gặp được siêu thức.

Wilhelm nói: Hoạt động ý thức là khi đặt câu hỏi.  Hoạt động vô thức là khi bói cỏ thiĐược quẻ nào dở Kinh Dịch ra xem, sẽ được câu trả lời  (Wilhelm the I Ching p. 338).

Tiết 3.

參伍以變,錯綜其數,通其變,遂成天下之文。極其數,遂定天下之象。

非天下之至變,其孰能與於此。

 Tham ngũ dĩ biến.  Thác tống kỳ số.  Thông kỳ biến.  Toại thành thiên hạ chi văn.  Cực kỳ số.  Toại định thiên hạ chi tượng.  Phi thiên hạ chi chí biến.  Kỳ thục năng dữ ư thử.

 

Dịch.  Tiết 3. 

Ba, năm, biến hóa an bài,

Đảo lên, lộn xuống, vần xoay diệu huyền.

Đã thông suốt nhẽ biến thiên,

Mới hay, trời đất muôn miền văn hoa.

Muôn loài, như số, hiện ra,

Số vô cùng cực, loài la liệt bày.

Nếu không biến hóa tuyệt vời,

Làm sao rõi được muôn loài biến thiên.

Đây chỉ là toát lược lại phép bói cỏ thi đã trình bày nơi Chương IX.  Bình Am Hạng Thị giải:  Khi bói có số, có biến.  Ba lần chia thẻ, đó là 3 lần biến.  Rồi lại cài kẹp chia, để tượng trưng: Thái cực, Lưỡng nghi, Tam tài.  Tứ thời,  Tháng nhuận.  Đó là năm tiểu biến.  Thế là (Tam, Ngũ dĩ biến).  Nếu ta thu những thẻ dư trong 3 lần chia thẻ, ta sẽ được những con số:

Ba số nhỏ                      5 + 4 + 4 = 13

Ba số lớn                        9 +8 +  8 = 25

Một số nhỏ, hai số lớn  9 + 8 + 4 = 21

                                         5 + 8 + 8 = 21 

Hai số nhỏ, một số lớn  5 + 4 + 8 = 17

                                         9 + 4 + 4 = 17

 

Nếu bây giờ, ta thu đống thẻ chính mà đếm, ta sẽ được:

9 x 4   =   36

6 x 4   =   24

7 x 4   =   28

8 x 4   =   32

Thế gọi là Thác tống kỳ số.  Thác là chia ra, và để cách riêng ra.  Tống là hợp lại, và tổng cộng lại.  Hai câu trên, đều nói về phép lập một Hào.  Khi đã thông qua được sự biến của 6 Hào, tức là thông qua được 18 biến, ta sẽ lập được 6 Hào.  Và sẽ thấy các Hào Cương, Hào Nhu xen kẽ nhau, để tạo nên văn thái của muôn loài.

Khi đã đi được hết các số của 6 Hào, và đã được các số 7, 8, 9, 6 ta sẽ định được Hào nào tĩnh, Hào nào biến động, và có thể biết được hình dung của các quẻ Nội, Ngoại.   Hai câu sau như vậy, nói về cách lập quẻ. 

Tiết 4. 

也,無 也,寂 動,感 故。非

下之至 神,其 此。 

Dịch.  Vô tư dã.  Vô vi dã.  Tịch nhiên bất động.  Cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố.  Phi thiên hạ chi chí thần.  Kỳ thục năng dữ ư thử.

 

Dịch.   Tiết 4. 

Dịch y như thể im lìm,

Không suy, không nghĩ, tịch nhiên lặng tờ.    

Nhưng phàm thiên địa duyên do,

Tức thời cảm ứng, thấu cho tận tường.

Nếu không thần diệu vô lường.

Làm sao biết được muôn phương sự tình.

Tuy Dịch không nghĩ, không làm và im lìm, bất động nhưng  nếu  hỏi đến,  liền biết ngay việc thiên hạ.   Như  vậy, chẳng phải chí thần thì là gì?.

Tiết 5. 

夫 易聖 人 之 所 以 極 深 而 研 幾 也 . 深 也 .

故 能 通 天 下 之 志唯 幾 也 . 故 能 成 天 下 之 務 .  

唯 神 也 .   故 不 疾 而 速 . 不 行 而 至 .   

Duy thâm dã.  Cố năng thông thiên hạ chi chí.  Duy cơ dã.  Cố năng thành thiên hạ chi vụ.  Duy thần dã.  Cố bất tật nhi tốc.  Bất hành nhi chí.

 

 Dịch.  Tiết 6. 

Có sâu mới hiểu hướng đời,

Rành cơ tạo hóa, việc người mới nên.

Thật là thần diệu vô biên,

Nhanh mà chẳng vội, tới liền chẳng đi.

Dịch thâm sâu, nên có thể giải tỏa được sự bế tắc cho ý chí con người.  Dịch đạt tới vi tế, nên có thể giúp người hoàn thành công việc.  Dịch thần diệu nên không vội, mà nhanh, không đi mà tới.  Tiết này khen Dịch sâu sắc, tế vi và thần diệu. 

Tiết 7.

子曰﹕「易 聖人 焉」者,此 也。 

Tử viết:  Dịch hữu Thánh nhân chi đạo tứ yên giả.  Thử chi vị dã.

 Dịch.  Tiết 7. Tử viết: 

Dạy rằng: Hiền Thánh tu trì.

Bốn đường lối ấy, hành vi mới toàn.

Tiết này nhắc lại lời Đức Khổng, và cho rằng bốn đường lối của Thánh nhân nên được hiểu như trên.

Theo tôi ( tác giả), Học Dịch mà chú trọng vào bói toán, sẽ không mở mang trí huệ được bao nhiêu.

Tuy nhiên, đó chỉ là quan niệm riêng tư của tôi, nó cũng chẳng ràng buộc được ai!

 

 


» Dịch Kinh Đại Toàn » chương 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12