TÍNH MỆNH KHUÊ CHỈ TOÀN THƯ
»
MỤC LỤC |
NGUYÊN |
HANH |
LỢI |
TRINH
TRINH TẬP
1
2
3
4 5
6 7
8 9
10 11
12
CHÂN KHÔNG LUYỆN
HÌNH ĐỒ
Tiếu Nhân nhất khí tương hô
hấp,
笑
人 一 氣 相 呼 吸,
Dĩ pháp truy lai luyện hình
chất.
以
法 追 來 煉 形 質.
Khiếu khiếu linh lung ngũ
uẩn không,
竅
竅 玲 瓏 五 蘊 空,
Hà quang vạn Đạo liên Thiên
bích.
霞
光 萬 道 連 天 碧.
Trời người hô hấp giống in
nhau,
Chỉ dùng một phép dùng hình
chất,
Suy ra ngũ uẩn vốn là không,
Ánh sáng muôn trùng soi Trời
Đất.
*
Chân không luyện hình pháp,
真 空 煉 形 法,
Ngũ uẩn không phi không,
五 蘊 空 非 空.
Phi dĩ không ngũ uẩn,
非 以 空 五 蘊,
Ngũ uẩn tất giai không.
五 蘊 悉 皆 空.
Chân không phép luyện hình,
Ngũ uẩn vốn chẳng không,
Tu cho ngũ uẩn không còn
vết,
Ngũ uẩn rồi ra cũng là
không.
*
LUYỆN HÌNH
Sách Phổ Chiếu Phật tâm nói:
Tị đoan hữu bạch ngã kì
quan,
鼻
端 有 白 我 其 觀,
Khước thán nhân tùng ung lý
bàn.
卻
嘆 人 從 瓮 里 盤.
Tối thượng nhất thừa hàm súc
viễn,
最
上 一 乘 含 蓄 遠,
Hảo tòng huyền khiếu mịch
thiên khoan.
好
從 玄 竅 覓 天 寬.
Ta quan sát điểm trắng nơi
đầu mũi,
Khen kẻ trong lu khiến lu
quay,
Tối thượng nhất thừa cao
siêu thế,
Nên theo Huyền Khiếu kiếm
trời cao.
Cho nên phép luyện hình theo
Chân Không cũng giống như người vần lu nước. Nếu vần từ bên trong thì
làm sao lu chuyển được cho nên phải vần từ bên ngoài. Cho nên vần lu từ
bên ngoài thì nhà Phật gọi là Hư Không ngoài thân ta vậy. Lão tử thì gọi
là:
Ngoại kỳ thân nhi thân tu,
外 其 身 而 身 修,
Vong kỳ hình như hình tồn.
忘 其 形 而 形 存.
Ở ngoài thân nên thân tu,
Quên mất hình nên hình còn.
Tiết Đạo Quang nói:
Nhược nhân không thử ảo hoá
thân,
若 人 空 此 幻 化 身,
Thân thụ thánh sư chân quỹ
tắc.
身 授 聖 師 真 軌 則.
Nếu người coi được cái thân
ảo hoá mình là Không,
Thì đã biết được đường lối
chính xác của thánh nhân.
Trương Toàn Nhất nói: Thái
hư thị ngã, Tiên không kỳ thân, kỳ thân ký không, Thiên địa diệc không.
Thiên địa ký không, Thái Không diệc không, Không vô sở không, nãi thị
chân không.
太 虛 是 我, 先 空 其 身, 其 身 既 空, 天
地 亦 空. 天 地 既 空, 太 空 亦 空, 空 無 所 空, 乃 是 真 空.
Thái hư là ta, Cần coi mình
là không. Thân này đã không, thì thiên địa cũng không. Thiên địa đã
không, thì Thái không cũng là không, không vô sở không, đó là Chân
Không.
Thanh Tĩnh Kinh viết:
Nội quan kỳ tâm,
內 觀 其 心
Tâm vô kỳ tâm,
心 無 其 心
Ngoại quan kỳ hình,
外 觀 其 形
Hình vô kỳ hình.
形 無 其 形
Nhìn vào trong tâm,
Tâm không có tâm,
Nhìn ra ngoài hình,
Hình không có hình.
Hình không có hình là Thân
Không vậy. Tâm Không có tâm là tâm không vậy. Tâm Không vô ngại thì thần
càng luyện càng linh. Thân Không vô ngại thì hình càng luyện càng thanh.
Luyện cho tới hình và thần dung hợp với nhau, thân và tâm hợp nhất, thì
mới gọi là Hình Thần Câu Diệu, và Dữ Đạo Hợp Chân vậy.
Cổ tiên nói: Hình dĩ Đạo
toàn, Mệnh dĩ thuật diên
形 以 道 全 命 以 術 延
(Hình nhờ Đạo mới nên
toàn vẹn, Mệnh nhờ Thuật mới sống lâu).
Thuật đó là ăn trộm Nguyên
Khí vô cùng, để bổ sung cho cái thân hình hữu hạn.
Vô Nhai chi Nguyên Khí, đó
là Âm Dương trưởng sinh Chân Tinh của trời đất. Là Khí của Linh Phụ,
Thánh Mẫu.
Hữu hạn chi hình khu, đó là
Âm Dương đoản súc trọc loạn của Cha mẹ phàm phu.
Cho nên dùng khí của Linh
Phụ Linh Mẫu để biến cái phàm thân của cha mẹ phàm tục, thành cái thân
Thuần Dương Chân Tinh, thế là Thọ cùng Trời Đất vậy.
Tôn Đà La tôn giả nói: «Đức
Thế Tôn dạy ta phải nhìn thấy đầu mũi trắng, ta bắt đầu nhìn, qua 21
ngày, Thấy khí trong mũi, vào ra như khói. Trong lòng trong sáng, hết
sức Hư Tĩnh, y như lưu ly. Khói dần dần tiêu, hơi thở thành trắng, tâm
được mở ra, hết còn phiền não. Hơi thở vào ra,trở nên sáng láng, chiếu
soi mười phương, thành A La Hán.»
Chu Nguyên Hối nói: «Mũi thở
hơi trắng, ta đã nhìn thấy.»
Mạc Nhận Chân Nhân nói:
Bình sinh tư vận, ái phong
lưu,
平 生 姿 韻 愛 風 流,
Kỷ tiếu thời nhân hướng
ngoại cầu.
幾 笑 時 人 向 外 求.
Vạn biệt Thiên sai, vô mịch
xứ,
萬 別 千 差 無 覓 處,
Đắc lai nguyên tại tỵ Đoan
đầu.
得 來 原 在 鼻 端 頭.
Phong thái bình sinh thích
phong lưu,
Cười người chỉ biếùt Hướng
Ngoại cầu.
Thiên sai vạn biệt cầu đâu
thấy.
Muốn thấy chung qui tại tỵ
đầu.
Phàm con người trước khi sinh, thở ra, thở
vào, thông khí với mẹ. Con người khi đã sinh ra, thở ra, thở vào, thông
khí với trời. Trời, Người cùng một khí, lưu thông với nhau, tương thôn,
tương thổ, như thể kéo cưa. Trời cho, ta lấy. Được khí, làm cho khí
thịnh là sống. Trời cho rồi lại lấy lại. Mất khí rồi tuyệt khí là chết.
Cho nên thánh nhân, xem xét Đạo Trời, xem Trới vận hành. Khi mặt Trời
chưa lên khỏi Dương Cốc, thì ngưng thần, toạ tĩnh, hư tâm mà chờ. Trong
buông mọi niệm, ngoài xả vạn duyên, quên Trời, quên đất, nghiền nát hình
hài. Tự nhiên từ trong Thái Hư có một điểm Chân Dương, như móc, như
điện, ùn ùn nhập vào Huyền Môn, xuống Trường Cốc rồi lên thẳng Nê Hoàn,
hoá thành Cam Lộ nhập vào Ngũ tạng. Ta phải dùng Tốn Phong (Vũ Hoả) mà
tiếp ứng nó, để nó trừ diệt tà khí nơi Tam Quan,
Cửu Khiếu, quét sạch trần cấu nơi ngũ tạng, luyện khí chất, đốt sạch
trược thể, đuổi sạch uế khí trong thân, biến hoán thân mình thành Thuần
Dương chi thể. Luỹ tích trường cửu sẽ hoá hình thành Tiên.
Trần Tuý Hư nói:
Thấu thể Kim Quang, tuỷ cốt
hương,
透 體 金 光 髓 骨 香,
Kim cân, ngọc cốt tận thuần
dương.
金 筋 玉 骨 盡 純 陽.
Luyện giao xích huyết lưu vi
bạch,
煉 教 赤 血 流 為 白,
AÂm khí tiêu ma thân tự
khang.
陰 氣 消 磨 身 自 康.
Toàn thân rực rỡ, cốt tuỷ
thơm,
Cốt ngọc, gân vàng, biến
thuần dương,
Luyện cho máu đỏ nên màu
trắng,
Âm khí tiêu trừ, thân an
khang.
Khưu trường Xuân nói:
Đãn năng tức tức thường
tương cố,
但 能 息 息 常 相 顧,
Hoán tận hình hài, ngọc dịch
lưu.
換 盡 形 骸 玉 液 流.
Chỉ cần đề ý từng hơi thở,
Thay đổi hình hài, ngọc dịch
lưu.
Trương Tử Dương nói:
Thiên Nhân nhất khí bản
tương đồng,
天 人 一 氣 本 相 同,
Vi hữu hình hài ngại bất
thông.
為 有 形 骸 礙 不 通.
Luyện đáo thần hình minh hợp
xứ,
煉 到 神 形 冥 合 處,
Phương tri sắc căn tức Chân
Không.
方 知 色 根 即 真 空.
Thiên Nhân nhất khí vốn
tương đồng,
Chỉ vị hình hài, ngăn chẳng
thông.
Luyện tới Thần Hình hoà hợp
lại,
Mới hay Căn Sắc tức Chân
Không.
Tiết Hạ Mệnh nói:
Bất tri tương vị khí,
不 知 將 謂 氣
Đắc hậu tự nhiên Chân,
得 後 自 然 真
Không hiểu Khí ra sao,
Sau biết tự nhiên Chân.
Đổng Hán Thuần nói:
Kim dụng khoáng tiêu,
金 用 礦 消
Hình do khí luyện.
形 由 氣 煉
Kim thuần khoáng hết
Hình đổi do Khí luyện.
Luyện Hình
có 6 môn:
1.
Ngọc Dịch luyện hình.
玉 液 煉 形
2. Kim
Dịch luyện hình.
金 液 煉 形
3.
Thái Dương luyện hình.
太 陽 煉 形
4.
Thái Âm luyện hình.
太 陰 煉 形
5. Nội
quan luyện hình.
內 觀 煉 形
Năm môn trên chưa phải là Hư
Vô đại đạo, không thể giúp ta Dữ Thái Hư Đồng Thể. Chỉ có khẩu quyết sau
đây gọi là :
6.
Chân không luyện hình.
真 空 煉 形
Tuy là Hữu tác, nhưng chính
thật Vô Vi, tuy là Luyện Hình, nhưng chính là Luyện Thần. Thế là vừa Tu
ngoại vừa kiêm Tu nội vậy.
Theo thế mà tu luyện, sau
100 ngày thì Thất Phách sẽ vong hình, Tam Thi sẽ tuyệt tích, lục tặc
(sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sẽ tiềm tàng, thập ma (như phiền não
ma, tâm ma, tử ma, v.v. Đạo gia gọi thế là ảo giác như Mỹ cảnh, phú quí,
Ân ái, v.v.) sẽ ẩn trốn xa.
Tu 1000 ngày, thân tứ đại sẽ
sáng như thuỷ tinh, trong ngoài sẽ Linh lung, nội ngoại sẽ động triệt,
tâm hoa xán lạn, Linh Quang hiển hiện.
Linh
Quang là Tuệ quang vậy. Nên nói: Tuệ quang sinh xứ, giác hoa khai
慧 光 生 處 覺 花 開
(Nơi Tuệ Quang sinh,
giác hoa sẽ nở ra). Có Tuệ Quang Giác Hoa, nếu không nhờ Luyện Hình nhập
vi, dữ Đạo minh Nhất, thì không được như vậy.
Cho nên Sinh Thần Kinh viết:
«Thân hình hợp nhất, thì gọi là Chân Thân. Thân cùng Thần hợp, hình sẽ
tuỳ Đạo thông. Lúc ẩn thì hình vững cùng Thần, lúc hiển thì Thần hợp với
khí. Cho nên vào nước lửa như không, ra mặt trời mặt trăng không thấy
bóng. Quên được mình, nên ra vào không chi ngăn trở. Hoặc sống tại thế,
hoặc thoát chất thành tiên. Có người ban ngày bỏ xác, như Hoàng đế, có
người trú thân nơi trần thế như Bành Tổ. Có người thụ được Mệnh Trời,
sống tại thế gian với một Thiên Chức, như Trương Thiên Sư, có người lên
trời với nhà cửa, như Hứa Tinh Dương; có người không bệnh mà chết, như
Vương Trùng Dương; có người làm quan như Đông Phương Sóc. Đến như Lão Tử
làm quan Trụ Sử, Tân Biền làm Đại Phu, Doãn Hỉ làm Quan Lệnh, Bá Cơ làm
Khanh Sĩ. Đường Điển ẩn cư trên núi Tỉ, Tử Hưu quản Lý Tất Viên, Trương
Lương giúp Hán Cao Tổ, Tứ Hạo giúp Huệ Đế, Cừu Sinh phò nhà Ân, Phụ
Quang giúp nhà Hán, Mã Đơn giúp nhà Tấn, Hải Thiềm giúp Yến, Chính Dương
từ quan, Thuần Dương ứng cử, Thường Hữu cầm roi, Cầm Cao cầm hốt, thật
là nhiều vô số kể.
Ôi! Các vị Thần Tiên trên ẩn
hiện, khứ lưu, phàm phu sao mà đoán định được? Như Liệt Tử cưỡi gió, như
Đạt Ma vượt sông trên ngọn vi lô, nếu thân xác không luyện đến mức tinh
vi, thì làm sao người nhẹ được như vậy?
Cái thuật Hình Thần câu diệu
như vậy, nếu không biết phép Toạ Thoát Lập Vong, Trạm Trước Tử Vong (Thi
Giải, Nguyên Thần thoát xác), thì con người không hiểu nổi, và sẽ đi vào
lỗi lầm Phao Thân Nhập Thân mà thôi.
Cho nên học Tiên Phật không
phải chuyên lo luyện Thần không, mà còn phải luyện hình, nếu không sẽ
trở thành một loại ma qui biết Thanh Linh Thiện Hoá mà thôi, không thể
sánh được với các vị Cao Tiên vậy.
Đại để phép Luyện Hình là
không phân bỉ thử, tuy nhiên tại hai nơi phát minh, nhưng đạo Lý chỉ có
một: Nội ngoại kiêm tu, Bất tương vi bối
內 外 兼 修 不 相 違
背 (Nội Ngoại song tu, không trái ngược nhau).
Công phu mười tháng, sẽ ly
khai được Nhân Thế, tự nhiên Ngôn Ngữ, và Tâm Tư mình sẽ khác với người,
Năng Sở sẽ cùng quên, Sắc Không sẽ cùng mất, sẽ hết chướng ngại, hết bợn
nhơ. Thân sẽ như chim Hồng, bay bổng lên không còn bị giam giữ. Lòng sẽ
như bông sen, không nhuốm nước, rạng rạng, rỡ rỡ, tiêu tiêu, sái sái,
thành một con người Vô Sự, VôVi, tiêu dao tự tại,
Lúc này Anh Nhi đã lộ nguyên
hình, với người không khác. Càng ngày Càng phải Hàm Hoa Ẩn Dược, Trấn
Tĩnh Tâm Điền, Nếu thấy vui mừng đó là Ma Cảnh.
Như Trần Nê Hoàn nói:
Ngã tích công phu, hành nhất
niên,
我 昔 工 夫 行 一 年,
Lục mạch dĩ tức khí qui
nguyên.
六 脈 已 息 氣 歸 源.
Hữu cá Anh Nhi tại đan diền,
有 個 嬰 兒 在 丹 田,
Dữ Ngã hình mạo diệc như
nhiên.
與 我 形 貌 亦 如 然.
Ta luyện công phu đã một
năm,
Lục mạch đều hoà Khí qui
nguyên,
Có một Anh Nhi tại Đan Điền,
Hình dạng như ta cũng y
nhiên.
Anh Nhi đã lớn, không ở
trong Huyệt nữa, tự nhiên sẽ bay lên đầu, phá huyệt mà ra. Thế gọi là
Thoát Ly Khổ hải mà vào Bỉ Ngạn vậy.
Vĩnh Minh Thọ Thiền Sư nói:
Thân tại khổ Hải trung,
身 在 苦 海 中
Lại thử Thiết La Hán,
賴 此 鐵 羅 漢
Khổ Hải ký thoát ly,
苦 海 既 脫 離
Xả phiệt đăng bỉ ngạn.
舍 筏 登 彼 岸
Thân còn trong Khổ Hải,
Phải nương cái Thân này.
Khổ Hải đà thoát ly,
Bỏ bè sang Bỉ Ngạn.
Ngô Trần Chân Nhân nói:
Thử ngạn Ba Đào dĩ thoát ly,
此 岸 波 濤 已 脫 離,
Đáo Bỉ phương tri thọ khả
tê.
到 彼 方 知 壽 可 躋.
Nhất đắc qui lai, nghi vĩnh
đắc,
一 得 歸 來 宜 永 得,
Độ hà phiệt tử thượng Thiên
thê.
渡 河 筏 子 上 天 棲.
Bờ nọ ba đào đã thoát ly,
Bờ kia đã tới, thọ khả qui.
Một khi đã được là được mãi,
Cưỡi bè ấy chính lên Trời
vậy.
Tam quan là Vĩ Lư,
Giáp tích, Ngọc Chẩm.
1
2
3
4 5
6 7
8 9
10 11
12
|