LECOMTE DU NOÜY
VÀ
HỌC THUYẾT VIỄN ĐÍCH
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 | Phần 2: chương
1
2
3
4 |
Phần 3: chương
1
2
3 4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
PHẦN THỨ
BA:
NHẬN ĐỊNH VÀ PHÊ BÌNH
*
Chương
2
Bình luận về
thuyết tiến hóa
... Le monde
extérieur avec sa multiplicité d’apparence est construit sur un monde
intérieur plus homogène. Ceci est déjà vrai en physique. L’infiniment
grand repose sur L’infiniment petit.
Les aspects
extérieur de l’univers interviennent à titre second et dérivé devant les
aspects «intérrieurs»
d’une énergie qui forme la base unique et l’aliment essentiel des choses
et des êtres.
RÂM LINSSEN
(Cf. Études
psychologiques de C.G. Jung à J. Krisnamurti, page 63)
... Thế giới
bên ngoài với thiên hình vạn trạng đã được xây dựng trên một thế giới
bên trong đồng nhất hơn. Điều này đã được vật lý học kiểm chân. Cực đại
xây nên cực tiểu.
Các trạng thái
bên ngoài của vũ trụ đều là phản ảnh những trạng thái bên trong của một
động lực duy nhất hằng cưu mang, nuôi dưỡng vạn vật quần sinh.
Lecomte du Noüy đã chấp nhận học thuyết
tiến hóa để xây nền, đắp tảng cho học thuyết viễn đích của Ông.
Cho nên muốn bình luận học thuyết của Ông,
trước tiên chúng ta cũng nên bình luận thuyết tiến hóa.
Tiết 1
Những cường
điểm của học thuyết tiến hóa
Nếu chúng ta chỉ nhìn phiến diện, thì ta
thấy thuyết tiến hóa ngày nay như là một nhà cách mạng đã thành công rực
rỡ.
Nó đã trở thành một đại học thuyết của
thời đại mới và đã đánh dấu một kỷ nguyên mới cho nhân loại.
Thuyết tiến hóa ngày nay đã chính thức
được giảng dạy trong các trường học.
Và tuy thỉnh thoảng, ở một vài nơi vẫn có
những «vụ án con khỉ» xảy ra, như:
Vụ án John Thomas Scopes ở tiểu bang
Tennessee năm 1925.
Vụ án Susan Epperson tại tiểu bang
Arkansas năm 1966.
Nhưng rốt cuộc thuyết tiến hóa vẫn được
phát triển, truyền bá.
Các tôn giáo, sau khi đã mạ lỵ phỉ báng
(hào hứng nhất là cuộc đấu lý, đấu khẩu giữa Giám mục Wilberforce và
Huxley tại Oxford năm 1860),
cấm đoán
thuyết
tiến hóa, dần dà cũng phải thay đổi thái độ, để đi đến chỗ dung hòa
nhượng bộ.
Trong một thông điệp tháng 8 năm 1950, Đức
Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố giáo dân được học thuyết tiến hóa, miễn là
thuyết này chỉ tìm căn nguyên thể xác con người trong một sinh cơ tiền
tại.
Và từ đầu thế kỷ XX thay vì dùng Thánh
Kinh để phi bác thuyết tiến hóa, các nhà biện giải Thánh Kinh, ngược
lại, đã cố sức giải thích Thánh Kinh cho phù hợp với các khám phá khoa
học.
Ví dụ:
Có nhiều nhà biện giải Thánh Kinh giải
thích rằng sáu ngày trong Thánh Kinh phải hiểu là sáu thời kỳ, vì chữ
Yôm vừa có nghĩa là «ngày» vừa có nghĩa là “thời kỳ”. Và nhiều người tán
thưởng lối giải thích đó.
Nhưng những người thành khẩn hơn cho rằng
giải thích như vậy là vô lý, vì «Yôm» chẳng bao giờ có nghĩa là «thời kỳ
địa chất». Và câu «vậy có buổi chiều và buổi mai» không bao giờ có nghĩa
là «hai ba tỉ năm đã qua»...
Hơn thế nữa các vị Thủ lãnh Giáo Hội dần
dà cũng công nhận rằng những chuyện về khai thiên lập địa, tạo dựng quần
sinh viết trong Sáng thế ký không phải là những chân lý khoa học lịch
sử, mà chỉ là những câu chuyện bóng bẩy,
phản ảnh
những kiến thức của quần chúng, theo những điều tai nghe mắt thấy thông
thường và được diễn tả bằng một lối văn thông dụng.
Thật là một sự chuyển biến về tư tưởng hết
sức lớn lao, nếu ta nhận định rằng trong vòng bao nhiêu thế kỷ, các dân
tộc Châu Âu và khu vực Địa Trung Hải đã tin rằng các lời tường thuật của
Thánh Kinh về sự tạo dựng vũ trụ quần sinh, và về Hồng Thủy, là lịch sử
hết sức chính xác về vũ trụ.
Ngày nay, phần đông những người sùng
thượng Thánh kinh như Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi Giáo, chỉ còn
coi những truyện kể trong Sáng thế ký như những huyền thoại thần kỳ.
Cách nay vài thế kỷ, bất kỳ một học giả
nào muốn bảo toàn danh dự hoặc muốn có chút tiếng tăm, thời phải lo sao
cho những điều mình quan sát khảo nghiệm phù hợp với Thánh Kinh
hoặc với
quan niệm truyền thống của giáo quyền, nếu không sẽ bị tai hoạ.
Năm 1744, trong quyển lịch sử vạn vật
Buffon chủ trương trái đất đã có khoảng 70.000 năm, thế mà đã bị coi là
một sự xúc phạm lớn lao, và tác phẩm bị cấm đoán.
Khi Darwin chết, người ta vẫn con dạy rằng
vũ trụ được tạo dựng năm 4963 năm trước công nguyên, và cuốn Tự Điển
Larousse xuất bản năm 1882 ghi rằng: «Đó là niên kỷ duy nhất được chấp
nhận trong các trường.»
Đến ngày nay, thì ta có thể chắc chắn
không còn ai dại dột mà có những chủ trương như vậy nữa.
Trước kia không ai dám bàn cãi đến vấn đề
Adam thủy tổ con người, sống trong vườn địa đàng giữa những con sông
Pishôn (?), Gihôn (?), Tigre và Euphrate.
Ngày nay các nhà bác học lại còn muốn đi
tìm tiên tổ của Adam
và nơi
thực sự đã phát tích khởi nguyên ra con người.
Nhờ có những tư tưởng, những giả thuyết
táo bạo như thế, nên con người đã làm phục sinh được cả một dĩ vãng tiền
sử bao la với những người tiền sử, như:
Nam Hầu (Australopithèques) cách nay chừng
700.0000 đến 500.000 năm.
Hầu nhân (Pithécanthrope) cách nay chừng
500.000 đến 150.000 năm.
Người Néanderthal cách đây chừng 100.000
năm.
Người Cromagnon Linh nhân (Homo-Sapiens)
cách đây chừng 30.000 năm.
Hơn nữa, người ta còn tìm ra được một kho
tàng nghệ thuật tiền sử vô cùng quý báu, đó là những «bích hoạ» trong
nhiều hang động Âu châu như:
Động Altamira (Tây Ban Nha).
Động Eysies (gần Périgueux, Pháp
có di
tích người Cromagnons).
Động Pech Merle (Quận Lot, Pháp).
Động Lascaux (Dordogne, Pháp).
Người ta đã tìm ra được 112 động có bích
hoạ nguyên ở Âu châu mà phần đông là ở Tây Nam nước Pháp và Tây Ban Nha.
Dù muốn dù không, chúng ta cũng phải công
nhận rằng thuyết tiến hóa đã có nhiều công lao với khoa học và lịch sử
tư tưởng nhân loại.
Nó đã cố thâu thập và tìm tòi những chứng
cứ để bắt buộc mọi người chấp nhận sự biến thiên biến dịch của vũ trụ
quần sinh, nhờ vậy mà sự hiểu biết của chúng ta về thiên văn, địa lý
quần sinh ngày một thêm phong phú, chính xác.
Học thuyết tiến hóa không phải công lao
của một vài người, mà đã có hàng trăm, hàng ngàn nhà bác học, các danh
nhân trên thế giới góp phần xây dựng.
Nó đã bắt buộc nhân loại phải bỏ những
nhãn quan chật hẹp về không gian cũng như về thời gian, đem lẽ biến dịch
lồng vào cuộc đời, khuyến cáo mọi người không còn được ù lì bất động mà
phải vùng lên tự tạo lấy tương lai cho mình và cho nhân loại.
Nó đem lại cho con người một niền tin mới
mẻ vào những sức mạnh tiềm ẩn trong con người.
Và thay vì sống lo âu hồi hộp chờ đợi vào
một ngày tận thế sắp tới,
con người
ngày nay nhận thức ra rằng mình hãy còn ở vào lúc bình minh của cõi đời.
Nó cũng đã vạch rõ cho mọi người thấy một
cách khoa học rằng cho đến bây giờ những ý niệm về con người cũng như về
vũ trụ hãy còn rất nhiều thiếu sót, vậy chớ có nên độc đoán, cố chấp,
một chiều.
Học thuyết tiến hóa đã thúc nay và đã thực
hiện được những tiến bộ lớn lao về mọi ngành khoa học, nhất là các khoa
vạn vật, thiên nhiên, cổ nhân, cổ vật, cổ sự, nó đã tăng trưởng tầm kích
con người trăm nghìn lần hơn, cả về dĩ vãng lẫn tương lai.
Nó đã vạch cho thấy các đạo giáo lớn không
phải một chốc mà thành, nhưng cũng đã có những bước đi chập chững, cũng
đã phải vay mượn nhờ cậy vào những trào lưu tư tưởng, những đạo giáo đã
có từ trước.
Học thuyết tiến hóa cũng ảnh hưởng đến
chính trị không ít.
Ảnh hưởng của hoàn cảnh đến sinh linh, ảnh
hưởng của xã hội đến con người, cái chủ trương ấy của Lamarck, đã được
các đảng xã hội, cũng như các đảng viên Mác xít lấy làm nền tảng cho học
thuyết của mình.
Ngược lại, chủ trương của Darwin, «mạnh
được yếu thua, khôn sống bống chết» đã được các nước thực dân lấy làm
phương châm để bào chữa cho những hành vi dã man đàn áp của mình.
Nó đã làm nảy sinh ra một nền luân lý vị
kỷ, vụ lợi, và có lẽ cũng là một trong những nguyên nhân gây ra trận đại
chiến 1914, theo W. Dampier.
Hơn nữa thuyết tiến hóa ngày nay đã được
đa số các nhà bác học công nhận.
Tóm lại thuyết tiến hóa đã gây một cơn bão
tố lớn lao trong lịch sử tư tưởng và đã sinh nhiều chuyển hướng quan
trọng trong tâm thần nhân loại,
chẳng kém
gì học thuyết Karl Marx.
oOo
Tiết 2
Những nhược
điểm của thuyết tiến hóa
Những nhược điểm của thuyết tiến hóa
Tuy nhiên thuyết tiến hóa rất nhiều nhược
điểm và có thể nói được có rất nhiều «tử huyệt».
1) Nhược điểm của chủ
trương loài nọ biến sang loài kia.
Trước hết thuyết tiến hóa chủ trương sinh
linh đã biến hóa từ loài nọ qua loài kia, từ côn trùng đến con người, và
đưa ra bằng chứng là theo những khám phá cổ sinh vật học và địa chất học
thì các loài đã xuất hiện một cách lớp lang, thứ tự, loài hạ đẳng thô sơ
có trước, loài thượng đẳng phức tạp sinh sau.
Nhưng chính các nhà cổ sinh vật học lại
thú nhận rằng các loài, các giống y như là đột hiện, đột khởi, khó mà
minh chứng được loài nào đã sinh ra loài nào.
Nếu vậy
thì chứng cứ đưa ra là một hư chứng.
Nếu giả thuyết tiến hóa mà đúng, nghĩa là
theo thời gian, loài này phải biến ra loài kia, thì sau một tỉ năm tiến
hóa, đào thải, các loài thô sơ, nhỏ thó, các loài hạ đẳng vì xuất sinh
ra trước chắc chắn đã mai một hết rồi, sân khấu đời đã được nhường cho
những loài thượng đẳng. Nhưng thực tế thì ngược lại; hiện nay ước lượng
có tới bốn triệu giống sinh linh; người ta mới biết được chừng một triệu
giống, mỗi năm biết thêm được chừng hai mươi ngàn giống.
Trong một triệu giống còn lại đó: sâu bọ
đã chiếm mất 600.000 giống, mà các động vật có vú chỉ có 15.000 giống.
Tại sao mặc dầu những vật thượng đẳng
chuyên môn hà hiếp, tiêu diệt các loài vật hạ đẳng, mà các loài này cũng
không chịu chết, chịu biến?
Rắc rối hơn nữa, những tổ tiên của chúng
ta vẫn còn sống sờ sờ; suốt ngày chuyên lo báo hại chúng ta. Đó là những
siêu trùng, những vi trùng. Chẳng biết siêu trùng hay vi trùng là tổ
tiên chúng ta, nhưng chắc rằng giữa đôi bên, ta và chúng, chẳng có một
chút gì là thương xót, kính nể lẫn nhau: tổ tiên, thì lo hại con cháu;
con cháu thì chế độc dược để tiêu diệt tổ tiên. Thật là vô cùng hỗn
loạn. Mỗi ngày, người ta lại còn tìm ra thêm nhiều loại siêu trùng, siêu
siêu trùng mới, thành thử công cuộc của nhân loại hiện nay đi tìm tổ
tiên lại càng thêm khó khăn vất vả!
Người ta đã vô tình hay hữu ý trà trộn hay
sự kiện hoàn toàn khác nhau:
1) Các loài xuất hiện kế tiếp nhau và một
ngày một tiến hóa hơn, hoàn bị hơn.
2) Và các loài đã biến hóa sinh xuất ra
nhau.
Áp dụng lý luận ấy vào cuộc đời ta mới
thấy rõ ngụy biện.
Ví dụ: người Chàm đã xuất hiện trước người
Việt ở miền Trung; các người da đỏ Sioux, Iroruois, Cherokees đã xuất
hiện trước các người Anglo-Saxons ở Hoa Kỳ. Nếu vậy thì người Chàm đã
biến hóa thành người Việt; người Sioux, Iroquois, Cherokees đã biến hóa
thành người Mỹ hiện nay chẳng sai, bởi vì chúng ta có những hài cốt,
những di tích lịch sử chứng minh!...
Hoặc là ra đường chúng ta thấy có đủ loại
xe, có bánh như nhau và cũng di chuyển được như nhau; có cái nhỏ, có cái
to, có cái giản dị, có cái phức tạp. Nào xe đạp, nào Honda, Suzuki,
Vespa, Lambretta, Cyclo đạp, Cyclo máy, ôtô, GMC v.v...Áp dụng định luật
tiến hóa, ta kết luận: nhất định xe đạp đã sinh ra xe gắn máy, xe gắn
máy đã sinh ra ôtô, ôtô sinh ra GMC vì hình thù tất cả đều tương tự như
nhau, như vậy chắc chắn là phải xuất sinh cùng một thủy tổ là cái xe
đạp!
André Lamouche trong quyển «Định mệnh con
người» cũng đã nhận thấy cái ngụy biện ấy.
Từ sự kiện đã quan sát được là sinh linh,
đã liên tiếp xuất hiện, tuần tự tiến hóa nghĩa là có loài này hơn loài
kia, loài sau thường hoàn hảo hơn loài trước mà kết luận được loài nhỏ
đã sinh ra loài to, loài hạ đẳng sinh ra loài thượng đẳng, thì thật là
một ngụy biện siêu phàm, đáng kể là sản phẩm của Gorgias, nhà ngụy biện
trứ danh Hi Lạp; của Huệ Tử
hay của
Công Tôn Long!
2) Nhược điểm, của chủ
trương vạn vật xuất sinh từ một tế bào nguyên thủy.
Chẳng những thế, học thuyết tiến hóa còn
chủ trương: vạn vật đã phát sinh từ một gốc, không phải là từ một con
trùng, một tế bào không mà thôi, mà còn từ nguyên tử đầu tiên của vật
chất, theo thuyết máy móc.
Giả thuyết này trên phương diện thực
nghiệm đã vấp phải trở ngại là không tìm ra được những sinh vật trung
gian, và những sự biến hóa nghiệm thấy thường rất hữu hạn.
Về vấn đề lý, nếu chấp nhận một «mầm mống
duy nhất» thì phải chấp nhận rằng trong tế bào nguyên thủy đã tiềm ẩn
tất cả sinh vật, tất cả các hình trạng sinh linh – Weismann cho rằng cứ
lý phải vậy; Lecomte du Noüy cho rằng chẳng phải vậy; Darwin, Lamarck
cho rằng tất cả biến hóa là do cố gắng cá nhân, là do hoàn cảnh xui
khiến; mỗi người một phách, nội bộ chia rẽ như thập nhị sứ quân.
3) Nhược điểm của
thuyết di truyền tập tính.
Các ông tổ của thuyết tiến hóa như
Lamarck, Darwin, Herbert, Spencer chủ trương rằng sở dĩ có tiến hóa
chính là nhờ ở sự di truyền tập tính.
Herbert Spencer chủ trương phải có di
truyền tập tính, nếu không thuyết tiến hóa sẽ sụp đổ.
Lecomte du Noüy cũng tin có di truyền tập
tính. Ông nại ra các thí nghiệm của Kellog và Bell về các loại sâu róm,
của Arnold Pictet và Fischer trên các loại bướm, và kết luận tập tính có
thể di truyền.
Tưởng nên ghi nhận rằng Mitchourine
(1855-1935) và Lyssenko cũng chủ trương di truyền tập tính. Hai nhà bác
học Nga này cho rằng các phần tử nhỏ của thân thể, kể cả chất dịch, đều
có thể mang tính di truyền, chứ không phải cứ nhiễm thể mới mang được
tính di truyền.
Nhưng đa số các nhà di truyền học trong đó
có Weismann chủ trương ngược lại rằng tập tính không thể di truyền được,
vì các tập tính chỉ có tác dụng đến hình hài, chứ không có tác dụng đến
di tử, chủng tử. Nhưng chỉ khi nào di tử, chủng tử biến thiên, hoán cải,
thì mới có những sự thay đổi thực sự về hình hài và mới có sự truyền tử
lưu tôn.
Jean Rostand một nhà sinh lý học lỗi lạc
viết như sau:
«Tai hại thay cho học thuyết Lamarck, là
những sự biến cải trên bình diện hình hài do ảnh hưởng của hoàn cảnh hay
do hoạt động không bao giờ truyền lại được cho con cháu. Những biến cải
ấy hoàn toàn là sở hữu cá nhân, vì chẳng có một cái gì có thể nhập vào
gia tài di truyền được; như vậy, nó không có giá trị gì về phương diện
tiến hóa.
Không những Wallace và Weismann,
mà ngay
cả phái chủ trương thuyết sậu biến của De Vries cũng không chấp nhận
thuyết di truyền tập tính.
Ta cũng nên biết vụ ngụy tạo chứng cứ của
P. Kammerer về di truyền tập tính đã bị G.K. Noble phanh phui năm 1926,
và Paul Kammerer xấu hổ, đã tự sát.
Tạp chí Life xuất bản ngày 17-3-1947 cho
rằng các nhà di truyền học hiện tại ít ai tin thuyết di truyền tập tính.
Vậy nếu trở ngược lại lập luận của Herbert
Spencer nói trên, ta sẽ phải đi đến kết luận: vì chưa chứng minh được
rằng tập tính di truyền, nên chưa thể kết luận vật này đã biến thành vật
nọ...
Thuyết di truyền tập tính còn chứa ẩn
nhiều ngụy biện ghê gớm:
Theo thuyết này, thì chẳng có gì là thiên
bẩm, thiên phú. Mọi sự đều là thủ đắc, tập thành.
Tai mắt, chân tay, cổ cánh đã sinh ra hoàn
toàn là đấu tranh sinh tồn, ảnh hưởng ngoại cảnh, nói cách khác, «nhu
cầu hoạt động sinh ra cơ quan».
Thú thực, dẫu chúng ta quí trọng các nhà
bác học mấy mặc lòng, nhưng mà chúng ta cũng không thể nào chấp nhận
những giả thuyết thần kỳ đó được.
Từ một sự kiện mọi người đều công nhận là
ngoại cảnh, thủy thổ có thể ảnh hưởng, có thể biến cải sinh vật, mà mập
mờ đi đến kết luận rằng mọi sự đều do ngoại cảnh sinh và không có gì là
bẩm sinh, thiên phú, thực là một nguy biện ngoại hạng!
4) Nhược điểm của
thuyết đấu tranh sinh tồn, tuyển lựa tự nhiên.
Darwin có ý niệm về «đấu tranh sinh tồn»,
sau khi đọc sách của Malthus,
và về
tuyển lựa tự nhiên, sau khi quan sát những cách thức lựa giống, lai
giống của các nhà chăn nuôi súc vật.
Cho nên, ông nghĩ rằng đấu tranh để sống
sót là một cuộc đấu chí tử giữa sinh linh, do đó chỉ những vật thật
mạnh, thật giỏi mới sống sót.
Đó là cách tuyển lựa tự nhiên của trời
đất.
Sự đấu tranh và tuyển lựa ấy bắt buộc mọi
loài phải biến cải, tiến hóa, để có thể kháng cự thù địch một cách hữu
hiệu hơn.
Các sự biến cải ấy sẽ được truyền tử lưu
tôn, và dần dà sinh ra các nòi giống mới.
Đã đành, sống trên đời bất kỳ loài nào
cũng phải cố gắng, có vậy mới có miếng nuôi thân, có thể tiến tới.
Nhưng từ đó đi đến kết luận mọi loài sinh
ra là cốt để xâu xé lẫn nhau, tranh cướp nhau miếng ăn, giành giật nhau
đất sống thì kể cũng quá khích.
Theo chủ trương mạnh được yếu thua, khôn
sống bống chết này, thì lẽ ra trên đất những sâu bọ, ruồi muỗi phải chết
hết, còn những khủng long, độc xà phải được phát triển; dưới nước, những
tôm tép, mòi lẹp phải chết hết, chỉ những kình nghê mới sống sót. Nhưng
trái lại, trên thực tế, các loài vật nhỏ vẫn đầy dẫy nhan nhản...
Nếu sau ngót một tỷ năm tiến hóa, mà những
sinh vật li ti hạ đẳng, thô sơ yếu đuối như nay vẫn còn sống sót, thì cứ
như thuyết Darwin, chúng phải là những con vật mạnh mẽ, lanh lợi, sung
sướng nhất, thích ứng nhất với hoàn cảnh rồi, mà đã thích ứng quá mức
như vậy, thì làm gì có tiến hóa nữa !
Ngoài ra, đào thải, tuyển lựa là chọn tốt,
bỏ xấu, chứ không phải sinh ra những đặc tính mới. Như vậy, thì tại sao
loài này có thể khác loài kia được ?
Giáo sư Culter đại học Chicago cho rằng:
nhược điểm của thuyết đào thải tuyển lựa tự nhiên là nó không sinh ra
được đặc tính mới.
Đã đành trong quần sinh có những loài mạnh
ăn thịt loài yếu, nhưng những loài yếu lại sinh sôi nảy nở rất nhiều để
bù đắp lại: một con cá có thể đẻ hàng triệu trứng, các loài côn trùng
thường cũng sinh sôi nảy nở rất nhiều, rất nhanh.
Lại nữa,
ta thấy trong loài vật nhỏ, nhiều con có phép ẩn thân (mimétisme), lẩn
trong cây cỏ, hòa mình vào với lá, cành khéo đến nỗi nhiều khi không
nhận được chúng. Như vậy, y như là tạo vậy cũng cố sức bảo tồn các loài
đã có, không muốn chúng bị tiêu diệt đi.
Hơn nữa định luật đấu tranh sinh tồn cũng
không hoàn toàn đúng; vì chúng ta thấy loài vật tuy dữ nhưng thường
không ăn thịt hay làm hại lẫn nhau:
«Ong kia đâu có đốt nhau,
Hổ kia đâu có xé xâu đồng loài.»
Xét về loài người, thì ta chỉ thấy những
kẻ lưu manh hạ cấp mới lo hãm hại người, còn những chính nhân quân tử
mọi nơi mọi đời đều hi sinh vì người, tán trợ phụ bật người, lấy câu
«thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác»
làm
phương châm. Khắp thế giới, hiện nay, có nhiều cơ quan cứu trợ, và các
nước đàn anh bất kỳ là trong màn sắt, hay ngoài màn sắt cũng lo giúp đỡ
những nước hậu tiến. Tất cả các chủ nghĩa, các chính thể bất kỳ xanh,
đỏ, trắng, vàng, đều muốn loại trừ mọi sự bất công, bóc lột, muốn cho
mọi người được no ấm, có những điều kiện tiến bộ đồng đều, thế có phải
là phản lại Darwin hay không ?
Học thuyết Darwin cho rằng sự tuyển lựa
đào thải cốt là thải loại những đặc điểm vô ích. Nếu vậy thì đến con
người đáng lý phải có cách chư chim, có móng vuốt như hổ, có da thịt như
voi, biết bơi, biết lội như cá, biết leo trèo như khỉ vượn, bởi vì tiên
tổ từ loài sâu bọ sấp lên, thường con nào cũng có sở trường: biết bay,
biết lội, biết trèo, mà những tài ngoại đó chẳng cần tập cũng biết, hơn
nữa rất cần cho cuộc sinh nhai.
Thế mà, đến con cháu, xa xăm là loài
người, thì mất cánh, mất lông, mất vuốt; da thịt lại mềm mại xinh xắn;
quên bay, quên lội, dốt chạy, dốt trèo; nhưng lại đốc giống ra thông
minh, linh lợi, biết nói, biết hát, biết đùa, biết giỡn, đóng tuồng,
diễn kịch, cầu khẩn van vái thần minh, thì kể cũng lạ thật.
5) Nhược điểm của
thuyết sậu biến (mutationnisme)
De Vries chủ trương vạn vật tiến hóa là
nhờ sậu biến, ngẫu biến.
Nhưng thuyết sậu biến không cắt nghĩa được
tại sao cuộc tiến hóa lại có chiều hướng, một ngày lại một thêm hoàn hảo
hơn, tinh vi hơn.
Vả lại các nhà khoa học nhận thấy rằng
phần nhiều các sự biến hóa hoặc tự nhiên hoặc nhân tạo thường là những
quái thai và thường tảo vong, yểu tử.
6) Thuyết tiến hóa có
nhiều tranh chấp nội bộ.
Như ta đã nói trên thuyết tiến hóa đã do
nhiều người đóng góp xây dựng, nhưng thực ra mỗi người đưa ra một ý kiến
và chẳng ai chịu ai.
Phái Lamarck thì phi bác Darwin, phái
Darwin thì phủ nhận học thuyết Lamarck.
Weismann và De Vries không chấp nhận
thuyết di truyền tập tính v.v...
Lamarck chủ trương: ngoại cảnh và lề lối
sinh hoạt gây nên các biến hóa nơi quần sinh, không có gì đã được tiền
định từ trong trứng. Darwin cho rằng sự biến hóa là kết quả của sự đấu
tranh sinh tồn đào thải tự nhiên, và loài nào có nhiều khả năng hơn sẽ
sống sót. Weismann chủ trương ngược lại rằng biến hóa là một hiện tượng
nội tạo ẩn áo, chỉ lệ thuộc vào sự cấu tạo thiên tiên của trứng. Hoàn
cảnh bên ngoài có thể hỗ trợ, hoặc làm trở ngại chứ không có thể hướng
dẫn được công cuộc đó. Sự diễn biến của các giai đoạn phát triển chỉ tùy
thuộc vào cơ cấu đầu tiên của trứng sinh vật.
Vì chưa có thuyết nào hoàn hảo để giải
thích được sự biến hóa, nên đầu thế kỷ XX, ta lại thấy vô số lý thuyết
mới ra đời như:
- Thuyết tổng hợp của J. Huxley,
Dobzhansky và Simpson.
- Thuyết của Mitchourine và Lyssenko.
Và một số lý thuyết khác, nhưng cũng không
giải thích thêm được gì.
7) Các nhà bác học đôi
khi cũng đã mắc phải những lầm lẫn lớn lao và đôi khi cũng có gian ý,
ngụy tạo chứng cứ.
Những vụ điển hình nhất là:
Huxley tưởng mình đã tìm ra được sinh chất
ở đáy biển. Ông gọi chất đó là Bathybius Hœckele. Hœckel cũng tưởng
thật, đã từ chất đó, mô tả suy diễn ra cả cuộc tiến hóa quần sinh mãi
sau Huxley mới thú nhận mình đã lầm và cái chất có danh từ Bathybius mỹ
mạo ấy chỉ là chất Sulfat vôi.
b) Vụ ngụy tạo đồ bản của Hœckel.
c) Vụ Dawson ngụy tạo xương người tiền sử
Piltdown bằng cách dũa xương đười ươi rồi cắm vào hàm một sọ người tiền
sử. Teilhard de Chardin, Keith Woodward và nhiều bác học khác đều mắc
lừa. Mãi đến ngày 22-11-1953, giáo sư Oakley mới khám phá ra được vụ
ngụy tạo ấy.
d) Vụ man trá của bác sĩ Dubois đã từ
chiếc sọ đười ươi dựng nên câu chuyện «hầu nhân xứ Java».
e) Vụ ngụy tạo chứng cứ của Paul Kammerrer
v.v...
Tuy nhiên muốn cho công bằng ta cũng phải
nhận rằng những vụ ngụy tạo này là thế gian thường tình, vì ngay đạo
giáo cũng đã thường phạm những lỗi lầm này, như lịch sử đã chứng minh.
8) Các biện chứng nêu
ra trong các sách giáo khoa được trình bày một cách rất khéo léo, bằng
cách trưng ra một vài bằng chứng, còn bao nhiêu khó khăn đều được đậy
điệm bỏ qua đi hết.
Thường các sách giáo khoa minh chứng
thuyết tiến hóa như sau:
Các sinh vật có cùng một thủy tổ và loài
hạ đẳng dần dà đã biến thành loài thượng đẳng.
Ta có thể chứng minh bằng:
-
Khoa cổ sinh vật học (paléonlogie)
-
Khoa cơ thể học đối chiếu (Anatomie
comparée)
-
Khoa phôi học (embryologie)
a/ Khoa cổ sinh vật học cho thấy sự xuất
sinh tuần tự của các loài sinh vật. Sự khảo sát địa khai, đã cho biết
rằng qua các thời kỳ địa chất các loài vật đã xuất sinh theo một thứ tự
nhất định: nhưng loài hạ đẳng, đơn sơ bao giờ cũng xuất hiện trước những
loài cao đẳng phức tạp hơn...
b/ Cơ thể học đối chiếu cho thấy «những
vật thuộc cùng một nhóm» được kiến tạo theo một hoành đồ chung (nguyên
tắc hoành đồ nhất trí của Geoffroy St. Hilaire).
c/ Khoa phôi học cho thấy các bào thai
động vật mới đầu giống nhau, sau dần mới khác.
Nhưng sự xuất sinh theo một thứ tự nhất
định của các loài vật không có nghĩa là loài nọ biến hóa ra loài kia.
Nguyên tắc «hoành đồ nhất trí» của
Geoffroy Saint Hilaire chỉ đúng một phần nào nơi động vật có xương sống,
nhưng không thể áp dụng cho toàn thể sinh linh.
Ví dụ, nếu tất cả đều có một tổ chức, một
cốt cách tương tự nhau, thì sao côn trùng lại không có xương cốt, các
loài cua ốc, sò hến xương cốt lại y như hiện ra bên ngoài, các loài động
vật có xương sống, thì xương cốt lại lặn vào bên trong?
Đó chính là điểm đã gây thảm bại cho
Geoffroy Saint Hilaire, con người đã sáng tạo ra học thuyết, trong cuộc
tranh luận với Cuvier về thuyết hoành đồ nhất trí của ông, trước Hàn lâm
viện Pháp năm 1830.
Nguyên tắc «Hoành đồ nhất trí» của
Geoffroy Saint Hilaire cũng không giải thích được tại sao nơi sinh vật
thượng đẳng thì hình hài phức tạp trong một cơ thể có nhiều cơ quan.
Còn nơi sinh vật hạ đẳng tối sơ thì hình
hài cơ thể giản dị hết sức đến mức độ chỉ gồm có một tế bào; thế nhưng
về phương diện sinh lý thì đôi đàng đều làm được những công việc chính
yếu như nhau.
Khoa phôi thai học chỉ đề cập đến điểm
tương đồng giữa các bào thai động vật nhưng đã bỏ qua những điểm tương
dị ghê tởm:
Ví dụ:
1/ Sự sinh sản bằng cách phân thân của các
loại vi trùng.
2/ Sự sinh sản bằng âm dương hợp chủng của
các sinh vật.
3/ Sự sinh sản bằng trứng, bằng cách ấp ủ
bên ngoài nơi rắn rết, cá mú, chim chóc. Ngược lại nơi các động vật có
vú thì lại đổi thành sự thai nghén bên trong.
Ấy chưa kể đến những nghi vấn lớn lao là
làm sao những con trùng không tim, không óc, không phổi, không mũi,
không tai, không mắt lại biến thành được những động vật, những con người
có tay chân mặt mũi tim óc hẳn hoi với 14 tỉ não bào, và những dây thần
kinh như mắc cửi khắp thân hình. Cái đó thì các sách giáo khoa không đề
cập tới.
Tiết 3
Tổng luận về
thuyết tiến hóa.
Trên đây chúng ta đã cố tìm cho ra những
cái hay cái dở của thuyết tiến hóa.
Chúng ta khen, khi đặt mình vào hàng ghế
những khán giả dễ dãi chỉ nhìn xem những thành quả phiến diện, nhất thời
của học thuyết, rồi vỗ tay phụ hoạ theo.
Chúng ta thấy có nhiều điểm đáng phê bình,
nếu chúng ta chịu đi sâu vào hậu trường của học thuyết, cân nhắc lại
từng lời lẽ, lý luận, chứng cứ, và nếu chúng ta dám bạo dạn nói lên
những cảm nghĩ riêng tư, bất chấp mọi dư luận đang thịnh hành.
Để kết luận, chúng ta phải bái phục công
trình tìm tòi của các nhà khoa học, cũng như phương pháp, lề lối làm
việc và những sáng kiến tân kỳ.
Chúng ta cũng không phủ nhận ảnh hưởng
mãnh liệt và sâu rộng của thuyết tiến hóa khắp năm châu.
Nhưng từ những sự kiện dĩ nhiên mọi người
đều công nhận như:
-
Có sự biến dịch trong vũ trụ và
trong vạn vật quần sinh.
-
Vũ trụ vạn vật có lớp lang, thứ tự,
hệ thống.
-
Các sinh vật xuất sinh tuần tự.
-
Ngoại cảnh có ảnh hưởng lớn lao đến
đời sống sinh vật,
-
Muốn tiến tới cần phải cố gắng liên
tục v.v...
Đi đến kết luận là loài nọ đã biến thành
loài kia, vi trùng đã biến dần thành quần sinh, thành nhân loại, và
những sự biến hóa ấy đã được xui khiến bởi ảnh hưởng ngoại cảnh và sự
đấu tranh sinh tồn, thì kể là một kết luận vội vàng, không chính xác; mà
đã không chính xác thì biện luận mấy cũng không che giấu nổi nhược điểm.
Tuy nhiên nó đã đặt lại cả một vấn đề siêu
hình qua các bằng chứng khoa học.
Nó đã thẳng thắn đặt lại mấy quan niệm:
Nhất thể vạn thù của các nhà huyền học Á
Đông,
và Âu Phi
thời cổ, cũng như quan niệm biến dịch, biến thiên mà Phục Hi, Văn Vương
cũng như Héraclite đã chủ trương từ ngàn xưa.
Cái nhược điểm trọng yếu của thuyết tiến
hóa chính là không qui định được «nguyên sinh», «nguyên thể» là gì, mà
cho rằng hoặc là nguyên tử vật chất nhỏ nhoi, hoặc tế bào, hoặc là vi
trùng vi thảo, mà quên mất phần thần khí, quên mất đại khối vũ trụ.
Cứ theo lý luận trên, thì tiến hóa không
phải là sự phát huy những tiềm năng tiềm lực sẵn có, mà là biến hình,
biến dạng tùy thế của vi thảo, vi trùng.
Vũ trụ không phải là những biến hóa lớp
lang thứ tự của một đại thể mà là sự hợp tan vô định, vô tình của những
vi thể vi trần.
Học thuyết biến hóa hiện nay có thể nói
được là đối đỉnh của học thuyết biến hóa của các nhà huyền học đông tây
từ trước đến nay.
Thuyết này chủ trương:
Nhất thể biến vạn thù,
Vạn thù qui nhất thể.
Tức là cả vũ trụ sinh linh đều là phân thể
một đại thể. Đại thể ấy có nhiều danh hiệu tùy nơi tùy thời: hoặc là
Thái Cực, là đạo, là Logos, là chân tâm. Đại thể ấy sinh ra mọi sự, mọi
loài. Mọi loài vì là phân thể của một đại thể,
nên dĩ
nhiên có một mối giây thân ái, liên laic, hết sức chặt chẽ với nhau. Mọi
sự vì vậy có những điểm tương đồng, tương dị. Căn nguyên thì tương đồng,
nhưng phân nhiệm thì tương dị v.v...
Ta lật ngược học thuyết trên thì sẽ ra
thuyết tiến hóa hiện nay, nhưng vì thuyết tiến hóa khởi sự từ tiểu ly,
tiểu tiết, nên khi muốn tái tạo lại vũ trụ, quần sinh đã gặp rất nhiều
khó khăn trở ngại.
Thuyết tiến hóa, vì quên mất đại thể, quên
mất thần khí nên quên lãng cả ảnh hưởng tâm thần, cho rằng mọi sự đều vô
tình, vô ý.
Nhưng các nhà khoa học chân chính cho rằng
chối bỏ tâm thần, tình ý là phản lại thực tại.
Cuénot đã phải nhận rằng trong quần sinh
có sự hô ứng tương liên, tương hợp lạ lùng: đố nào, ngàm ấy; rau nào sâu
ấy; ong giúp hoa, hoa giúp ong.
Ông thú
nhận rằng có nhiều sự thích ứng không thể nào giải thích bằng ngẫu nhiên
được, mà phải tin vào một huyền lực siêu nhiên biến hóa, tiềm ẩn ngay
nơi sinh vật. Huyền lực ấy tác động trên vật chất y như một ý niệm của
nghệ sĩ tác dụng nguyên liệu được dùng.
Charles Richet đã dám chứng minh rằng
trong khoa sinh lý học, cái gì cũng có mục đích, ý tứ.
L. Cuénot cũng tuyên bố: vây sinh ra để
bơi, cách để bay, mắt để nhìn.
Và nếu trong những tiểu tiết ta thấy có ý,
có tình, thì vũ trụ cũng phải có ý tứ, cùng đích.
Các nhà khoa học chủ trương thuyết tiến
hóa còn có một nhược điểm khác là thường chỉ chú trọng đến ảnh hưởng của
ngoại cảnh hay của di tử, chủng tử
mà sao
nhãng hẳn những ảnh hưởng ý chí tâm tình.
Tuy nhiên, Larmarck và nhiều triết gia lại
đặt ảnh hưởng ấy lên hàng đầu.
Thế là các lý thuyết gia về thuyết tiến
hóa hãy còn đứng ngoài lâu đài, chưa vào được phía «bên trong», theo từ
ngữ Schopenhaur.
Nói tóm lại, muốn đi tìm nguồn gốc phát
sinh tiến hóa, phải đi sâu vào căn cơ vũ trụ.
Các nhà huyền học cổ kim đều đã chủ trương
như vậy. Thánh Paulo cũng đã nói: vô hình sinh hữu tướng.
Teilhard de Chardin cũng chủ trương Tạo
hóa vẫn còn hoạt động trong lòng sâu vũ trụ và vạn vật.
Teilhard de Chardin (1881-1955)
Các nhà truyền học Á Đông cũng đã đi sâu
vào Thái Cực, vào vô tướng để tìm ra duyên do tiến hóa nơi vạn hữu.
Nhiều nhà bác học hiện nay đã công nhận
rằng cái «thực tại khoa học» chỉ là một lớp màng vỏ mong manh bao phủ
ngoài thực tại chân thực, như những làn sóng nhấp nhô trên mặt trùng
dương.
Thực thể vô tận ấy nay mang thêm nhiều
danh hiệu mới mẻ như là «Trùng dương» của Dirac, «Tiềm giới» của Louis
de Broglie, Bohn và Vigier, «Cảnh giới đặc thù» của Wheeler v.v...
Thế là
Đông Tây gặp gỡ, kim cổ giao duyên...
André Lamouche cho rằng người ta đã lẫn
lộn hai chữ Tiến hóa, và biến hóa. Sự tiến hóa nghĩa là trong vũ trụ,
quần sinh có nhiều trình độ, tinh thô, cao thấp khác nhau sự tiến hóa ai
cũng phải nhận, vì nó là một sự kiện. Còn sự biến hóa ngĩa là loài này
biến ra loài khác là một giả thuyết rất mơ hồ, huyền hoặc chưa có thể
chứng minh được.
Vả lại, người ta chấp nhận thuyết tiến hóa
có khi cũng vì những lý do tình cảm và chính trị. Giáo sư Watson, đại
học đường Luân Đôn thuyên bố như sau:
Thuyết tiến hóa đã được các nhà động vật
học chấp nhận, không phải vì đã thực sự quan sát thấy vậy hay vì đã có
thể chứng minh, hoặc kiểm chân được bằng những lý luận mạch lạc xác
đáng, nhưng chính là vì thuyết đối lập, «sự tạo dựng trực tiếp», cũng
không thế nào tưởng tượng được.
Theo bác sĩ Calman thuộc Anh quốc Bảo tàng
viện, thì các nhà khoa học đã chấp nhận học thuyết này «như là một lợi
khí để có thể giao tranh với các giáo hữu bảo thủ».
Đó cũng là ý kiến của Pierre Rousseau
trong quyển lịch sử khoa học. Theo Pierre Rousseau, thì thuyết tiến hóa
chính là một thứ khí giới chiến tranh đã được đưa vào trận địa để phản
kích lại thông điệp Syllabus của Đức Giáo Hoàng Pio IX lưu hành năm
1864, và cộng đồng Vaticano I năm 1870.
Thuyết tiến hóa còn được sùng thượng, một
phần cũng vì phong vị vật chất vô thần của nó.
Nhưng, những lý do tình cảm, chính trị,
đấu tranh ấy không làm tăng được giá trị nội tại của thuyết tiến hóa.
Vì vậy, nhưng nhà học giả thành khẩn hoặc
là phủ nhận thuyết tiến hóa vì thấy chưa đủ lý cứ, hoặc là chấp nhận với
sự dè dặt sau khi đã thay đổi nội dung và thêm thắt vào nhiều quan điểm
mới mẻ.
Năm 1929, Louis Vialleton đã không ngần
ngại viết rằng thuyết tiến hóa là một «huyễn tượng» vì chủ trương toàn
là trực hệ, mà lúc trình bày đồ án biến hóa thì chỉ thấy bàng hệ.
Jean Serviers cho rằng: Thuyết tiến hóa là
một tín điều, một triết lý của người da trắng cốt để lấp liếm những sự
xâm lăng, đàn áp, và những tội ác của họ. Thuyết tiến hóa tuy đã trở
thành tín điều, nhưng chưa dựa trên những chứng cứ chắc chắn. Chúng ta
đang sống giữa một sự trá ngụy khoa học vĩ đại.
Trong bộ Bách khoa tự điển Pháp xuất bản
năm 1938, Paul Lemoine, một nhà địa chất học danh tiếng và là Viện
trưởng viện cổ sinh vật Pháp đã viết như sau: «Thuyết tiến hóa sắp đến
ngày bị bác bỏ» và ông không ngần ngại viết thêm:
«Thuyết tiến hóa là một thứ tín điều mà
hàng giáo phẩm không còn tin nữa, nhưng vẫn giữ cho quần chúng.»
Trong quyển «Nhân loại từ đâu tới», thuộc
bộ Bách khoa Planète, N. Albessard viết:
«Người ta thường chấp nhận rằng tiến hóa
là một sự tiệm thăng tiệm tiến đến một tâm thần biết suy tư, mà Teilhard
de Chardin đã đề cập tới. Quan niệm này làm cho con người trở thành
những Hi mã lạp sơn chứa chất một sự nhẫn nại vô biên của vạn vật.
«Trong ta, tính lại có 30 triệu thế kỷ bì
bõm dưới đáy biển; cố gắng phi thường để lướt thắng hoàn cảnh; khám phá
thần tốc, hoặc bò man vất vả, điên cuồng nhưng rồi vẫn có thể trở lại
khôn ngoan. Trong vòng ba tỉ năm, sự sống đã lần mò để thực hiện ra ta
ngày nay. Cái lối nhìn đời ấy, tuy rất xứng tâm, xứng ý con người, nhưng
khốn nỗi lại chỉ là một giả thuyết không hơn không kém.»
Bertrand Russell lại bi quan hơn, ông nói:
«Tôi nghĩ rằng vũ trụ toàn thành bởi những mảnh miếng, những nhảy cẫng
nhát gừng, và chẳng làm gì có hệ thống duy nhất, liên tục, thứ tự, mạch
lạc.»
James Jeans chủ trương phải đem thần linh
về lại với vũ trụ và cho rằng thần linh là căn cốt vũ trụ. Thần linh
không còn phải là như một người xa lạ trong giang sơn vật chất nữa.
Thế là chủ trương «thần khí điều động vật
chất» của Virgile lại được sống lại.
Gần đây
Julian Huxley và Teilhard de Chardin cũng chủ trương «Thiên tâm», Thiên
tính là bản thể của vũ trụ.
Đó chính là chủ trương của Dịch Kinh: bản
thể của vũ trụ là Thái Cực.
Lecomte du Noüy sữa chữa thuyết tiến hóa
bằng sự chấp nhận có Thượng Đế tạo dựng sinh vật, hướng dẫn quần sinh
đến một mục phiêu siêu việt là thần nhân...
Về thuyết tiến hóa, Lecomte du Noüy cũng
nhận định một cách chân thành như sau:
«Nếu ta lưu tâm đến sự dốt nát của chúng
ta, nếu ta đo lường cân nhắc sự dốt nát ấy một cách thành khẩn, ta sẽ đi
đến một kết luận kỳ dị này là niềm tin của ta về sự tiến hóa, cho đến
bay giờ còn thuộc về trực giác siêu hình chứ chưa phải khoa học...»
Để tổng kết lại, ta thấy rằng muốn có cái
nhìn toàn bích phải đi từ nhất đến vạn, rồi lại đi từ vạn quay trở về
nhất, nói cách khác, đi từ Thái Cực, hay Đạo ra quần sinh vạn hữu, rồi
lại đi từ quần sinh vạn hữu trở về Thái Cực, và Đạo, thế tức là đi từ vô
tướng ra vạn tượng, rồi lại từ vạn tượng quay trở về vô tướng; từ gốc
lên ngọn rồi lại từ ngọn trở về gốc.
Các nhà khoa học đi có một chiều từ ngọn
trở về gốc. Công cuộc đó thực là khó khăn, vì ta không biết hết chi
diệp, cốt cán. Nhưng nó hợp với nguyện ước của mọi người, cho nên ai
cũng công nhận.
Nhưng
chối bỏ nguồn gốc, chối bỏ ý tứ mục đích và cho rằng muôn loài ngẫu
nhiên sinh xuất ra nhau, từ vi trùng, vi thảo cho đến con người, thì
cũng y như chủ trương rằng cây không cần có gốc; ngọn, búp có thể sinh
ra cành lá và thân cây. Đó là một lập luận cưỡng lý cần phải soát xét và
đảo chuyển lại.
Tuy nhiên, dẫu học thuyết tiến hóa, hiện
nay còn khuyết điểm mấy chăng nữa, nó cũng đã thành công rực rỡ, khi đặt
lại những vấn đề then chốt như:
1/ Sự sống chỉ có một, mặc dầu khoác thiên
hình vạn trạng.
2/ Vạn vật có liên lạc mật thiết với nhau,
tuy xa cách nhau bằng không gian, thời gian, bằng trạng thái và trình độ
tâm tư.
3/ Phải tìm cho ra thực thể duy nhất sinh
xuất vạn vật quần sinh.
4/ Phải tìm cho ra những mối manh, mạch
lạc, cơ cấu của sự biến thiên tiến hóa trong vũ trụ và quần sinh.
5/ Phải tìm căn nguyên sinh xuất quần
sinh, cũng như mạch lạc vũ trụ, ngay trong lòng quần sinh và vũ trụ.
Dẫu thuyết tiến hóa chưa giải được những
vấn đề này, nhưng đặt ra thành vấn đề để cho mọi người suy tư, tìm hiểu
cũng đã là một bước tiến vĩ đại. Nó đánh dấu một kỷ nguyên mới vì đã đem
sự biến thiên chuyển dịch vào sân khấu đời.
Nó cũng đã thực hiện được một công trình
vĩ đại vì đã cho con người một cái nhìn phổ quát tổng hợp, coi vạn vật
chỉ là những hình thái biến thiên của một thục thể duy nhất, mặc dầu nó
đã sai lầm khi nhận định thực thể duy nhất ấy là gì.
Mục lục | Tựa của Phạm Đình Tân
| Thư bà Mary Lecomte du Noüy
| Lời nói đầu
Phần 1: chương
1
2
3
4 | Phần 2: chương
1
2
3
4 |
Phần 3: chương
1
2
3 4
Phụ lục
1
2
3 |
Sách tham khảo
|