TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
PHỤ LỤC
1
»
Mục Lục
»
Trung Dung Yếu Chỉ
» Phụ lục:
1 2
3
4 5
6 7
8 9
10
A. ĐẠO THỐNG ĐẠO TRUNG
DUNG CỦA MẠNH TỬ
1.
Hán văn:
孟 子 曰:由
堯 舜 至 於 湯,
五 百 有 餘 歲.
若 禹,
皋 陶,
則 見 而 知 之.
若 湯 則 聞 而 知 之.
由 湯 至 於 文 王 五 百 有 餘 歲.
若 伊 尹,
萊 朱,
則 見 而 知 之.
若 文 王 則 聞 而 知 之.
由 文 王 至 於 孔 子,
五 百 有 餘 歲.
若 太 公 望,
散 宜 生 則 見 而 知 之.
若 孔 子 則 聞 而 知 之.
由 孔子 而 來 至 於 今,百
有 餘 歲.
去 聖 人 今 世,
若 此 其 未 遠 也.
近 聖 人 今 居,
若 此 其甚 也.
然 而 無 有 乎 爾.
則 亦 無 有 乎 爾.
2. Phiên âm:
Mạnh Tử viết: «Do Nghiêu Thuấn chí ư
Thang, ngũ bá hữu dư tuế. Nhược Vũ, Cao Dao, tắc kiến nhi tri chi. Nhược
Thang tắc văn nhi tri chi.
Do Thang chí ư Văn Vương, ngũ bá hữu dư
tuế, nhược Y Doãn, Lai Châu, tắc kiến nhi tri chi, Nhược Văn vương, tắc
văn nhi tri chi.
Do Văn vương chí ư Khổng Tử, ngũ bá hữu dư
tuế. Nhược Thái Công Vọng, Tản Nghi Sinh tắc kiến nhi tri chi. Nhược
Khổng tử, tắc văn nhi tri chi.
Do Khổng Tử nhi lai chí ư kim, bá hữu dư
tuế. Khứ thánh nhân chi thế, nhược thử kỳ vị viễn dã; cận thánh nhân chi
cư, nhược thử kỳ thậm dã; nhiên nhi vô hữu hồ nhĩ. Tắc diệc vô hữu hồ
nhĩ.»
3. Dịch việt văn:
Mạnh Tử nói: «Từ vua Nghiêu vua Thuấn cho
đến vua Thang đã trải qua trên 500 năm (2357-1783=574). Ông Vũ, ông Cao
Dao (hiền thần của vua Nghiêu, vua Thuấn) có thấy tận mắt vua Nghiêu,
vua Thuấn và biết được đạo lý của hai ngài; đến vua Thang thì nghe
truyền tụng mà biết vậy.
Từ vua Thang đến vua Văn Vương đã trải qua
trên 500 năm (1783-1231=552) Ông Y Doãn, ông Lai Châu (hiền thần của vua
Thang) có thấy tận mặt vua Thang và biết được đạo lý của ngày. Đến vua
Văn Vương thì nghe truyền tụng mà biết vậy.
Từ vua Văn Vương cho đến đức Khổng Tử đã
trải qua trên 500 năm (Văn Vương băng 1135 – Khổng Tử sinh 551 = 584
năm). Ông Thái Công Vọng, ông Tản Nghi Sinh (hiền thần của vua Văn
Vương) có thấy tận mắt vua Văn Vương và biết được đạo lý của ngài. Đến
đức Khổng Tử thì nghe truyền tụng mà biết vậy.
Từ đức Khổng Tử cho đến nay (đến đời Mạnh
Tử) đã trải qua trên 100 năm. Từ đời đức Thánh nhân tới nay thời kỳ
chẳng lâu xa gì, vả lại nước Trâu quê quán ngài với nước Lỗ thì rất gần
nhau vậy. Há không có ai thấy tận mắt và biết được đạo lý của ngài sao.
Há không có ai nghe truyền tụng mà biết được sao.»
B. THÁNH HIỀN ĐẠO THỐNG
TRUYỀN THỤ TỔNG TỰ THUYẾT
聖 賢 道 統 傳 授 總 敘 說
của Miễn Trai
1. Hán văn:
有
太 極 而 陰 陽 分,
有 陰 陽 而 五 行 具.
太 極 二 五 妙 合 而 人 物 生.
賦 於 人 者 秀 而 靈.
精 氣 凝 而 為 形.
魂 魄 交 而 為 神,
五 常 具 而 為 性,
感 於 物 而 為 情.
措 諸 用 而 為 事.
物 之 生 也 雖 偏 且 塞 而 亦 莫 非 太 極,
二 五 之 所 為.
此 道 之 原 之 出 於 天 者 然 也.
聖 人 者 又 得 其 秀 之 秀 而 最 靈 者 焉.
於 是 繼 天 立 極,
而 得 道 統 之 傳.
故 能 參 天 地,
贊 化 育 而 統 理 人 倫,
使 人 各 遂 其 生,
各 全 其 性 者;
其 所 以 發 明 道 統 以 示 天 下 後 世 者,
皆 可 考 也.
堯 之 命 舜,
則 曰:
允 執 厥 中.
中 者,
無 所 偏 倚;
無 過 不 及 之 名 也.
存 諸 心 而 無 偏 倚 措 之 事 而 無 過 不 及,
則 合 夫 太 極 矣.
此 堯 之 得 於 天 者,
舜 之 得 統 於 堯 也.
舜 之 命 禹,
則 曰:
人 心 惟 危 道 心 惟 微 惟 精 惟 一 允 執 厥 中.
舜 因 堯 之 命 而 推 其 所 以 執 中 之 由:
以 為 人 心,
形 氣 之 私 也.
道 心,
性 命 之 正 也.
精 以 察 之,
以 守 之,
則 道 心 為 主,
而 人 心 聽 命 焉.
則 存 之 心,
措 之 事,
信 能 執 其 中.
曰 精 曰 一 此 又 舜 之 得 統 於 堯,
禹之 得 統 於 舜 者 也.
其 在 成 湯,
則 曰:
以 義 制事,
以 禮制 心.
此又 因 堯 之 中,
舜 之 精 一,
而推 其制 之之 法.
制 心以 禮,
制 事 以 義,
則 道 心 常存而中 可 執 矣.
曰 禮 曰 義.
此 又 湯 之 得 統 於 禹 者 也.
其 在 文 王 則 曰:
不 顯 亦 臨 無 射 亦 保.
此 湯 之 禮 制 心 也.
不 聞 亦 式 不 諫 亦 入.
此 湯 之 以 義 制 事 也.
此 文 王 之 得 統 於 湯 者 也.
其 在 武 王 受 丹 書 之 戒,
則 曰:
敬 勝 怠 者 吉 義 勝 欲 者 從.
周 公 繫 易 爻 之 辭 曰:
敬 以 直 內,
義 以 方 外.
曰 敬 者 文 王 之 所 以 制 心 也.
曰 義 者 文 王 之 所 以 制 事 也.
此 武 王 周 公 之 得 統 於 文 王 者 也.
至 於 夫 子,
則 曰:
博 學 於 文 約 之 以 禮.
又 曰:
文 行 忠 信.
又 曰 克 己 復 禮.
其 著 之 大 學 曰:
格 物 致 知 誠 意 正 心 修 身 齊 家 治 國 平 天 下.
亦 無 非 所 聖 人 制 心 制 事 之 意 焉.
此 又 孔 子 得 統 於 周 公 者 也.
顏 子 得 於 博 文 約 禮 克 己 復 禮 之 言.
曾 子 得 之 大 學 之 義.
至 於 子 思,
則 先 之 以 戒 懼 謹 獨,
次 之 以 知 仁 勇 而 終 之 以 誠.
至 於 孟 子 則 先 之 以 求 放 心 而 次 之 以 集 義,
終 之 以 擴 充.
此 又 孟 子 得 統 於 子 思 者 然 也.
及 至 周 子 則 以 誠 為 本 以 欲 為 戒.
此 又 周 子 繼 孔 孟 不 傳 之 緒 者 也.
至 二 程 子 則 曰:
涵 養 須 用 敬 進 學 則 在 致 知.
又 曰 非 明 則 動 無 所 之 非 動 則 明 無 所 用.
而 為 四 箴 以 著 克 己 之 義 焉.
此 二 程 得 統 於 周 子 者 也.
先 師 文 公 之 學 見 之 四 書 而 其 要 則 尤 以 大 學 為 入 道 之 序.
蓋 持 敬 也 誠 意 正 心 修 身 而 見 於 齊 家 治 國 平 天 下,
外 有 以 極 其 規 模 之 大 而 內 有 以 盡 其 節 目 之 詳.
此 又 先 師 之 得 其 統 於 二 程 者 也.
聖 賢 相 傳 垂 世 立 教 燦 然 明 白,
若 天 之 垂 象 昭 昭 然 而 隱 也.
雖 其 詳 略 之 不 同 愈 講 而 愈 明 也.
學 者 之 所 當 遵 承 而 固 守 也.
違 乎 是 則 差 也.
故 嘗 撮 其 要 旨 而 明 之 居 敬 以 立 其 本,
窮 理 以 致 其 知,
克 其 以 滅 其 私.
存 誠 以 致 其 實.
以 是 四 其 存 諸 心 則 千 聖 萬 賢 所 以 傳 道 而 教 人 也,
不 越 乎 此
矣.
2. Phiên âm:
«Hữu Thái Cực nhi âm dương phân, hữu âm
dương nhi ngũ hành cụ, Thái cực nhị ngũ diệu hợp nhi nhân vật sinh. Phú
ư nhân giả tú nhi linh, tinh khí ngưng nhi vi hình, hồn phách giao nhi
vi thần, ngũ thường cụ nhi vi tính, cảm ư vật nhi vi tình, thố chư dụng
nhi vi sự. Vật chi sinh dã tuy thiên thả tắc nhi diệc mạc phi Thái cực,
nhị ngũ chi sở vi. Thử đạo chi nguyên chi xuất ư Thiên giả nhiên dã.
Thánh nhân giả, hựu đắc kỳ tú chi tú nhi tối linh giả yên; ư thị kế
Thiên lập cực, nhi đắc đạo thống chi truyền; cố năng tham thiên địa, tán
hóa dục, nhi thống lý nhân luân, sử nhân các toại kỳ sinh, các toàn kỳ
tính giả; kỳ sở dĩ phát minh đạo thống dĩ thị thiên hạ hậu thế giả, giai
khả khảo dã. Nghiêu chi mệnh Thuấn, tắc viết: «Doãn chấp quyết Trung».
Trung giả, vô sở thiên ỷ; vô quá bất cập chi danh dã. Tồn chư tâm nhi vô
thiên ỷ, thố chi sự nhi vô quá bất cập, tắc hợp phù Thái cực hĩ. Thử
Nghiêu chi đắc ư Thiên giả, Thuấn chi đắc thống ư Nghiêu dã. Thuấn chi
mệnh Vũ, tắc viết: «Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi; duy tinh duy
nhất, doãn chấp quyết trung.» Thuấn nhân Nghiêu chi mệnh nhi suy kỳ sở
dĩ chấp trung chi do: dĩ vi nhân tâm, hình khí chi tư dã; đạo tâm, tính
mệnh chi chính dã. Tinh dĩ sát chi, dĩ thủ chi, tắc đạo tâm vi chủ, nhi
nhân tâm thính mệnh yên. Tắc tồn chi tâm, thố chi sự, tín năng chấp kỳ
trung. Viết tinh, viết nhất, thử hựu Thuấn chi đắc thống ư Nghiêu, Vũ
chi đắc thống ư Thuấn giả dã. Kỳ tại Thành Thang, tắc viết: «Dĩ nghĩa
chế sự, dĩ lễ chế tâm.» Thử hựu nhân Nghiêu chi trung, Thuấn chi tinh
nhất, nhi suy kỳ chế chi chi pháp. Chế tâm dĩ lễ, chế sự dĩ nghĩa, tắc
đạo tâm thường tồn nhi trung khả chấp hĩ. Viết lễ, viết nghĩa. Thử hựu
Thang chi đắc thống ư Vũ giả dã. Kỳ tại Văn Vương, tắc viết: «Bất hiển
diệc lâm, vô dịch diệc bảo.» Thử Thang chi dĩ lễ chế tâm dã. «Bất văn
diệc thức, bất gián diệc nhập.» Thử Thang chi dĩ nghĩa chế sự dã. Thử
Văn Vương chi đắc thống ư Thang giả dã. Kỳ tại Võ Vương, thụ Đan thư chi
giới, tắc viết: «Kính thắng đãi giả cát, nghĩa thắng dục giả tùng.» Chu
Công hệ Dịch hào chi từ viết: «Kính dĩ trực nội, nghĩa dĩ phương ngoại.»
Viết kính giả, Văn Vương chi sở dĩ chế tâm dã; viết nghĩa giả, Văn Vương
chi sở dĩ chế sự dã. Thử Võ Vương Chu Công chi đắc thống ư Văn Vương giả
dã. Chí ư Phu tử, tắc viết: «Bác học ư văn, ước chi dĩ lễ.» Hựu viết:
«Văn, hạnh, trung, tín.» Hựu viết: «Khắc kỷ phục lễ.» Kỳ trứ chi Đại
Học, viết: «Cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị
quốc bình thiên hạ.» Diệc vô phi sổ thánh nhân chế tâm chế sự chi ý yên.
Thử hựu Khổng Tử đắc thống ư Chu Công giả dã. Nhan Tử đắc ư bác văn ước
lễ, khắc kỷ phục lễ chi ngôn; Tăng Tử đắc chi Đại Học chi nghĩa. Chí ư
Tử Tư, tắc tiên chi dĩ giới cụ cẩn độc, thứ chi dĩ trí nhân dũng, nhi
chung chi dĩ thành. Chí ư Mạnh Tử, tắc tiên chi dĩ cầu phóng tâm, nhi
thứ chi dĩ tập nghĩa, chung chi dĩ khuếch sung. Thử hựu Mạnh Tử đắc
thống ư Tử Tư giả nhiên dã. Cập chí Chu Tử, tắc dĩ thành vi bản, dĩ dục
vi giới. Thử hựu Chu Tử kế Khổng Mạnh bất truyền chi tự, giả dã. Chí nhị
Trình tử tắc viết: «Hàm dưỡng tu dụng kính, tiến học tắc tại trí tri.»
Hựu viết: «Phi minh tắc động vô sở chi, phi động tắc minh vô sở dụng.»
Nhi vi «Tứ châm» dĩ trứ khắc kỷ chi nghĩa yên. Thử nhị Trình đắc thống ư
Chu Tử giả dã. Tiên sư Văn công chi học, kiến chi Tứ Thư, nhi kỳ yếu tắc
vưu dĩ Đại Học vi nhập đạo chi tự. Cái trì kính dã, thành ý, chính tâm,
tu thân nhi kiến ư tề gia trị quốc bình thiên hạ; ngoại hữu dĩ cực kỳ
qui mô chi đại, nhi nội hữu dĩ tận kỳ tiết mục chi tường. Thử hựu tiên
sư chi đắc kỳ thống ư nhị Trình giả dã. Thánh hiền tương truyền, thùy
thế lập giáo, xán nhiên minh bạch, nhược thiên chi thùy tượng, chiêu
chiêu nhiên nhi ẩn dã. Tuy kỳ tường, lược chi bất đồng, dũ giảng nhi dũ
minh dã. Học giả chi sở đương tuân thừa nhi cố thủ dã. Vi hồ thị tắc sai
dã. Cố thường toát kỳ yếu chỉ nhi minh chi: Cư kính dĩ lập kỳ bản, cùng
lý dĩ trí kỳ tri, khắc kỷ dĩ diệt kỳ tư, tồn thành dĩ trí kỳ thực. Dĩ
thị tứ kỳ tồn chư tâm, tắc thiên thánh vạn hiền sở dĩ truyền đạo nhi
giáo nhân giả, bất việt hồ thử hĩ.
3. Dịch việt văn:
THÁNH HIỀN ĐẠO THỐNG
TRUYỀN THỤ TỔNG TỰ THUYẾT của Miễn Trai
Có Thái Cực rồi âm dương phân, có âm dương
rồi ngũ hành đủ. Thái Cực, lưỡng nghi, ngũ hành diệu hợp, mà nhân vật
sinh. Bao đẹp đẽ linh diệu phú cả cho con người: Tinh khí tụ thành hình,
hồn phách giao thành thần, ngũ thường hợp thành tính; cảm xúc sinh tình,
ứng dụng nên việc, mọi vật sinh ra, bề ngoài tuy có vẻ khiếm khuyết, bế
tắc nhưng đều do công trình Thái cực âm dương, ngũ hành. Nguồn mạch
đường lối có xuất sinh tự Trời. Điều này hiển nhiên vậy.
Nhân lại bẩm thụ được hết tinh hoa tú khí
nên mới kế Trời lập ra mục đích thâm viễn cùng cực cho nhân loại, mới
thức thưởng được đạo thống. Vì thế có thể tham dự vào công việc đất
Trời, góp phần vào công trình hóa dục, tìm ra mối manh lý sự cho đời
sống con người, để ai cũng phát huy được khả năng đời mình, kiện toàn
được tính mệnh mình.
Sở dĩ phát sinh ra được đạo thống là để
dạy thiên hạ cho đời sau ai cũng truy khảo được.
I. Vua Nghiêu truyền đạo cho vua
Thuấn, đã nói: «Ra công sức giữ nguyên lòng Trời.» (Doãn chấp quyết
trung).
Lòng Trời không nghiêng tựa, không thái
quá, không bất cập, giữ trong tâm không nghiên tựa, ứng ra việc không
thái quá bất cập, cho nên hợp Thái cực.
Thế là Trời truyền đạo cho vua Nghiêu, vua
Nghiêu truyền đạo cho vua Thuấn.
II. Vua Thuấn truyền đạo thống cho
vua Vũ nói:
«Lòng của Trời siêu vi
huyền ảo,
Lòng con người điên đảo
ngả nghiêng.
Tinh ròng chuyên nhất
ngày đêm,
Ra công, ra sức giữ
nguyên lòng Trời.»
Vua Thuấn nghiền ngẫm lời vua Nghiêu để
tìm ra manh mối hai chữ «Chấp trung», đã nhận ra rằng: Lòng người tức là
phần hình khí riêng tư, lòng đạo, lòng Trời tức là phần tính mệnh công
chính; khảo sát cho tới tinh vi, giữ gìn cho đến chuyên nhất, thì lòng
đạo, lòng Trời làm chủ mà lòng người sẽ vâng theo.
Có vậy, thì giữ trong lòng, hay làm ra
việc, vẫn giữ được đạo Trung.
Tinh, nhất là khẩu hiệu tương truyền giữa
các vua Nghiêu, Thuấn, Vũ.
III. Vua Thành Thang chủ trương:
«Lấy nghĩa tiết chế
việc. Lấy lễ tiết chế lòng.»
Phương
pháp này chẳng qua cũng nhân chữ «Trung» của Vua Nghiêu chữ «Tinh, Nhất»
của vua Thuấn mà phát sinh.
Dùng lễ tiết chế chế lòng, lấy nghĩa tiết
chế việc, thì lòng Đạo sẽ còn mãi và lòng Trời có thể giữ được vậy.
Tóm lại, lễ nghĩa là chủ trương của vua
Thang, khi đã đắc truyền từ vua Vũ.
IV. Văn Vương nói:
«Chẳng thấy nhãn tiền
nhưng vẫn giáng lâm,
Chẳng phải long đong mà
vẫn giữ được.»
Thế cũng y như chủ trương lấy lễ chế
tâm của vua Thang. Văn Vương còn nói:
«Chưa từng nghe, vẫn
đúng khuôn phép,
Không cần can vẫn hợp
qui mô.»
Thế cũng y như tôn chỉ lấy nghĩa chế sự
của vua Thang. Như vậy Văn Vương đã được đạo thống ở Thành Thang.
V. Võ Vương hội ý sách Đan thư nói:
«Thành kính thắng đãi
mạn là tốt,
Công nghĩa thắng tư dục
là hay.»
Chu Công bàn giải các hào Dịch có nói:
«Kính để trong ngay
thẳng,
Nghĩa cho ngoài vuông
vắn.»
Kính cũng là cách Văn Vương dùng để tiết
chế lòng, nghĩa cũng là cách Văn Vương dùng để tiết chế sự. Như vậy Võ
Vương, Chu Công đã nhận đạo thống nơi Văn Vương.
VI. Đức Khổng Tử chủ trương: «Học
rộng nhờ văn, rút gọn nhờ lễ.» Lại nói: «Văn, hạnh, trung, tín.» Lại
nói: «Tự thắng để phục lễ.» Tất cả cốt làm sáng tỏ vấn đề.
Đại Học viết: «Cách vật, trí tri, thành ý,
chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.» Tất cả đều không
ngoài tôn chỉ chế tâm chế sự của thánh hiền xưa. Như vậy Khổng Tử
đã được đạo thống nơi Chu Công.
VII. Nhan Tử lĩnh hội được câu:
«Bác văn ước lễ.» Tăng Tử thấu triệt được tôn chỉ sách Đại Học, đều là
được chân truyền vậy.
VIII. Đối với Tử Tư, trước hết phải
e dè kính sợ khi ở một mình, sau là phải rèn luyện cho có đủ nhân, trí,
dũng, cuối cùng là trở nên hoàn thiện.
IX. Mạnh Tử dạy trước hết không
được để con tim tán loạn lạc lõng, tiếp đến phải chuyên làm điều nghĩa,
cuối cùng là phải khuyếch sung tính Trời.
X. Chu Tử lấy hoàn thiện làm căn
bản, coi lòng dục là điều phải kiêng lánh. Chu Tử đã nối tiếp được mối
đạo bất truyền của Khổng Mạnh.
XI. Đến Nhị Trình thì nói: «Muốn
hàm dưỡng tính tình phải kính sợ (Trời), muốn thông suốt phải học hỏi.»
Lại nói: «Không sáng suốt thì hành động không có mục đích, không hành
động thì cái sáng suốt không có chỗ dùng.» Rồi soạn thiên Tứ Châm đề cao
nghĩa lý của hai chữ Khắc kỷ. Thế là Nhị Trình lĩnh hội được mối
đạo của Chu Tử.
XII. Cái học của Chu Văn Công xuất
xứ từ Tứ Thư mà chủ yếu là dùng sách Đại Học để làm bậc thang tiến vào
cõi đạo, cho nên cũng chủ trương thành kính, lo tu luyện ý chí tâm tình
cho toàn thiện rồi áp dụng tôn chỉ đó vào công cuộc tề gia trị quốc bình
thiên hạ; ngoài thì đặt ra qui mô lớn lao cao cả, trong thì thấu được
mọi điều tiết minh xác tinh tường. Thế là tiên sư cũng được đạo thống ở
hai Trình.
Thánh hiền tương truyền đạo thống treo
gương cho đời, sáng láng rực rỡ, y như thiên tượng, vừa sáng láng, vừa
ẩn ước. Tùy phân giải có chỗ khác nhau, nhưng càng giảng giải càng tỏ
rõ. Học giả nên noi theo, nên cố giữ, đi ngược lại thì lầm lạc.
Cho nên cố toát lược thuyết minh như sau:
Cư xử
cung kính để lập căn bản, học cho thông suốt để biết đến cùng cực, rèn
luyện mình cho tuyệt hết niềm tây, toàn thiện để thành tựu mình cho toàn
vẹn.
Gắn bó được bốn điều ấy trong lòng thì dù là chủ trương của
nghìn thánh vạn hiền dùng để truyền đạo dạy người cũng sẽ không hơn
được.
»
Mục Lục
»
Trung Dung Yếu Chỉ
» Phụ lục:
1 2
3
4 5
6 7
8 9
10
|