TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
PHỤ LỤC
4
»
Mục Lục
»
Trung Dung Yếu Chỉ
» Phụ lục:
1 2
3
4 5
6 7
8 9
10
TRUNG ĐỒ
1. Phần
Hán Văn:
儒
曰 執 中. 道 曰 守 中. 釋 曰 虛 中. 中 之 一 字 乃 三 教 聖 人 之 心 法, 所 以 修 性 修 命 而 成 大 道. 千
經 萬 典 說 來 說 去 只 說 的 這 一字. 篆 文 中 一 字從 〇 從 在 人 即 秉 彝 之 良, 為 至 善 無 惡, 圓 明 不
昧 之. 物, 所 謂 先 天真 一 之 氣 者 是 也. 〇 中 有 |, 渾 然 天 理一 氣 上 下, 流 行 不 息 之 義. 且 |
在 〇 之 當 心, 〇 左 為 陽 右 為 陰, 即 河 圖 左 陽 右陰, 一 氣 上 下 之 象. 薛 道 光 曰: 有 物 先 天 地,
無名 本 寂 寥, 能 為 萬 象 主, 不 逐 四 時 凋. 寂 寥 即 〇. 萬 象主即 |. 至 無 而含 至有, 至 虛 而 含 至
實, 故 謂 中. 是中 者不偏 不倚, 無 前無 後, 無 背 無 面, 無 頭 無 尾, 無 有 無 無, 非 色 非 空, 虛 圓不 測,
無 象 而 能 主 砟 宰 萬 象, 無 形 而 能造 化 有 形, 生 天 生 地, 生 人 物. 在 人 非 四 大 一身 而 中, 非 中
外 之 中, 無 方 所, 無 定 位, 視 之 不 見聽 之 不 聞, 搏 之 不 得, 古 人 推 其 理 而 肖其 形, 強 名 之曰 十
字 街, 曰 四 會 田, 曰 通 衢 路, 曰 戊 己 門, 曰 元 牝 門, 曰 元 關 竅, 曰 生殺 舍, 曰 刑 德 門, 曰 生 死
關, 曰 陰 陽 戶, 曰 性 命 竅, 曰 天地 根, 曰 人 獸 關, 曰 懸 胎 鼎, 曰 造 化 爐, 名 號 多 端, 總 而言 之
曰 中. 中 也 者天 下 之 大 本 也. 亙 古聖 賢 仙 佛 皆 從 此 中 而 出. 其 大 無 外, 其小無內. 放 之 則 彌 六
合, 卷 之 則 退 藏 於 密. 悟 之 者 立 躋 聖 位, 迷 之 者 萬 劫 沉 淪. 蓋 此 中 乃 性 命 之 根. 在 先 天 性
命 如 一 而 為 中 . 在 後
天 中 分 而 為 性 命 . 其
實 後 天 中 返 出 先 天. 性 了 命 凝, 性 命 歸 根. 仍 是一 中. 老 子 云: 谷 神 不 死 是 謂 元 牝 (玄 牝
), 元 牝 之 門 是 謂 天 地 根. 紫 陽 云: 要 得 谷 神 長 不 死, 須 從 元 牝 立 根 基. 谷 神 即 中 也. 元
牝 為陰 陽, 即 性 命 也. 谷神 不 死 中 含 性 命, 元 牝 立 基, 性 命 成 中. 守 此 中 者 聖 人 也. 失 此 中
者 凡 人 也. 聖凡 之 分 在 得 失 之 間 耳. 一 切 常 人 為 氣 質 所 拘, 為 積 習 所 染, 性 命 分 居 兩 處 中
有 虧 損, 日 虧 月 損, 性亂 命 搖, 神 昏 氣 濁, 將 中 之 原 物. 全 然 失 卻. 中 有 一 失 性 命 無 本. 形
雖 動 而神 已 喪, 焉 能 長 久 乎. 三教 聖 人 以 中 為本 也, 欲 人 執 守 此 中 保 全 性 命 耳. 中 之一 字 為
修 道 者 始 終 之 要 著. 筑 基 在 此, 采 藥 在此, 烹 煉 在 此, 溫 養 在 此, 進 陽 在 此 退 陰 在 此, 結 丹
在 此, 脫 丹 在 此. 七 返 九 還, 無 一 不 在 此. 但 這個 中 人 不 易 見, 亦 不 易 知 不 可 以 有 心 求, 不
可 以 無 心 守. 有 心 求 之, 則 落 於 色 相, 無心 守 之 則 入 於空 寂, 均 非 中 道. 真 正 之中 非 有 非 無
即 有 即 無, 非 色 非 空 即 色 即 空, 不 落 〇 偏. 於 恍 惚 中 求, 於杳 冥內 尋, 庶 乎 近 焉. 天 下 學 人
不 知 此中 是 個 什 麼 物 事. 或 謂 黃 庭 穴, 或 謂 天谷 穴, 或 謂 百 會 穴, 或 謂 絳宮 或 謂 明 堂, 或 謂
咽 喉, 或 謂 兩 腎 中 間. 執 此 幻 身 穴 竅, 便 謂 守 中 抱 一. 妄 冀 長 生. 不 但 不 能 長 生反 而 促 死.
哀 哉. 儒 曰: 喜 怒 哀 樂 之 未 發, 謂 之 中. 又 曰: 不 偏 不 倚 之 謂 中. 道 曰: 前弦 之 後 後 弦 前. 樂
味 平 平 氣 象 全. 又 曰: 陰 陽 得 類 歸 交 感, 二 八 相 當 自 合 親. 釋 曰: 吾 有 一 物, 上 柱 天, 下 柱
地, 無頭 無 尾, 無 背 無 面, 又 曰 舍 利 子, 色不 異 空 空 不 異 色 色 即 是 空, 空 即 是 色. 凡 此 皆 言
中 之 實 落 處 也. 若 人 能 於 此 等 處 留 心, 極 深 研 幾, 就 正 於 真 師 認 得 真 正 之 中, 將 柱 杖 子
穿 在 牛 鼎 孔 內 立 登 彼 岸, 絕 無 費 力. 從 此 直 進 大 路, 緩 步 而 行, 終 有 到 家 之 日. 經 云: 得
其一, 萬 事 畢. 豈 虛 語 哉.
2. Phiên âm:
Nhu viết: chấp
trung. Đạo viết: thủ trung. Thích viết: hư trung. Trung chi nhất tự, nãi
tam giáo thánh nhân chi tâm pháp, sở dĩ tu tính mệnh, nhi thành đại đạo.
Thiên kinh vạn điển thuyết lai thuyết khứ, chỉ thuyết đích giá nhất tự.
Triện văn ‘Trung’ nhất tự tòng 〇 tòng |.
Tại nhân tức
‘bỉnh di chi lương’, vi chí thiện vô ác, viên minh bất muội chi vật, sở
vị ‘tiên thiên chân nhất chi khí’ giả thị dã. 〇 trung hữu |. Hỗn nhiên
thiên lý, nhất khí thượng hạ, lưu hành bất tức chi nghĩa. Thả | tại 〇
chi đương tâm. 〇 tả vi dương, hữu vi âm, tức Hà đồ ‘tả dương hữu âm’
nhất khí thượng hạ chi tượng.
Tiết Đạo Quang
viết: «Hữu vật tiên thiên địa, vô danh bản tịch liêu, năng vi vạn vật
chủ, bất trục tứ thời điêu.»
Tịch liêu tức 〇. Vạn tượng chủ tức |. Chí vô nhi hàm chí hữu, chí hư nhi
hàm chí thật, cố vị Trung.
Thị Trung dã, bất
thiên bất ỷ, vô tiền vô hậu, vô bối vô diện, vô đầu vô vĩ, vô hữu vô vô,
phi sắc phi không, hư viên bất trắc, vô tượng nhi năng chủ tể vạn tượng,
vô hình nhi năng tạo hóa hữu hình, sinh thiên sinh địa, sinh nhân vật.
Tại nhân phi tứ
đại nhất thân chi trung, phi trung ngoại chi trung, vô phương sở, vô
định vị, thị chi bất kiến, thính chi bất văn, bác chi bất đắc, cổ nhân
suy kỳ lý, nhi tiếu kỳ hình, cưỡng danh chi:
Viết: Thập tự
nhai,
Viết: Tứ hội
điền,
Viết: Thông cù
lộ,
Viết: Mậu kỷ môn,
Viết: Nguyên tẫn
môn,
Viết: Nguyên quan
khiếu,
Viết: Sinh sát
xá,
Viết: Hình đức
môn,
Viết: Sinh tử
quan,
Viết: Âm dương
hộ,
Viết: Tính mệnh
khiếu,
Viết: Thiên địa
căn,
Viết: Nhân thú
quan,
Viết: Huyền thai
đỉnh,
Viết: Tạo hóa lô,
Danh hiệu đa
đoan, tổng nhi chi viết Trung.
Trung dã giả,
thiên hạ chi đại bản dã. Cắng cổ thánh hiền tiên phật giai tòng thử
trung nhi xuất. Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội. Phóng chi tắc di lục
hợp, quyển chi tắc thoái tàng ư mật. Ngộ chi giả lập tề thánh vị, mê chi
giả vạn kiếp trầm luân.
Cái thử trung nãi
Tính Mệnh chi căn. Tại Tiên Thiên Tính Mệnh như nhất nhi vi Trung. Tại
Hậu Thiên Trung phân nhi vi Tính Mệnh.
Kỳ thật Hậu Thiên
trung, phản xuất Tiên Thiên. Tính liễu mệnh ngưng, tính mệnh qui căn.
Nhưng thị nhất Trung. Lão Tử vân: Cốc thần bất tử, Thị vị Nguyên Tẫn
(Huyễn Tẫn), Nguyên Tẫn chi môn, thị vị Thiên Địa Căn.
Tử Dương vân:
Yêu đắc Cốc Thần
trường bất tử,
Tu tòng Nguyên
Tẫn lập căn cơ.
Cốc Thần tức
Trung dã. Nguyên Tẫn vi âm dương, tức tính mệnh dã; Cốc Thần bất tử,
Trung hàm tính mệnh. Nguyên Tẫn lập cơ tính mệnh thành Trung. Thủ thử
Trung giả thánh nhân dã. Thất thử Trung giả phàm nhân dã. Thánh phàm chi
phân tại đắc thất chi gian nhĩ. Nhất thiết thường nhân vi khí chất sở
câu, vi tích tập sở nhiễm, tính mệnh phân cư lưỡng xứ, Trung hữu khuy
tổn. Nhật khuy nguyệt tổn, tính loạn mệnh dao, thần hôn khí trọc, tương
Trung chi nguyên vật, toàn nhiên thất khước. Trung hữu nhất thất, tính
mệnh vô bản. Hình tuy động, nhi thần dĩ táng, yên năng trường cửu hồ.
Tam giáo thánh nhân dĩ Trung vi bản giả, dục nhân chấp thủ thử Trung bảo
toàn tính mệnh nhĩ.
Trung chi nhất
tự, vi tu đạo giả thủy chung chi yếu trước. Trúc cơ tại thử, thái dược
tại thử, phanh luyện tại thử, Ôn dưỡng tại thử, tiến dương tại thử,
thoái âm tại thử, kết đơn tại thử, thoát đơn tại thử. Thất phản cửu hoàn
vô nhất bất tại thử. Đản giá cá Trung
nhân bất dị kiến, diệc bất dị tri, bất khả dĩ hữu tâm cầu, bất khả dĩ vô
tâm thủ. Hữu tâm cầu chi, tắc lạc ư sắc tướng, vô tâm hữu chi, tắc nhập
ư không tịch, quân phi trung đạo. Chân chính chi trung phi hữu phi vô
tức hữu tức vô, phi sắc phi không, tức sắc tức không, bất lạc 〇 thiên, ư
hoảng hốt trung cầu, ư yểu minh nội tầm, thứ hồ cận yên.
Thiên hạ học nhân
bất tri thử trung thị cá thậm ma vật sự. Hoặc vị Huỳnh đình huyệt, hoặc
vị Thiên cốc huyệt, hoặc vị Bá hội huyệt, hoặc vị Giáng cung, hoặc vị
Minh đường, hoặc vị Yết Hầu, hoặc vị «Lưỡng thận trung gian».
Chấp thử ảo thân huyệt khiếu, tiện vị «Thủ Trung bão Nhất». Vọng ký
trường sinh. Bất đãn bất năng trường sinh, phản nhi xúc tử, Ai tai.
Nhu viết: Hỉ nộ
ai lạc chi vị phát vị chi Trung.
Hựu viết: Bất
thiên bất ỷ chi vị Trung.
Đạo viết: Tiền
huyền chi hậu hậu huyền tiền,
Dược vị bình bình khí tượng tuyền.
Hựu viết: Âm
dương đắc loại qui giao cảm,
Nhị bất tương đương tự hợp thân.
Thích viết: Ngô
hữu nhất vật,
Thượng trụ thiên
Hạ trụ địa
Vô đầu, vô vĩ
Vô bối vô diện.
Hựu viết: Xá Lợi
Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị
sắc. Phàm thử giai ngôn Trung chi thật lạc xứ dã. Nhược nhân năng ư đẳng
xứ lưu tâm, Cựu thâm nghiên cơ, tựu chính ư chân sư, nhận đắc chân chính
chi Trung, tương trự trượng tử, xuyên tại ngưu tị khổng trung, lập đăng
bỉ ngạn, tuyệt bất phí lực. Tòng thử trực tiến đại lộ, hoãn bộ thi hành,
chung hữu đáo gia chi nhật. Kinh vân: «Đắc kỳ nhất, vạn sự tất», khởi hư
ngữ tai.
TRUNG ĐỒ
中 圖
Sinh sát xá 生
殺 舍
Nguyên quan
khiếu 元關竅
Nguyên tẫn
môn 元 牝 門
Mậu kỷ môn 戊
己 門
Sinh tử quan
生 死 關
Hình đức môn
刑 德 門
Âm dương hộ 陰
陽 戶
Tính mệnh
khiếu 性 命 竅
Thiên địa căn
天地 根 |
Thông cù lộ 通 衢 路
Tứ hội điền 四 會 田
Thập tự nhai 十 字 街
Hư linh khiếu 虛 靈 竅
Hữu vô địa 有 無 地
Nhân thú quan 人 獸 關
Tạo hóa lô 造 化 爐
Huyền thai đỉnh 懸 胎 鼎
Chúng diệu môn 眾 妙 門
|
|
Chí linh chí
thánh chí thần.
Sinh thiên
sinh địa sinh nhân. |
至 靈 至 聖 至 神
生 天 生 地 生 人 |
Thị chi bất kiến,
thính chi bất văn, bác chi bất đắc.
視 之 不 見 聽 之 不 聞搏
之 不 得
Nghĩ chi tắc
thất, nghị chi tắc phi, tầm chi tắc vô.
擬 之 則 失 議 之 則 非尋
之 則 無
3. Dịch Việt Văn:
Nho nói: Chấp
trung. Đạo nói: Thủ trung. Thích nói: Hư trung. Một chữ TRUNG mà làm tâm
pháp cho cả ba tôn giáo Phật, Thích, Lão, để tu tính mệnh, thành đại
đạo. Sách vở trăm nghìn, nói lui nói tới, rút cục chỉ cốt giảng luận một
chữ đó.
Theo chữ triện
thì chữ TRUNG phát sinh do một vòng tròn 〇, và một nét sổ |.
Ở nơi người TRUNG
tức là điểm Thiên lương cầm cân nảy mực, hoàn hảo, trong sáng vì thế gọi
là Khí tiên thiên chân nhất. Trong vòng tròn 〇 có nét sổ | . Ý nói,
thiên lý hỗn nhiên lưu hành trên dưới chẳng hề ngừng ! và nét sổ ở giữa
vòng tròn. Vòng tròn chia đôi ɸ tả là dương, hữu là âm, tượng trưng cho
hình Hà Đồ, phía trái có khí dương, phía hữu có khí âm thăng giáng.
Tiết Đạo Quang
viết: Trước Trời đất có một vật không tên tuổi, tịch liêu vắng lặng, có
thể làm chủ vạn vật, không hề tàn tạ với quang âm.
Vòng tròn tượng
trưng cho tịch liêu, nét sổ tượng trưng ngôi chủ tể vạn vật, hư không vô
đối mà bao hàm thực hữu tuyệt đối, chí hư mà bao hàm chí thực, vì thế
gọi là Trung.
Trung này không
thiên ỷ, không trước sau,không lưng mặt đầu đuôi, vượt trên các danh từ
hữu vô, không sắc, hư linh viên mãn, biến ảo vô lường, không hình tượng
mà sinh hóa hữu hình, chủ tể vạn tượng: sinh trời, sinh đất, sinh nhân
vật.
Ở nơi người Trung
không phải là khoảng giữa hữu hình của xác thân, không phải là Khoảng
giữa của không gian trong ngoài; Trung đây không nơi chốn, không sở cứ,
nhìn chẳng ra, nghe chẳng thấy, cầm chẳng được.
Tạm gọi là:
Thập tự nhai,
Tứ hội điền,
Thông cù lộ,
Mậu kỷ môn,
Nguyên tẫn môn,
Nguyên quan
khiếu,
Sinh sát xá,
Hình đức môn,
Sinh tử quan,
Âm dương hộ,
Tính mệnh khiếu,
Thiên địa căn,
Nhân thú quan,
Huyền thai đỉnh,
Tạo hóa lô.
Danh hiệu tuy
nhiều nhưng thực ra chỉ tóm lại một chữ Trung. Trung là gốc lớn của
thiên hạ. Từ xưa đến nay, thánh hiền, tiên, phật, đều do đó mà ra. Trung
to không có gì ngoài được, mà nhỏ thì không có gì ở trong được. Tung ra
thì bao trùm không gian vũ trụ, thu lại thì ẩn áo huyền vi. Ai biết ra
thì thành Hiền, Thánh, ai không biết ra thì vạn kiếp trầm luân.
Trung đó là căn
bản của tính Mệnh. Trong Tiên Thiên, tính mệnh hợp nhất thành Trung.
Trong hậu thiên, Trung phân chia thành tính mệnh. Thực ra trong hậu
thiên sẽ xuất phát lại Tiên Thiên: Thế là tính mệnh quay về nguồn gốc,
âm dương đôi ngả vẹn tròn để trở về Nhất, Trung như cũ.
Lão Tử nói:
«Trời
bất tử trường sinh bất tử,
Cửa trường
sinh là cửa Càn Khôn.»
Tử Dương nói:
«Muốn
được Cốc Thần thường bất tử,
Phải từ
Huyền tẫn lập căn cơ.»
Cốc thần là
Trung, huyền tẫn là âm dương, là tính mệnh, «Cốc thần bất tử»
là chữ Trung bao hàm tính mệnh. «Huyền tẫn lập cơ»
là tính mệnh ngưng kết thành Trung.
Người giữ được
Trung là thánh nhân, người không giữ được Trung là phàm tục. Thánh phàm
khác nhau là ở chỗ được và chỗ mất đó. Người phàm tục bị khí chất câu
thúc, bị tập tục tiêm nhiễm, làm cho tính mệnh phân ly. Chữ Trung một
ngày một khuy tổn, tính mệnh giao động tán loạn, thần khí hôn mê ô trọc,
mà Trung kia thôi cũng đã sẩy sa. Mất Trung điểm thì mệnh không còn nền
tảng. Thân xác tuy còn cử động mà thần hồn đã chết từ bao, làm sao mong
trường cửu ?
Thánh nhân tam
giáo lấy chữ Trung làm căn bản, dạy người nắm lấy Trung mà bảo toàn tính
mệnh. Chữ Trung là gốc ngọn cương kỷ cho phương pháp tu thân: Xây nền
đắp tảng ở đó, hái thuốc luyện đơn ở đó, làm cho tinh thần tăng tiến,
vật chất thoái giảm cũng ở đó, mà thuốc trường sinh thành tựu cũng ở đó,
biết hoàn thành sứ mạng con người, lui gót về căn bản cũng nhờ đó.
Nhưng chữ Trung
đó không dễ thấy dễ biết, không thể để lòng phàm tục mà cầu, không thể
dùng lòng yếm thế mà giữ. Dùng lòng phàm tục mà cầu thì sẽ lạc vào hình
thức sắc tướng, dùng lòng yếm thế mà giữ thì sẽ sa vào vòng hư không
quạnh quẽ; cả hai chẳng phải Trung Đạo. Trung chân chính siêu việt trên
có trên không, không tù túng trong giới hạn nào. Muốn tìm Trung phải tìm
trong nơi phảng phất âm u của đáy lòng may ra mới thấy.
Học giả trong
thiên hạ không biết Trung đó là cái gì. Người thì bảo đó là huyệt Huỳnh
Đình, người thì nói là huyệt Thiên Cốc, huyệt Bá hội hay Giáng Cung,
Minh Đường, Yết hầu, Mệnh môn. Ôm ấp một cái huyệt trong tấm thân hư ảo
của mình mà cho là giữ được Trung được Nhất, thật là tìm trường sinh một
cách lầm lạc, nên chẳng được trường sinh mà chỉ gặp chết chóc. Thương
thay.
Nho nói: «Khi
chưa phát vui thương mừng giận thì gọi là Trung.» (Tức là khi chưa sinh
hiện tượng thì gọi là Trung).
Lại nói:
Không thiên ỷ là Trung.
Đạo nói:
Đứng sau thượng huyền, trước hạ huyền.
Dược vị bình bình, khí tượng nguyên.
Lại nói:
Âm dương đôi lứa về giao cảm,
Hai tám tương đương tự hợp duyên.
Thích nói:
Ta có
một vật
Trên
chạm Trời
Dưới
chạm đất
Không
đầu đuôi
Không
lưng mặt
Lại nói: Này Xá
Lợi Tử, sắc tức không, không tức sắc, sắc không giao hảo, không sắc hỗn
hợp.
Tất cả những lời
đó, đều là mô tả sở cứ của Trung.
Nếu ta có thể lưu
tâm nghiên cứu cho tận tường, tìm thấy hay mà học hỏi, nhận chân ra được
chữ Trung chân chính đó thì chẳng khác gì xỏ khoen vào mũi trâu
lập tức tới bờ bên kia, không phí sức
lực. Từ đó thẳng tiến trên con đường rộng rãi thênh thang thong thả tiến
bước rồi ra có ngày về tới nhà. Lời kinh nói «Được một sự là vạn sự xong
xuôi» chẳng lẽ lại là lời vô căn cứ hay sao ?
Những danh từ này trong Đạo Lão dùng
để ám chỉ Trung Điểm của Bát quái, tượng trưng cho ngôi Thái Cực hay Vô
cực. Đó là chỗ "Ngũ khí triều nguyên", đó là "Cửa càn khôn" cõi bờ của 2
đường sinh tử (Sinh tử quan, âm dương hộ, sinh sát xá).
Đạo Lão gọi Trung
điểm ấy là Huyền tẫn, Cốc thần,... Đó là căn để của Trời đất (Thiên địa
căn) là nơi hun đúc các bậc thánh hiền muôn thủa (tạo hóa lô, v.v..)
Cf. Đoạn VI Lão Tử Đạo Đức Kinh.
»
Mục Lục
»
Trung Dung Yếu Chỉ
» Phụ lục:
1 2
3
4 5
6 7
8 9
10
|