TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
PHỤ LỤC
5
»
Mục Lục
»
Trung Dung Yếu Chỉ
» Phụ lục:
1 2
3
4
5
6 7
8 9
10
NGUYÊN ĐẠO HUẤN
原
道
訓
Hoài Nam
Tử 淮
南
子
1. Hán văn:
夫 道 者 覆 天 載 地.
廓 四 方 柝 八 極.
高 不 可 際 深 不 可 測,
包 裏 天 地,
稟 受 無 形,
源 流 泉 浡 沖 而 徐 盈.
混 混 泊 泊,
濁 而 徐 清.
故 植 之 而 塞 天 地.
橫 之 而 彌 於 四 海.
施 之 無 窮 而 無 所 朝 夕.
舒 之 幎 於 六 合,
卷 之 不 盈 於 一 握.
約 而 能 張 幽 而 能 明.
弱 而 能 強,
柔 而 能 剛.
橫 四 維 而 含 陰 陽.
紘 宇 宙 而 而 彰 三 光,
甚 淖 而 滒,
甚 纖 而 微.
山 以 之 高,
淵以之 深,
獸 以 之走,
鳥 以 之 飛.
日 月 以 之 明.
星 歷 以 之行.
麟 以 之 遊,
鳳 以之 翔.
泰 古二 皇,
得 道 之 柄,
立 於 中 央.
神 與 化 游 以 撫 四 方.
是 故 能 天 運 地 滯,
輪 轉 淵 無 廢.
水 流 而 不 止 與 萬 物 終 始.
風 興 雲 蒸,
事 無 不 應.
雷 聲 雨 降,
並 應 無 窮.
2. Phiên âm:
Phù đạo giả, lý thiên, tải địa, khuếch tứ
phương, thác bát cực. Cao bất khả tế, thâm bất khả trắc, bao lý thiên
địa, bẩm thụ vô hình, nguyên lưu tuyền bột, xung nhi từ doanh. Hỗn hỗn
bạc bạc, trọc nhi từ thanh. Cố thực chi nhi tắc thiên địa, hoành chi nhi
di ư tứ hải, thi chi vô cùng, nhi vô sở chiêu tịch. Thư chi minh ư lục
hợp, quyển chi bất doanh ư nhất ốc. Ước nhi năng trương u nhi năng minh,
nhược nhi năng cường, nhu nhi năng cương. Hoành tứ duy nhi hàm âm dương.
Hoành vũ trụ, nhi chương tam quang, thậm náo nhi ca, thậm tiêm nhi vi.
Sơn dĩ chi cao, uyên dĩ chi thâm, thú dĩ chi tẩu, điểu dĩ chi phi.
Nhật
nguyệt dĩ chi minh, tinh lịch dĩ chi hành. Lân dĩ chi du phượng dĩ chi
tường. Thái cổ nhị hoàng, đắc Đạo chi bính, lập ư trung ương, thần dữ
hóa du, dĩ tứ phương. Thị cố năng thiên vận địa trệ, luân chuyển nhi vô
phế. Thủy lưu nhi bất chi, dữ vạn vật chung thủy. Phong hưng vân chưng,
sự vô bất ứng; lôi thanh vũ giáng, tịnh ứng vô cùng.
3. Phỏng dịch:
Hóa
công chở đất che Trời,
Mênh mông bốn hướng, chơi vơi tám tầng
Cao, cao vô tận vô ngần,
Thẳm sâu , sâu mấy muôn tầm, đo sao !
Trùm Trời, mà đất cũng bao,
Vô hình, vô tượng, dễ nào hình dung.
Nguồn tung, suối tỏa tưng bừng,
Ngỡ là sắp cạn, bỗng dưng đầy tràn.
Ào ào, cuồn cuộn, vang vang,
Ngỡ là vẫn đục, vẫn hoàn trong veo.
Trồng lên đất ngợp Trời teo,
Tung ra , bốn biển có chiều mung lung.
Ra tay linh diệu khôn cùng,
Quang âm khôn cản dặm chừng vân du,
Khi tung, Trời đất chưa vừa,
Khi thu, nhỏ xíu lọt thừa nắm tay,
Tuy co, mà dãn như mây,
Tuy mờ, mà sáng như ngày nắng chang.
Tơ non mà rất cương cường,
Mềm nhung mà dắn in tuồng thép gang.
Tràn bốn hướng, cưu mang nhật nguyệt,
Ngất Trời mây, soi hết trăng sao.
Mịn màng, thắm thiết biết bao,
Tế vi tiêm tất tả sao cho cùng,
Núi nhờ thế mà tung cao vút
Vực dựa uy, sâu ngút mịt mùng.
Ngài cho thú chạy trong rừng,
Cho chim tung cánh chín tầng mây xanh
Ngài tô ánh quang minh nhật nguyệt,
Ngài rong cương ruổi hết tinh huy.
Kỳ lân đùa rỡn cũng vì,
Phượng loan, bay bổng, quyền uy không ngoài
Đời thái cổ, có hai Hoàng đế,
Nhờ ơn Ngài chỉ vẽ trước sau,
Mới nên nhân đức nhiệm màu,
Thần thông hóa dục, dẫn đầu muôn phương.
Quyền uy Ngài khôn lường khôn tả,
Rung chuyển Trời, lắng cả đất đai,
Quay cho Trời đất vần xoay,
Xô cho nước chảy đêm ngày chẳng thôi.
Thủy chung để sánh đôi muôn vật,
Thổi gió giông, ủ ấp ngàn mây.
Việc gì cũng có dúng tay,
Ầm ầm sấm động, mưa bay tỏa quyền...
Chư tử văn túy, q.52, tr.1.
Đã in ở chương 10 của quyển 1: Bản thể và Hiện tượng luận theo Trung
Dung và Dịch lý .
»
Mục Lục
»
Trung Dung Yếu Chỉ
» Phụ lục:
1 2
3
4
5
6 7
8 9
10
|