TRUNG DUNG TÂN KHẢO
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
PHỤ LỤC
2
»
Mục Lục
»
Trung Dung Yếu Chỉ
» Phụ lục:
1
2
3
4 5
6 7
8 9
10
A. BÀN VỀ CHỮ TÍNH THEO
MẠNH TỬ
1. Phần Hán văn:
孟 子 曰:
人 皆 有 不 忍 人 之 心.
先 王 有 不 忍 人 之 心,
斯 有 不 忍 人 之 政 矣.
以 不 忍 人 之 心,
行 不 忍 人 之 政,
治 天 下 可 運 之 掌 上.
所 以 謂 人 皆 有 不
忍 人 之 心 者 今 人 乍
見 孺 子 將 入 於 井,
皆 有 怵 惕 惻 隱 之 心.
非 所 以 內 交 於 孺
子 之
父 母 也.
非 所 以 要
舉 於 鄉 黨
朋 友 也.
非 惡 其 聲 而 然 也.
由 是 觀 之 無 惻 隱 之心 非人 也,
無 羞 惡 之 心 非 人 也,
無 辭 讓 之 心 非人 也.
無 是 非 之
心 非
人
也.
惻 隱 之 心 仁 之 端 也,
羞 惡 之 心 義 之 端 也,
辭 讓 之 心 禮 之 端 也,
是 非 之 心 智 之 端 也.
人 之 有 是 四 端 也 猶 其 有 四 體 也.
有是 四 端 而
自 謂 不能 者
自 賊 者 也.
謂 其 君 不 能 者 賊 其 君 者 也.
凡 有 四 端 於 我 也 知 皆 擴 而 充 之 矣,
若 火 之 始 然,
泉 之 始 達.
苟 能 充 之 足 以 保 四 海.
苟 不 充 之 不 足 以 事 父 母.
2. Phiên âm:
Mạnh Tử viết: «Nhân giai hữu bất nhẫn nhân
chi tâm. Tiên vương hữu bất nhẫn nhân chi tâm, tư hữu bất nhẫn nhân chi
chính hĩ. Dĩ bất nhẫn nhân chi tâm, hành bất nhẫn nhân chi chính, trị
thiên hạ khả vận chi chưởng thượng.
Sở dĩ vị nhân giai hữu bất nhẫn nhân chi
tâm giả: Kim nhân sạ kiến nhụ tử tương nhập ư tỉnh, giai hữu truật dịch
trắc ẩn chi tâm. Phi sở dĩ nạp, giai ư nhụ tử chi phụ mẫu dã. Phi sở dĩ
yêu dữ ư hương đảng bằng hữu dã; phi ố kỳ thanh nhi nhiên dã.
Do thị quan chi: Vô trắc ẩn chi tâm, phi
nhân dã; vô tư ố chi tâm, phi nhân dã; vô từ nhượng chi tâm, phi nhân
dã; vô thị phi chi tâm, phi nhân dã.
Trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan dã; tu ố
chi tâm, nghĩa chi đoan dã; từ nhượng chi tâm, lễ chi đoan dã; thị phi
chi tâm, trí chi đoan dã. Nhân chi hữu thị tứ đoan dã, do kỳ hữu tứ thể
dã. Hữu thị tứ đoan, nhi tự vị bất năng giả, tự tặc giả dã. Vị kỳ quân
bất năng giả, tặc kỳ quân giả dã.
Phàm hữu tứ đoan ư ngã giả, tri giai
khuếch nhi sung chi hĩ, nhược hỏa chi thủy nhiên, tuyền chi thủy đạt.
Cẩu năng sung chi, túc dĩ bảo tứ hải; cẩu bất sung chi, bất túc dĩ sự
phụ mẫu.»
3. Dịch Việt văn:
Mạnh Tử nói rằng: «Người ta ai cũng có
lòng chẳng nỡ đối với kẻ khác. Những vị Thiên tử đời trước nhân có lòng
chẳng nỡ đối với kẻ khác, thành ra phổ cập lòng thương xót người trong
việc chính trị của mình. Bởi có lòng chẳng nỡ ấy, các ngài bàn đem lòng
thương xót mà thi hành trong chính sự cho nên các ngài trị thiên hạ
dường như có thể xây trở món đồ trên bàn tay.
Mình nói rằng người ta ai cũng có lòng
chẳng nỡ đối với kẻ khác, vậy hãy đem một ví dụ này làm bằng chứng: Tỷ
như có một đám người thấy một đứa bé sắp té xuống giếng. Thấy vậy, ai
cũng động lòng kinh sợ, thương xót mà muốn cứu đứa bé.
Đó không phải họ vì tình giao kết với cha
mẹ đứa trẻ mà muốn làng xóm, kẻ bằng hữu khen tặng mình; lại cũng không
phải vì tránh tiếng xấu là người bất nhân.
Do theo ví dụ ấy mà xét, mình có thể quả
quyết rằng: kẻ nào chẳng có lòng thương xót, kẻ ấy chẳng phải là người:
kẻ nào chẳng có lòng thổ thẹn, kẻ ấy chẳng phải lá người; kẻ nào chẳng
có lòng khiêm nhượng, kẻ ấy chẳng phải là người; kẻ nào chẳng có lòng
phải quấy, kẻ ấy chẳng phải là người.
Này, lòng thương xót là mối đầu của đức
nhân; lòng thổ thẹn là mối đầu của đức nghĩa; lòng khiêm nhượng là mối
đầu của đức lễ; lòng phải quấy là mối đầu của đức trí.
Người ta tự nhiên có đủ bốn mối ấy nơi
lòng, cũng như thân thể mình có hai tay hai chân vậy. Đã có đủ bốn mối
thương xót, hổ thẹn, khiêm nhượng và phải quấy ấy nơi lòng thế mà lại
nói rằng mình chẳng có thể làm theo những đức nhân, nghĩa, lễ, trí, đó
là tự hại mình vậy. Lại nếu nói rằng vua mình chẳng có thể làm theo bốn
đức ấy, đó là mình hại vua vậy (vì mình xúi vua bỉ việc đức hạnh).
Hễ mình có sẵn bốn mối ấy nơi mình, mà
mình biết mở rộng ra cho chúng nó được sung túc, thì chúng nó như ngọn
lửa nhen nhúm sắp cháy bung, như dòng suối phát tích sắp lưu thông. Nếu
mình biết làm cho bốn mối thương xót, hổ thẹn khiêm nhượng và phải quấy
ấy được sung túc nơi mình, thì mình đủ sức giữ gìn bốn biển; còn như
mình chẳng biết làm cho chúng nó được sung túc, thì mình chẳng đủ sức
phụng dưỡng cha mẹ.»
B. LUẬN VỀ TÍNH THEO CHU
HI
1. Phần Hán văn:
性 是 太 極 渾 然 之 體,
本 不 可 以 名 字 言 但 其 中 含 具 萬 理 而 綱 領 之 大 者 有 四.
故 命 之 仁,
義 禮 智.
孔 門 未 常 備 言.
至 孟 子 而 始 備 言之 者.
蓋 孔 子 時 性 善 之 理 素 明 雖 不 詳 者 其 條 而 說 自 具.
至孟子 時 異 端 蜂 起 往 往 以 性 為 不 善.
孟子思 有 以 明 之.
于是 別 而 言 之.
蓋 四 端 之 未 發 也.
雖 寂 然 不 動 而 其 中 自 有 條 理.
自 有 間 架,
不 是 儱 侗 都 無 一 物.
所 以 外 邊 纔 感 中 間 便 應.
如 赤 子 入 井 之 事 感 則 仁 之 理 便 應 而 惻 隱 之 心 於 是 乎 形.
如
過 朝 過 廟
之事 感 則 禮 之理 便 應.
而 恭 敬 之 心 於 是 乎 形.
蓋 由 其 中 眾 理 渾 具 各 各 分 明.
故 外 邊 所 過 隨
感 而
應,
所以 四 端 之 發 各 有 面 貌 之 不 同.
是 以 孟 子 析 而 為 四 以 示 學 者使知渾 然 全 體之 中 而 燦 然 有 條.
若 此 各 性 之 善 可 知 矣.
然 四 端 之 未 發 也 所 謂 渾 然 全 體 無 聲 臭 之 可 言.
無
形象 之 可 見,
何 以 知 其 燦 然 有 條 如 此.
蓋 示 理 之 可 驗 乃 依 然 就 他 發 處 驗 得.
凡 物 必 有 本 根.
性 之 理 雖 無 形而 端 的之 發 最可 驗.
故 由 其 惻 隱 所以 必 知 其 有 仁 由 其 羞 惡 所 以 必 知 其 有 義 由 其
恭 敬 所 以
必知 由 其有 禮,
由其 是 非 所 以
必 知 其 有
智.
使 其 本 無 是 理 于 內 則 何 以 有 是 端 于 外.
由 其 有 是 端 于 外 所 以 必 知 其 有 是 理 于 內,
而 不 可 誣 也.
故 孟 子 言 乃 若 其 情 則 可 以 為 善 矣,
乃 所 謂 善 也,
是 則 孟 子 之 言 性 善,
蓋 亦 溯 其 情 而 逆 知 之 爾.
2. Phiên âm:
Tính thị Thái cực hồn nhiên chi thể, bản
bất khả dĩ danh tự ngôn. Đãn kỳ trung hàm cụ vạn lý, nhi cương lĩnh chi
đại giả hữu tứ. Cố mệnh chi viết nhân, nghĩa, lễ, trí. Khổng môn vị
thường bị ngôn; Chí Mạnh Tử nhi thủy bị ngôn chi giả. Cái Khổng Tử thời,
tính thiện chi lý tố minh, tuy bất tường trứ kỳ điều nhi thuyết tự cụ.
Chí Mạnh Tử thời dị đoan phong khởi, vãng vãng dĩ tính vi bất thiện.
Mạnh Tử tư hữu dĩ minh chi. Vu thị biệt nhi ngôn chi. Cái tứ đoan chi vị
phát dã, tuy tịch nhiên bất động nhi kỳ trung tự hữu điều lý, tự hữu
gian giá, bất thị lung thống đô vô nhất vật. Sở dĩ ngoại biên tài cảm
trung gian tiện ứng. Như xích tử nhập tỉnh chi sự cảm, tắc nhân chi lý
tiện ứng, nhi trắc ẩn chi tâm ư thị hồ hình; như quá triều quá miếu chi
sự cảm, tắc lễ chi lý tiện ứng, nhi cung kính chi tâm ư thị hồ hình. Cái
do kỳ trung chúng lý hồn cụ, các các phân minh, cố ngoại biên sở quá,
tùy cảm nhi ứng; sở dĩ tứ đoan chi phát, các hữu diện mạo chi bất đồng.
Thị dĩ Mạnh Tử tích nhi vi tứ dĩ thị học giả, sử tri hồn nhiên toàn thể
chi trung, nhi xán nhiên hữu điều. Nhược thử các tính chi thiện khả tri
hĩ. Nhiên tứ đoan chi vị phát dã, sở vị hồn nhiên toàn thể vô thanh xú
chi khả ngôn, vô hình tương chi khả kiến, hà dĩ tri kỳ xán nhiên hữu
điều như thử ? Cái thị lý chi khả nghiệm, nãi y nhiên tựu tha phát xứ
nghiệm đắc. Phàm vật tất hữu bản căn, tính chi lý tuy vô hình, nhi đoan
đích chi phát tối khả nghiệm. Cố do kỳ trắc ẩn, sở dĩ tất tri kỳ hữu
nhân; do kỳ tu ố, sở dĩ tất tri kỳ hữu nghĩa, do kỳ cung kính sở dĩ tất
tri kỳ hữu lễ, do kỳ thị phi, sở dĩ tất tri kỳ hữu trí. Sử kỳ bản vô thị
lý vu nội, tắc hà dĩ hữu thị đoan vu ngoại. Do kỳ hữu thị đoan vu ngoại,
sở dĩ tất tri kỳ hữu thị lý vu nội, nhi bất khả vu dã. Cố Mạnh Tử ngôn
nãi nhược kỳ tình, tắc khả dĩ vi thiện hĩ, nãi sở vị thiện dã, thị tắc
Mạnh Tử chi ngôn tính thiện, cái diệc tố kỳ tình nhi nghịch tri chi nhĩ.
3. Dịch Việt văn:
Tính là bản thể hồn nhiên của Thái cực,
khó dùng lời lễ mà tả được. Tuy Tính hàm súc vạn lý, nhưng đại khái có 4
cương lĩnh lớn là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.
Khổng môn không minh xác vấn đề. Mạnh Tử
là người đầu tiên bàn bạc nghị luận tới một cách đầy đủ. Lý do là vì
thời Khổng Tử, thuyết tính thiện là một sự kiện hiển nhiên, tuy
không phân giải tỏ tường nhưng ai cũng chấp nhận. Đến thời Mạnh Tử dị
đoan tà thuyết nổi dậy tứ tung; thiên hạ đua nhau chủ trương tính ác,
vì thế Mạnh Tử mới để tâm phân giải cho tường tận.
Thực ra, khi bốn mối manh chưa phát hiện.
Tính tuy tịch nhiên bất động nhưng đã bao hàm mọi điều lý, đã có rường
cột ngăn nắp chứ không phải mung lung trống rỗng. Tuy nhiên, có bên
ngoài tới cảm, bên trong mới ứng, ví dụ: có thấy đứa bé sa xuống giếng
thì nguồn nhân mới ứng và lòng trắc ẩn mới sinh; như có đi qua đền chùa
miếu mạo, nguồn lễ mới ứng và lòng cung kính mới hiện. Tính bao hàm vạn
lý, có manh có mối phân minh, nhưng tùy cảm xúc bên ngoài mà ứng biến,
vì thế bốn mối manh khi phát hiện đều có diện mạo khác nhau.
Do đó Mạnh Tử phân tính làm bốn mối để cho
học giả thấy rằng trong sự hồn nhiên toàn thể vẫn có điều lý phân minh
và sự hoàn thiện của tính có thể hay biết được.
Nhưng, khi 4 mối manh chưa phát, khi tính
còn hồn nhiên toàn thể không tiếng không tăm không hình không tượng, khó
nói ra, khó nhìn thấy, làm sao biết nổi là điều lý phân minh ?
Sở dĩ biết được là nhờ căn cứ vào sự phát
hiện của tính mà suy nghiệm ra:
Phàm vật gì cũng có căn nguyên. Cái lý của
tính tuy vô hình nhưng mối manh nó phát ra dễ nghiệm.
Cho nên, do lòng trắc ẩn sẽ biết điều
nhân, do lòng tu ố sẽ biết điều nghĩa, do lòng cung kính sẽ biết điều
lễ, do lòng thị phi sẽ biết điều trí. Nếu không có căn bản bên trong,
làm sao có mối manh bên ngoài; cho nên có mối manh bên ngoài dĩ nhiên
phải có căn bản bên trong. Suy luận này sao mà lầm được.
Nên theo
Mạnh Tử thì căn cứ vào nhân tình ta có thể suy ra điều thiện (thiện đây
là tính thiện) ý nói đi ngược dòng tình cảm sẽ hay biết tính vậy.
Mạnh Tử
孟 子,
Công Tôn Sửu
公 孫 丑
[thượng-6].
»
Mục Lục
»
Trung Dung Yếu Chỉ
» Phụ lục:
1
2
3
4 5
6 7
8 9
10
|