TINH HOA CÁC ĐẠO GIÁO

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ


» Chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

 

»  mục lục   |   chương trước    |    chương kế

 

CHƯƠNG XXI.

VŨ TRỤ QUAN

(THEO TRUNG DUNG VÀ DỊCH LÝ)

 

Nho giáo chủ trương: Thiên địa vạn vật đồng nhất thể. [1] Bản thể đất trời thời duy nhất, nhưng hình tướng bên ngoài thì biến ảo muôn ngàn. (Thể duy nhất, dụng vạn thù).

Đà diễn tiến của vũ trụ như sau:

Vô cực [2] sinh Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, và cứ đà ấy tạo dựng quần sinh vũ trụ.[3]

Nói cách khác:

Trời sinh ánh sáng, ánh sáng sinh từ lực. Từ lực, tức nhị khí âm dương, sẽ tác dụng phối hợp nhau, theo những phương thức khác nhau, để sinh mây gió, nước lưả, núi non, trời đất.

Theo quan niệm trên, thì Vô hình dần dà cô đọng thành Hữu hình, ánh sáng dần dần biến thành thiên hình, vạn trạng.

Ngược lại với giáo lý các đạo độc thần (Thiên Chúa Giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo) chủ trương thế giới này đã được dựng nên bởi không (création ex nihilo), Nho giáo chủ trương thuyết sinh hoá (émanation et transformation), nghĩa là vạn hữu đã từ Nhất thể phân thân mà thành, một thuyết sinh hoá đặc biệt, vì hết chu kỳ biến dịch, lại trở về nguyên bản. (Thiên Địa tuần hoàn chung nhi phục thủy. -Nguyên Thủy phản chung). [4] Ta còn gọi đó là Thuyết: Thiên Địa Vạn Vật Nhất Thể.

Thái Cực hay Ánh Sáng Chí Tôn ấy như vừng dương ngự trị giữa hoàn võ, tung tỏa hào quang khắp nơi để duy trì sinh hoá. Đâu có sinh hoá, đấy có Thái Cực. Trong mỗi vi trần, đều có Thái Cực, trong mỗi nhân thân đều có Thái Cực. [5]

Thái cực còn gọi là Trung, vì bất biến, làm khu nữu cho vũ trụ; gọi là Dịch, vì làm cho vạn hữu biến hóa; gọi là Đạo vì là Nguyên Động lực muôn loài...

Từ trước tới nay, ít người hiểu hai chữ Vô Cực, Thái Cực của cổ nhân, nên từ ngữ đã làm chết nghẹt tư tưởng, và vì vậy không tìm ra được điểm tương đồng giữa các học thuyết Âu Á.

Nhưng nếu hiểu Vô Cực là “Trời Ẩn”, Thái Cực là “Trời Hiện”, thì ta sẽ biết ngay Thái Cực chính là Đạo, là Hóa Công, là Tạo Hóa. Như vậy, Vô Cực, Thái cực chỉ là hai phương diện Ẩn Hiện của Hóa Công (Non-Manifestation et Manifestation).

Hai phương diện này làm ta liên tưởng đến Brahman (Vô) và Isvara (Hữu); Nirguna (Vô Tướng = sans qualité), và Saguna (Hữu Tướng = avec qualité) trong kinh Veda của Ấn Độ. [6]

Đó cũng là quan điểm của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh.

“ Hoá Công hồ dễ đặt tên,

Khuôn Thiên hồ dễ mà đem luận bàn.

Không Tên sáng tạo thế gian,

Có Tên là mẹ muôn ngàn thụ sinh.

Tịch nhiên cho thấy oai linh,

Hiển dương cho thấy công trình vân vi.

Hai phương diện, một Hoá Nhi,

Huyền Linh khôn xiết, huyền vi khôn lường.

Ấy là “Chúng diệu chi môn”,

Cửa Thiêng phát xuất mọi nguồn huyền vi. [7]

“Thiên Địa vạn vật nhất thể “ là một học thuyết chung cho nhiều Đạo Giáo. [8]

Theo thuyết này, thì chỉ Tâm Điểm là trường cửu, là duy nhất, còn vạn vật vạn hưũ bên ngoài thì dị biệt biến thiên. Cho nên, nếu nhìn hẹp từng tầng, từng vật, thì thấy mọi sự đều chia phôi, xa lạ, còn nếu nhìn bao quát cả toàn thể, thì thấy mọi sự, mọi vật đều như lá, như cành, như hoa, như quả cùng chung một gốc, và trong những lớp màng, lớp áo, lớp vỏ biến thiên bên ngoài, còn có một tinh hoa trường tồn, vĩnh cửu.

có tầm mắt nhìn bao quát ấy, Trang Tử đã viết:

“Ta và Trời đất cùng sinh,

Ta và muôn vật, sự tình chẳng hai.” [9]

 

Trang Tử còn chủ trương:

“Nếu nhìn chỗ “dị biệt”, thì thấy gan, mật, như Sở, Việt chia phôi, nếu biết nhìn điểm tương đồng, thì vạn vật đều là một.” [10]

Càng đi ra bên ngoài, càng thấy tôn ti, quí tiện đôi đường cách trở, càng tiến vào bên trong, càng tiến tới chỗ tương đồng. Vào đến Tâm Điểm, đến Đạo, đến Thái Cực, thì hết phân quí tiện, vì vạn vật đều mang Thái Cực. Đó chính là chỗ Tề Vật của Trang Tử.[11]

Theo Alfarabi, một triết gia Ả Rập thời Trung Cổ, thì trong tác phẩm Thần Học (Théologie), Aristote cũng chứng minh sự hiện diện của Duy Nhất trong lòng mọi tạp thù dị biệt. [12]

Áo Nghĩa Thư (Upanishad) chủ trương: dưới những lớp biến thiên, ảo hóa bên ngoài của vũ trụ, có một Bản Thể duy nhất: đó là Tuyệt Đối thể, là Brahman, hay Atman căn nguyên của vũ trụ, và chân tâm của con người.[13]

...”Như nhện chăng tơ, như lửa sinh tàn, tự Chân Tâm cũng phát xuất ra mọi nguồn sinh lực, mọi vũ trụ, mọi thần minh, mọi vạn hữu...”[14]

Sách Zohar, một sách Huyền Học Do Thái cũng đồng quan điểm như vậy, khi chủ trương:

“Thượng đế là Trung Điểm, vạn hữu bao bọc chung quanh, thành nhiều vòng, hay nhiều thế giới đồng tâm.

Thượng đế phát huy ra vũ trụ, nên sự phát triển của vũ trụ tiến từ tầng trong ra tới tầng ngoài, và vô hạn giáng phàm dần tới hữu hạn...Trong là Thượng giới, ngoài là Hạ giới; trong cùng là tinh thần, ngoài cùng là vật chất, vòng ngoài bao bọc, hỗ trợ vòng trong như vỏ, như cùi bảo vệ cho nhân, cho hạt...[15]

Kinh Hoa Nghiêm, theo Đào Hư Tử, cũng chủ trương:

Vạn lý đều do một Tính mà phát xuất ra.[16]

Kinh Lăng Nghiêm viết: Các Pháp đều do tâm biến hiện.[17]

Vũ Trụ quan này đưa đến những kết quả sau:

1.Trời, người tương quan mật thiết với nhau: Trời là Nhân, người là quả, là vỏ bọc. [18]

2.Trời bất biến, người biến thiên. Đã biến thiên thì không vĩnh cưủ. Vậy con người muốn vĩnh cửu, muốn trường sinh bất tử, phải kết hợp với Trời, Nhân Tâm phải kết hợp với Đạo Tâm. Trường sinh bất tử không phải là một dữ kiện (Fait), mà là một công trình phải thực hiện (oeuvre à réaliser).

Thực ra, Cựu Ước cũng chủ trương:

“ Sự kết hợp với đức Minh Triết đưa ta đến chỗ bất diệt.”[19].

Thế là:

Dục cầu nhân bất tử,

Tu tầm bất tử Nhân.[20]

Dịch:

“Muốn cho người được trường sinh,

Phải tìm ra đấng huyền linh trường tồn.”

 

3.Trời ví như căn bản, nguồn gốc; nhân loại, quần sinh, ví như những cành lá (mạt), những dòng sông (lưu). Trời là Thể (Essence), nhân loại quần sinh là những hiện tượng (phénomènes), những ứng dụng bên ngoài (dụng = Services). Trời thì vi ẩn; nhân loại, quần sinh thì hiển hiện, nhưng đôi bên đều mật thiết tương quan với nhau.

Chu Hi viết:

Thể dụng nhất nguyên, hiển vi vô gián

體 用 一 源, 顯 微 無 間

 

Dịch:

 

Thể với Dụng đều chung gốc rễ,

Hiển cùng vi khôn nhẽ chia phôi. [21]

 

4.Đi từ Trời xuống quần sinh, vũ tru, từ tinh thần ra vật chất là trụy lạc, là thoái hóa, nhưng cũng là tạo tác. Đi từ quần sinh vũ trụ lên tới Trời, từ vật chất về tinh thần là siêu thoát, là tiến hóa, là thần thánh hoá bản thân. Đó là Bí quyết “Qui Nguyên, phản Bản” “Trở về gốc, quay về nguồn”, [22] hay “Âm Dương điên đảo” [23] của người xưa.

5.Như vậy, sự tạo dựng trong vũ trụ chưa chấm dứt, bao lâu còn biến thiên, bấy lâu còn tạo dựng. Bao lâu con người còn cần tu luyện, thì bấy lâu lò cừ Tạo hoá còn chưa ngừng công việc được.

6.Vũ trụ quan trên xây nền tảng cho cả một hệ thống đạo lý và siêu hình học.Chỉ có Đạo, có Thái Cực, có Tuyệt Đối mới là nguồn mạch sự sống, là chân lý bất biến, là điểm hội tụ tối hậu cho nhân loại, còn các hiện tượng, hình danh, sắc tướng bên ngoài đều là tuồng biến thiên, ảo hóa.Muốn trở nên Thánh, Hiền, Tiên, Phật, muốn trường sinh, bất tử, điều kiện tiên quyết là phải biết “ võng tượng”, lìa bỏ các hiện tượng, các hình ảnh; theo Trung Đạo, “dữ Đạo hợp Chân”, cho tâm thần đạt tới và sống trong Tuyệt Đối Thể.[24] Các Hiền Thánh xưa đều muốn qui vạn thù về một mối, cho các trào lưu tư tưởng, ước mơ chảy ngược dòng để đổ về lại căn nguyên, đều muốn sống hòa đồng với Tuyệt Đối Thể, đều muốn không còn cái “ mình”, cái “ta” nhỏ nhoi, ti tiện nữa, lấy phương châm “Vô Ngã” làm mục đích tối hậu cho công phu tu luyện.[25]

7Vũ trụ quan trên cho thấy tại sao con người phải tiến tới Vô Ngã, phải hòa đồng với Đạo, với Trời, mới được trường sinh, bất tử, mới mong tiến tới Đại Đồng (universalité) [26].

Lý do rất là giản dị: Vì chỉ có Bản Thể mới vĩnh cửu, còn hiện tượng ứng dụng thì biến thiên theo thời, khi còn, khi mất, thăng trầm, chất chưởng. Đằng khác, Thái Cực là toàn thể, quần sinh là phân số, là bộ phận, cho nên muốn tiến tới Đại Đồng (Universalité), phải tiến tới toàn thể. Theo Nho giáo, thánh nhân cần phải có độ lượng tâm hồn mênh mông bằng tầm thước vũ truï, nghĩa là phải biết trút bỏ hết mọi giới hạn, màu da, sắc áo, lối đường tư tưởng riêng biệt, gạt bỏ hết mọi nhỏ nhen, ti tiện, để tiến tới công chính, cao đại, tôn quí.[27]

8.Tìm Trời tìm Đạo phải tìm trong đáy lòng.

Cổ nhân gọi đó là “ Hồi Tâm Phản Tỉnh” hay “Phản Thân nhi thành” [28]. Và các phương pháp tham thiền, nhập định, (contemplation, concentration et extase) cũng cốt là để kết hợp với đấng Tối Cao. [29]

9. Biết được Trời lồng trong tâm khảm, để làm khuôn phép mẫu mực, làm căn cốt cho tâm hồn, tức là thấu triệt nghĩa lý, là hiểu biết tới căn để. Đó là Cách vật, trí tri theo Đại học.

“Dày công học vấn sẽ hay Khuôn Trời,

Hay Khuôn Trời ắt thôi thấu triệt.

Thấu triệt rồi ý thiệt lòng ngay,

Lòng ngay, ta sẽ hóa hay...” [30]

Đó là cái hiểu biết cao siêu nhất của nhân loại. [31]

10.Trở về với Trời, với Đạo, với Thái Cực tức là thông suốt nhẽ huyền vi: “Tạo hoá qui Trung chi diệu.” [32]

Công trình này người xưa gọi là:

 

Kiến tố bão phác

見 素 抱 樸。[33]

Qui Nguyên phục Mệnh.

歸 元 復 命。

Phục qui Đạo

復 歸 道 [34]

Phục qui Anh Nhi

復 歸 嬰 兒。[35]

Phục quy Vô Cực

復 歸 無 極。[36]

Phản kỳ Chân

反 其 真。[37]

Phục kỳ bản

復 其 本。

Qui nguyên phản bản

歸 元 返 本。[38]

Dữ Đạo hợp Chân

與 道 合 真。

Toản thốc ngũ hành

攢 簇 五 行

Hội hợp Bát quái

會 合 八 卦。

Tam hoa qui đỉnh

三 華 歸 頂。

Ngũ khí triều nguyên

五 氣 朝 元。[39]

Minh bạch nhập tố

明 白 入 素。[40]

Vô vi phục phác

無 為 復 扑。 [41]

Thể Tính bão Thần

體 性 抱 神

 

Trở về với Trời, kết hợp với Trời là đạt Đạo, đạt đích (chí Nhân), là trở thành Con Người Thật (Chân Nhân). Đó là Thung Dung Trung Đạo.[42]

Theo Vũ Trụ Quan trên thì Vạn Vật do Trời sinh, dù phiêu lãng mấy trên trùng dương thời khắc, chung qui cũng vẫn phải trở về với Trời, với Đạo.[43]

Con người theo một qui luật như vũ trụ, nên trước sau cũng phải về với Đấng Tối Cao. [44]

Trung Dung là cứu cánh con đường đó. Đạt đạo Trung Dung sẽ trường sinh vĩnh cửu. Thanh Tĩnh Kinh giải thích vĩnh cửu, trường tồn là Trung Dung. (Thường giả, Trung Dung dã)[45]. Người Âu Châu thường công kích quan niệm trên và cho là “ phiếm thần chủ nghĩa.”

Nhưng thay vì bàn cãi suông, nếu ta dở Thánh Kinh, nếu ta khảo sát giáo lý, hay nghiên cứu tư tưởng các thánh hiền Thiên Chúa Giáo, ta sẽ thấy những chủ trương tương tự.

Các Hiền thánh Thiên Chúa Giáo cũng tin:

1.      Thượng đế ở khắp nơi. (Omniprésence de Dieu)

2.      Vạn vật đều do Ngôi Hai sáng tạo.[46]

3.      Con người là dòng dõi Thượng Đế, [47] có thể thông phần Bản thể với Thượng Đế.[48]

4.      Nước Trời ở đáy lòng .[49]

5.      Vinh quang Trời ở trong lòng nhân loại. [50] Hơn thế nữa, vài vị Đại Thánh còn nhận:

6.      Trời là Bản Thể muôn loài. [51]

Vả lại, đã chấp nhận Thượng đế ở khắp nơi, sao lại không dám nghĩ Thượng Đề có ở đáy lòng nhân loại? Nếu đã chấp nhận nước Trời ở đáy lòng, thì Trời ở đâu nếu không phải ở đáy lòng nhân loại?

Nếu Trời đã ở ngay trong thâm tâm nhân loại, thì tìm Đạo, tìm Trời phải tìm ở đáy lòng, tìm trong suy tư, thầm lặng, hay phải tìm Trời, tìm Đạo trong những tiếng kèn, tiếng trống, tiếng đàn, tiếng hát bên ngoài?

Và thế nào là người đạo hạnh, nếu không phải là người có Thiên Chúa hiện diện đáy lòng, và không còn ước mơ ngoại cảnh. [52]

Một khi đã xác định Trời ở đáy lòng, nước Trời ở đáy lòng, thì sự siêu thoát chắc chắn phải được thực hiện bằng sự thông suốt điều huyền nhiệm đó, và bằng những công cuộc tu luyện tâm thần, tham thiền, nhập định, diệt dục,vong ngã, để kết hợp với đấng Tối Cao.

Suy ra, thì Thượng giới ở ngay trong tâm hồn ta, mà hạ giới chính là thế gian ở ngoài ta. Càng tiến ra bên ngoài, là càng đi vào tục lụy, càng bị lệ thuộc vào hoàn cảnh, không gian và thời gian. Càng tiến vào bên trong, là càng thoát vòng kiềm tỏa của vật chất, của ngoại cảnh...cho nên, muốn khinh khoát, tự do, cần phải có một đời sống nội tâm rồi rào, phong phú. [53]

Từ Vô Cực, Thái Cực biến hóa xuống dần tới vạn hữu, là từ cao siêu, đi dần xuống tới ti tiện, là bước dần xuống các nấc thang giá trị, cho tới kỳ cùng. Đi từ vạn hữu trở về Thái Cực, Vô Cực là tiến từ ti tiểu tới cao đại, là bước dần lên các nấc thang giá trị, cho tới hoàn hảo siêu việt.[54] Đó là nhẽ tồn vong, thăng trầm của vũ trụ.

Nhưng vì Vô Cực, Thái Cực ở ngay trong đáy lòng con người, nên nếu cứ để cho tâm hồn tản lạc, phá tán, theo các hiện tượng bên ngoài, thì sẽ đi đến chỗ trụy lạc, tan rã; còn nếu biết đi trở ngược, từ hiện tượng nhận ra tâm hồn, thần trí, Thái Cực, Vô Cực tiềm ẩn trong đáy lòng, thì sẽ tìm ra được con đường siêu thoát. [55]

Vũ trụ quan trên, cũng như toàn bộ Trung Dung, và Kinh Dịch, chẳng qua cốt dạy con người đâu là nguồn mạch của mình, cũng như đâu là quê hương cùng đích của mình...

Theo Vũ Trụ quan trên thì không gian và thời gian cũng biến động, cũng co giãn khôn lường. Càng đi sâu vào nội tâm, càng đi sâu vào tầng trong, thì không gian, và thời gian càng co lại, tưởng chừng đi đến không điểm (le Cinq ou le Zéro métaphysico-mathématique)[56], mà kỳ thực lại tiến tới vĩnh cửu, trường tồn. Càng tiến ra bên ngoài thì không gian và thời gian càng giãn ra, dài ra, tưởng chừng tiến tới vô cùng, mà kỳ thực là tiến tới phù du, hư ảo; cho nên một giây phút trong tâm thần có thể tương đương với mấy nghìn vạn năm bên ngoài. Tinh Thần cũng vì thế có thể nói được không tương lai, và dĩ vãng, hằng cửu, bất biến. Cho nên một cuộc đời vật chất bên ngoài, nghĩ đi, nghĩ lại cũng chỉ nhanh như một giấc mộng.

“Bôn ba đời nghĩ buồn rầu,

Hư không giấc mộng đêm thâu, thấy gì.

Vô thường muôn việc bỏ đi,

Kíp hồi đầu lại kẻo khi ngỡ ngàng”.[57]

Vũ trụ quan trên có thể nói được là một quan niệm chính xác về vũ trụ, vì nó bộc lộ huyền cơ tạo hoá, quán thâu nhẽ biến hằng của đất Trời, toát lược lịch sử nhân quần vũ trụ, cũng như phác hoạ cơ cấu nhân quần vũ trụ bằng một tâm điểm và một vòng tròn, bằng một chữ Trung và một chữ Dịch.

Mới hay Trung Dung Kinh Dịch chủ trương dạy người một môn học cao siêu, có mục phiêu là “ Thấu suốt Bản Tính và Định Mệnh “ mình, để chung cuộc sẽ được kết hợp với Trời với Đạo. [58]

Thâm ý của Thánh hiền là làm sao cho mọi người, kẻ trước, người sau, ai ai cũng có thể đạt được Trung Điểm, đạt được “Thái Cực”, “Chí cực”, “Vô Danh khả danh”. [59]

Theo Dịch Kinh, khi người quân tử đã am tường Trung Cung, Trung Điểm, khi Bản Thể đã ở đúng ngôi vị của nó, -nói cách khác, khi con người đã đạt tới Thiên Vị, đã kết hợp được với Trời,-[60] thì bao nhiêu sự tốt tươi, đẹp đẽ từ đáy thẳm, lòng sâu tâm hồn sẽ tung tỏa ra khắp cơ thể, sẽ thấm nhuần khắp tứ chi, sẽ chói lọi trong sự nghiệp. Thật là đẹp đẽ đến tuyệt vời vậy.[61]

Nhưng con người muốn trở về Trung Cung, Trung Điểm, muốn được thông tuệ, diệu minh, cần biết suy tư vì có suy tư mới biết huyền cơ Tạo Hoá, mới có thể thần thánh hóa mình, và trở nên hoàn thiện được.[62]

Cao đại thay là căn nguyên con người, trọng vọng thay là định mệnh con người, Đẹp đẽ thay là công phu tu luyện của con người.

Còn gì làm cho ta sung sướng hơn là cảm thấy Trời ngay trong lòng, là nguồn sống và là cùng đích mình; có thần trí thông minh để nhận ra chân lý đó; có thời gian, không gian và vạn hữu làm phương tiện cho công phu, tu luyện ; tu luyện để nên hoàn thiện như Trời, để rồi ra được kết hợp với Trời, thông phần bản tính và vinh quang Trời, trường sinh vĩnh cửu cùng Trời đất.[63]

Tóm lại vũ trụ quan trên đây là kết tinh của một nền học vấn cao siêu, tương truyền từ Đông sang Tây.

Nhờ vũ trụ quan này mà các hiền thánh muôn đời đã dược “ khai quang, điểm nhãn” [64] dùng mắt tinh thần nhìn nhận ra Thượng Đế ở khắp nơi, và thấy mình sống trong vinh quang Thượng Đế. [65]

Gẫm cho cùng thì:

Muôn loài sinh hoá đa đoan,

Rồi ra cũng phải lai hoàn Bản Nguyên.

Hoàn Bản Nguyên an nhiên phục mệnh,

Phục Mệnh rồi trường vĩnh vô cùng. [66]

 

Cổ nhân vì vậy dùng Tâm Điểm của vòng Dịch để tượng trưng cho Trời vừa là căn bản của vũ trụ, vừa là mục đích tối hậu của công cuộc tu luyện, tiến hoá của quần sinh, vũ trụ.

Cho nên Trung Dung chí cao chí đại vì đưa con người đến vinh quang tuyệt đối. Phải mở tầm mắt, phải mở tầm tâm hồn cho rộng rãi vô biên thì mới tìm ra được Điểm Trung. [67]


 

CHÚ THÍCH

[1] ...Considérer l’univers comme faisant un tout et où le désordre d’une partie se répercute dans le Tout -considérer encore l’homme au centre de cet univers et faire du coeur de l’homme le coeur de l’univers: telle est l’idée contenue dans les livres classiques et exprimée surtout par les philosophes des Song...Avec tous les penseurs chinois, il (Wang Yang Ming) répète que “ l’homme c’est le coeur de l’univers; l’univers avec moi constitue un seul corps (un tout)”

Wang Tch’ang Che, S.J., La Philosophie Morale de Wang Yang Ming, p. 74-75.

也。 也。 天。

Nhân giả, Thiên địa, vạn vật chi tâm dã. Tâm giả, Thiên Địa vạn vật chi chủ dã. Tâm tức Thiên.

Như trên, appendice, 10.

[2] 形, 極。Lý bản vô hình, cố vị chi Vô Cực.

[3]Thái cực đồ thuyết của Chu Đôn Di, Chu Nguyên Bồi, Tính Học Đại Cương, q.1, tr. 1.

[4] L’Extrême-Orient ancien a fait partie d’un monde où la coexistence de grands courants spirituels (Zoroastre, Bouddha, Confucius, Lao-tseu, Platon), ne s’explique que par certaines idées communes unanimément admises de la Méditerranée au Pacifique. Toutes ces vieilles cultures eurasiatiques se présentent comme des cosmologies pour lesquelles une même substance compose toutes les choses créées.

Pierre Huard, Connaissance du Vietnam 63.

...Đạo sinh Nhất: Nhất vi Thái Cực, Nhất sinh nhị vi Lưỡng Nghi; Nhị sinh Tứ, vi Tứ Tượng; Tứ sinh bát vi Bát Quái; Bát sinh Lục Thập tứ; Lục Thập Tứ cụ nhi hậu Thiên Địa vạn vật chi đạo bị hĩ. Thiên Địa vạn vật mạc bất dĩ Nhất vi Bản Nguyên, vu nhất nhi diễn chi vi vạn, cùng Thiên Địa chi số phục qui vu nhất. Nhất giả hà dã, Thiên Địa chi tâm dã. Tạo hóa chi nguyên dã.

Tống Nguyên Học Án, quyển 10, tr. 62, Ngữ lục Tống Nguyên học Án.

生一, 極;一 二, 儀;

  象, 為中K卦, 四;

  矣。 原,

  萬, 一。

  之心 也。 也。

..."Tất cả là Một, tất cả chúng sinh đều từ Phổ Quang Minh Trí (Lumière omniprésente, Intelligence éclairante) mà ra, thì tất cả sẽ trở về với Ánh Sáng Trí Trí Huệ ấy, tức là thành Phật. “

Mai Thọ Truyền, Pháp Hoa Huyền Nghĩa, tr. 30.

[5] 者, 先。 生, 也。

有物, 象, 數, 隅, 在。 知。

地, 極, 極,

之理。地 理 正 宗 一, 四。

Thái Cực giả, sở vị tượng đế chi tiên, tiên thiên địa sinh, năng sinh thiên địa vạn hóa chi tổ căn dã. Bản vô hữu vật, vô tượng, vô số, vô phương sở, vô vãng bất tại, ngôn Thái Cực tắc Thái Cực khả tri...

Đại nhi Thiên Địa, tế nhi vạn vật, mạc bất các hưũ Thái Cực, vật vật nhất Thái Cực , nhất vật toàn cụ nhất Thiên Địa chi lý.

Địa Lý Chính Tông, quyển I, tr. 4.

[6] A Source Book in Indian Philosophy, p. 38.

[7] Đạo đức kinh chương I.

冓子 之始, 母, 之。

  也。 而太 極, 旨。

Lão tử thủ chương ngôn vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh thiên địa chi mẫu, nhi tốt đồng chi. Thử Lão Thị tông chỉ dã. Vô Cực nhi Thái Cực thị thử chỉ.

Tống Nguyên học án, q. 12, tr. 3. Liêm Khê học án.

[8] Aussi, dans diverses traditions, voyons-nous la création à partir d’un centre, parce que là se trouve la source de toute réalité, et partant, de l’énergie de vie.Il arrive même que les traditions cosmologiques expriment le symbole du Centre dans les termes qu’on dirait empruntés à l’embryologie: “ Le très Saint a créé le monde comme un embryon. Tout comme l’embryon croit à partir du nombril, de même Dieu a créé le monde par le nombril, et delà il s’est répandu dans toutes les directions.”

(Textes cités par Wensick, p. 19). Yoma affirme: “ Le monde” a été créé en commencant par Sion.” (Như trên, p. 16). Aussi dans le Rig Véda (p. ex.: X, 149) l’univers est concu comme prenant son extension à partir d’un point central (Cf. le Commentaire de Kirfel, Cosmographie, p. 18).

Mircéa Eliade, Traité d’histoire des religions, p. 323.

[9] 生, 而萬 一。

Thiên Địa dữ Ngã tịnh sinh, Nhi vạn vật dữ Ngã vi Nhất.

Trang Tử, Nam Hoa Kinh, Tề Vật Luận.

[10] 之, 之, 皆一

Tự kỳ dị giả thị chi, can đởm Sở Việt dã. Tự kỳ đồng giả thị chi, vạn vật giai nhất dã.

Từ khác biệt mà trông vạn vật,

Thì chia phôi gan mật, Việt Ngô.

Nhưng từ đồng điểm nhìn ra,

Muôn loài là một, phôi pha chưa từng.

Nam Hoa Kinh, Đức Sung Phù.

[11] 之, 賤; 之, 賤。
Dĩ Đạo quan chi vạn vật vô quí tiện, dĩ vật quan chi, tự quí nhi tương tiện.

Nam Hoa Kinh, Thu Thủy.

[12] En son écrit, Théologie, Aristote démontre la présence de l’Un au sein de toute multiplicité...

Alfarabi, hay Ibn Tar Kan là một Triết Gia Ả Rập sinh tại Farab, chết nâm 950.

Cf. La Religion Essentielle, p. 107.

... Étienne Geoffroy St Hilaire, Vicq D’Azyr (1748-1794), Goethe (1749-1803) cũng chủ trương thuyết “Nhất Thể Vạn thù”, mà các Ông gọi là “ modèle primitif et général” hay “ Urpflanze” (Herder, Idée pour la Philosophie de L’Histoire de L’Humanité. p. 18 et ss, 97 et ss.)

[13] The Ultimate Reality should be designated generally as Brahman... and as It or That....The paradoxical, transcendent, yet  immanent unity underlying the diversity of the world.
A source book in Indian Philosophy, p. 39.

... The One God hidden in all living beings,

The Living Witness abiding in all hearts-

The wise who seek and find them-Self,

To them and none else is eternal joy.

The all pervading inner Self of all,

Who from his formlessness creates all forms,

The wise who see that One within them -self,

To them alone belongs eternal joy.

A prayer to the Supreme Being, translated from the Upanishad by Dr Bhagavan Das, Wisdom Light, Volume Seven, March, 1955, number Three, p. 34.

Cf. Chandogya Upa. 6,3.-Taittiriya Upa. 2-6.

[14] As a spider might come out with his thread, as small sparks come forth from the Fire, even so from this soul come forth all vital energies (Prana), all worlds, all gods, all beings.

Brihad-Aranyaka-Upanishad, 2-1-20.

[15] ...De la sorte, le développement de l’Infini vers le Fini porte en soi des dégradations du parfait vers l’imparfait....En ce sens, le développement des choses se fait du Centre vers la Périphérie, et par suite aux ordres successifs; ces ordres s’échelonnent comme des cercles concentriques...

L’univers créé tout entier, n’est donc que l’écorce de l’Ensof comme les pelures de l’oignon sont les vêtements du bulbe ou comme la coquille de la noix et le reste sont le vêtement de la graine.

H. Sérouya, La Kabbale, Chapitre Esprit et Matière, pp. 270-271.

[16] 經; 出。 經, 空。

Độc Hoa Nghiêm Kinh: Vạn lý do nhất Tính nhi xuất. Độc Lăng Già kinh, quần nghi cứu nhất Tính nhi không.

Đào Hư Tử, Đông Châu kỷ thượng ngữ-tràng 3

[17] 緣, 使, 法,

    現。 身, A 精, 物。

Ta thường nói các Pháp đều do tâm biến hiện cho đến thân và tâm ông ngày nay cũng đều là vật trong Chân Tâm hiện ra.

Thủ Lăng Nghiêm Kinh, q. II, cf. Thủ Lăng Nghiêm Kinh, hướng đạo xuất bản, tr. 44.

[18] 為表 裡。

Thiên dữ Nhân tương vi biểu lý.

Tính Lý q. 2, tr. 54.

... 外。

Thiên tại nội, Nhân tại ngoại.

Nam Hoa Kinh, Thu Thuỷ.

... 天。。。良 天。

Vương dương Ming, Vương xương Chỉ, La Philosophie morale de Wang Yang Ming, appendice 10.

... 也, 也。 二, 也。

Thiên dã, nhân dã, nhất nhi nhị, nhị nhi nhất dã.

Thái Thượng bảo Phiệt đồ Thuyết, tr. 4.

也, 也。 道, 人也。

Thiên tính nhân dã, nhân tâm cơ dã. Lập thiên chi đạo, dĩ định nhân dã.

Âm Phù Kinh, tr. 1.

[19] L’immortalité est le fruit de l’union avec la Sagesse.

Livre de la Sagesse, 8, 17.

[20] 死, 人。

Dục cầu nhân bất tử, tu tầm bất tử nhân.

Tiên Học tr. 102.

... 基。

Thiên Nhân hợp đức, vạn biến định cơ.

Âm Phù Kinh, tr. 1.

[21] Dịch Kinh Đại Toàn, Truyện Tự , tr. 5.

[22] 妙, 機。

Minh Tạo Hóa chi diệu, tri phản hoàn chi cơ.

Tiên học, tr. 21.

[23] 天心 合, 時。

Nhân tâm nhược dữ Thiên Tâm hợp, điên đảo Âm Dương chỉ phiến thời.

Tiên Học, tr. 7.

[24] 象, 有, 而遷, 而無 之真 矣。

, 元。 主,

事。

Tuần tượng, chấp hữu, trục vật nhi thiên, nhi Vô Cực chi chân cảnh bất khả kiến hĩ. Thánh nhân dĩ Tĩnh nhất tự, phản Bản hoàn Nguyên. Cái Tạo hóa, Nhân sự giai dĩ thu liễm vi chủ, phát tán thị bất đắc dĩ sự.

[25] Các Đại Thánh Thiên Chúa Giáo cũng không đi ra ngoài tôn chỉ ấy. Phúc Âm dạy “Bỏ Mình” (Mat. 16, 24, 25; Lc 9, 23-27; Mc 8, 34).

Các Thánh Hiền Thiên Chúa Giáo đều mong muốn tâm hồn tan biến đi, để kết hợp với Thượng đế. Như lời nguyện của thánh Bonaventure sau đây:

En sorte que mon âme languisse et se fonde sans cesse d’amour et de désir pour vous seul. Qu’elle soupire après vous, et se sente défaillir à la pensée de vos tabernacles, qu’elle n’aspire qu’à sa délivrance, et à son union avec vous.

Prière de Saint Bonaventure, Paroissien Romain, p. 58.

[26] 盡, 感。

Vô Ngã nhiên hậu đắc chính kỷ chi tận, tồn thần nhiên hậu diệu ứng vạn vật chi cảm.

Thái Nguyên Bồi, Lý học, q. I, tr. 4.

- 同。 而無 己。

Hợp hồ Đại Đồng, Đại Đồng nhi vô kỷ.

Trang Tử, Nam Hoa Kinh, chương XI, Tại Hựu.

[27] 言; 量, 量, 量,

量。 之量 矣。 涘, 而滿。

之順q 滿。 也。 涵,¡聖, 一。

Tống Trình Minh Đạo di thư ngôn: Nhân hữu đẩu sao chi lượng, hữu phủ hộc chi lượng, hữu chung đỉnh chi lượng, hữu giang hồ chi lượng. Giang hồ chi lượng cố đại hĩ, nhiên hữu nhai sĩ, diệc hưũ thời nhi mãn. Duy Thiên Địa chi lượng tắc vô mãn. Tháng nhân hữu thiên địc chi lượng dã.

Uyên Giám loại hàm, Thánh, Nhất. quyển 268, tr. 4670.

[28] Mạnh tử, Tận Tâm Thượng, 4

[29] 矣。 外。 外。。。

狹。 體,

矣。 聞, 也。

Cao trung Hiến viết: Tâm dữ Thiên Nhất nhi dĩ hĩ. Tâm đại vô ngoại, Thiên đại vô ngoại... Thế nhân chi tâm cốc vu kiến văn chi hiệp.

Thánh Nhân cùng lý dĩ tận kỳ tâm chi toàn thể, tắc tri thiên nhi vô hưũ ngoại chi tâm hĩ. Bất manh vu kiến văn, bất nhân kiến văn nhi manh dã.

Tống Nguyên Học Án, q. 17, tr. 25.

二。

Thiên Nhân bản vô nhị.

Tống Nguyên học Án, q. 13, tr. 17-Liêm Khê học án.

Écoute, homme insconstant et vide, ce que tu cherches n’est pas en dehors de toi, mais au dedans de toi:

Cesse donc de chercher et rentre en toi même, si tu veux trouver le Christ.

Illan de Casa Fuerte, La Religion essentielle, p. 162. Cf. Imitation du Christ.

[30] Đại Học, Chương I.

[31] Om! He knows Brahman, attains the highest! as to that this (verse) has been declared: He who knows Brahman as the Real, as knowledge (jnana), as the Infinite, set down in the secret place (of the heart) and in the highest heaven, He obtains all desires. Together with the intelligent Brahman...

Taittiriya Up. 2.1.-Cf. A source book of Indian Philosophy, p. 59.

- 影, 師。

Thiên thánh giai quá ảnh, lương tri nãi ngô sư. (Vương Dương Minh)

Wang Tch’ang Tche, S.J. , La philosophie morale de Wang Yang Ming, Appendice I.

- (聶 )

Vương Dương Minh (Nhiếp Báo)

[32] 也, 一。

也, 也。 也, 也。

Thiên Lý nhân chi lý dã. Tuần lý tắc dữ Thiên vi Nhất. Ngã phi Ngã dã, Lý dã. Lý phi lý dã, Thiên dã.

Tống Nguyên Học Án, q. 24, tr. 5. (Cảnh Vu học Án)

[33] Trung Hoa Triết Học sử, Tử Đồng, Tạ Vô Lượng, tr. 13.

[34] Trung Hoa Triết Học sử, Tử Đồng, Tạ Vô Lượng, tr. 10.

[35] Trung Hoa Triết Học sử, Tử Đồng, Tạ Vô Lượng, tr. 10.

[36] Trung Hoa Triết Học sử, Tử Đồng, Tạ Vô Lượng, tr. 12

[37] Nam hoa kinh, Thu Thủy.

[38] Thanh Tĩnh Kinh, tr. 64.

[39] Thượng Phẩm Đơn Pháp Tiết Thứ, tr. 10.

[40] Nam Hoa Kinh, Chương XII, Thiên Địa, đoạn K.

[41] ...Tâm truyền Nội Giáo Vô Vi,

       Là cơ xuất thế, hồi qui Động Đào.

Chiếu Minh, Đại Thừa Chân Giáo, tr. 92.

[42] ...Un arbre recoit l’essence, la hauteur et la largeur de ses racines. Si tu veux savoir d’où tu viens, demande-le à ton fonds, à la racine, à ton intention. Regarde combien ta profondeur a été pénétrée, combien tu t’es fixé à Dieu; et si tu vois que tu ne recherches que Dieu, que tu ne tends réellement que vers Dieu, comme la pierre tend uniquement vers la terre; si tu ne cherches ni toi-même, ni rien qui t’appartienne, alors en vérité je te le dis: Tu est déiforme et Divin.

Eckart Le Jeune, Illan de Casa la Fuerte, La Religion Essentielle, p. 155.

[43] 生, 本體。

Lão Tử dĩ vũ trụ vạn vật giai Đạo chi sở sinh, kỳ cứu cực tắc qui ư Đạo chi bản thể.

Tử Đồng, Tạ Vô Lượng, Trung Hoa Triết Học Sử tr. 16.

[44] 於沖

Tất kỳ tâm phản ư xung mạc vô trẫm chi bản thể. (Liệt Tử).

Tử Đồng, Tạ Vô Lượng, Trung Hoa Triết Học Sử, tr. 29.

[45] Cf. Thanh Tĩnh Kinh, Siêu Thoát Phẩm, xem lời giải thích câu: Chân thường chi đạo, ngộ giả tự đắc...

[46] Phúc Âm thánh Joan, phi lộ.

[47] N’est-il pas écrit dans votre loi: “J’ai dit: Vous êtes des dieux.”

Jean 10-34; Psaume 82,6.

C’est en Lui (Dieu) que nous avons la vie, le mouvement et l’être.car nous sommes de sa race.

Actes des Apôtres, 4, 17, 28

[48] Ut per hoec, efficiamini divinoe consortes naturae. II, Pierre, 1, 4.

[49] Car déjà le Royaume de Dieu est en vous.

Dieu est en dedans de vous, dit le Seigneur. (Regnum Dei intra vos est, dicit Dominus). Imitation de Jésus Christ, Livre II, Chapitre I, 1.

[50] Toute sa gloire et toute sa beauté est intérieure, c’est dans le secret du coeur qu’il se plait. (Như trên, livre II, Chap. I, 1.)

[51] Il est manifeste que Dieu est la substance de tous les corps et de toutes les âmes. Notre intention est de rendre intelligibles aux Latins, toutes les parties de cette philosophie réelle.

St Albert le Grand. Illan de Casa Fuerte, La Religion essentielle, p. 131.

...Il faut savoir que Dieu demeure en toutes les âmes, fut-ce celle du plus grand pécheur du monde et y est présent en substance. Et cette manière d’union est toujours entre Dieu, et toutes les créatures, selon laquelle il les conserve en leur être, de sorte que si elle venait à leur manquer, elle s’anéantiraient aussitôt et ne seraient plus.

St Jean de la Croix, La Montée du Carmel, Desclée et Brower p. 133-134.

...Omnia per ipsum facta sunt et sine ipso factum est nihil quod factum est.

Evangelium secundum Joannem, prologue, caput I, 3.

[52] Avoir toujours Dieu présent au dedans de soi et ne tenir à rien en dehors, c’est l’état de l’homme intérieur. (Ambulare cum Deo intus, nec aliqua affectone teneri foris, status est interni hominis.)

L’Imitation de Jésus Christ, chapitre VI, 4.

...C’est une grande grâce que Dieu nous fait quand il nous aide à le chercher dans notre intérieur.

Ste Thérèse d’Avila, citée par Ilan De Casa Fuerte: La Religion Essentielle, p. 167.

[53] Monter vers Dieu, c’est entrer en soi-même. Celui qui entre en lui-même et pénètre au fond de son âme, se dépasse et atteint vraiment Dieu. (Albert le Grand)

Ilan de Casa Fuerte, La Religion Essentielle, p. 130.

...L’homme qui s’est ainsi élevé au-dedans de lui-même, entre plus profondément dans son Centre. (Albert le Grand.)

...Le Ciel est au-dedans non au dehors de chacun... Le Ciel est dans l’homme. (Emmanuel Svedenborg)

Ilan de Casa Fuerte, La Religion Essentielle, p. 183.

[54] ...De l’Esprit partirait une courbe de matérialisation pour revenir en s’allégeant jusqu’au point d’extrême spiritualité doué de densité la plus faible. Ce mouvement constituerait l’immense cercle du créé, la manifestation du circulus vital issu du Principe Générateur Éternel.

Ilan de Casa Fuerte, La Religion Essentielle, p. 13.

[55] 上, 也。

戈上, 也。 沌,

焉。知 矣。

Tự Vô Cực thuyết đáo vạn vật thượng, thiên địa chi thủy chung dã. Tự vạn sự phản đáo Vô Cực thượng, Thánh Nhân chi thủy nhi chung dã. Thủy chung chi thuyết tức sinh tử chi thuyết, nhi khai hạp hỗn độn, thất xích chi khứ lưu bất dự yên. Tri hồ thử giả khả dữ ngữ Đạo hĩ.

Tống Nguyên Học Án, q. 12, tr. 1. (Chu Liêm Khê học Án)

心, 心。

Tống Ngyuên học Án, q. 17, tr. 26, Hoành Cừ học  Án.

[56] La Mathèse, p. 31.

[57] 世, 浮, 休。

Bí bản Gia Cát Thần Số, bài 46.

[58] 源, 之本。

Cùng Tính Mệnh chi nguyên, tất dĩ Thể Thiên vi học vấn chi bản.

Tống Nguyên Học Án, q. 11, tr. 10.

... La recherche par l’homme et dans l’homme sa propre divinisation, la recherche par l’homme et dans l’homme du Dieu Un...

Ilan de Casa Fuerte, La Religion Essentielle, p. 23.

[59] 之意 名,

Thánh nhân chi ý dĩ kỳ cưú cánh “chí cực vô danh khả danh”, cố đặc vị chi Thái Cực.

Tống Nguyên Học Án q. 12, tr. 4.

[60] 也。Lập hồ Thiên vị, dĩ chính trung dã,

Dịch Kinh, Nhu Quái. Thoán.

[61] 體, 支,

     業, 也。

Quân tử Hoàng Trung Thông Lý, chính vị cư thể, mỹ tại kỳ trung nhi sướng ư tứ chi, phát ư sự nghiệp, mỹ chi chí dã.

Văn Ngôn, Khôn quái, Hào LụcNgũ.

...Dans l’union intime, il parvient à la saveur spirituelle, à la possession trois fois sublime, et se plonge en Dieu, il s’enivre de délices dans l’existence essentielle -or les torrents de délices font couler dans le point central des puissances de l’homme une plénitude d’amour sensible, et de cette plénitude, la saveur pénétrante attent la vie physique elle-même et coule dans membres de l’homme.

(Jean Ruysbroech), Ilan de Casa Fuerte, La Religion Essentielle, p. 146.).

[62] 微, 通,

生于通 微,通 于思, 也。

Vô tư tắc bất năng thông vi, bất duệ tắc bất năng vô bất thông. Thị tắc vô bất thông sinh vu thông vi, thông vi sinh vu tư. Cố tư giả, Thánh Nhân chi bản dã.

Tống Nguyên học Án, q. 11. tr. 5.d’amour sensible, et de cette plénitude, la saveur pénétrante attent la vie physique elle-même et coule dans membres de l’homme.

(Jean Ruysbroech), Ilan de Casa Fuerte, La Religion Essentielle, p. 146.).

[63] 地, 天, 彊。

Bác hậu phối Địa, cao minh phối Thiên, du cửu vô cương.

Trung Dung, chương 26.

[64] , 為一 也, 家, 中國 焉。

者, 矣。

Đại nhân giả dĩ thiên địa vạn vật vi nhất gia dã. Kỳ thị thiên địa do nhất gia, Trung quốc do nhất nhân yên. Nhược phù gián hình hài nhi phân nhĩ ngã giả, tiểu nhân hĩ.

Vương Dương Minh, Đại Học Vấn

[65] Si tu cherches à l’intérieur de chaque atome,

      Au milieu, tu trouves un Soleil.

Les Sept Vallées, Bala’u’llah p. 15,

Gustave le Bon, L’évolution de la matière, p. 219

...Nous leur ferons voir nos signes dans le monde, et en eux-mêmes, et ils voyagent sur la mer de” Ils Comprendront qu’il est Dieu.” (Qu’ran) Như trên. p. 16.

Vũ trụ quan nói trên cũng phảng phất tương tự như nhửng vũ trụ quan của Buffon, Kant, Laplace, Carl Von Weizsacker, Gérard P. Kuiper, hay Édouard le Maitre. Về địng luật tụ tán áp dụng vào vũ trụ, nhà toán học Friedman khi giải lại những phương trình của Einstein cũng kết luận vũ trụ có thể giãn và có thể co được.

(Cf. Gamow, La Création de L’Univers, tr. 14, 15 , 25 và ss.)

...Cf. Âme de la Chine, p. 263: Toát lược Triết học Hégel.

[66] Chương XVI, Đạo Đức Kinh.

...Tout être qui connait sa propre essence, revient à son essnce par un retout complet.

(Liber de Causis, livre atrribué à Aristote)

Ilan de Casa Fuerte, La Religion Essentielle,p. 56.

[67] 求, 有。

Cực kỳ Đại nhi hậu Trung khả cầu. Chỉ kỳ Trung, nhi hậu Đại khả hữu.

Tống Nguyên Học Án, q. 17, tr. 29. (Hoành Cừ Học Án.)

 


»  mục lục   |   chương trước    |    chương kế

» Chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30