THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

» Mục lục | Phi lộ | chương: 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16  17  18  19


Chương 3

HAI CHIỀU HƯỚNG CỦA CUỘC ĐỜI

ĐẠO HUYỀN ĐỒNG (MYSTICISM)

 

I. HAI CHIỀU HƯỚNG CỦA CUỘC ĐỜI

Thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể chủ trương rằng Vũ trụ này là từ một Bản Thể Duy Nhất sinh xuất ra. Còn đạo Huyền Đồng chủ trương vạn sự trong trời đất này chung qui sẽ phải trở về với Bản Thể đó. Một đàng thì đi ra, một đàng thì đi vô. Hai chiều ráp lại thành vòng Đại Tuần Hoàn của vũ trụ.

Thuyết Thiên địa vạn vật nhất thể là chiều sinh Nhân, sinh Vật, còn Đạo Huyền Đồng là chiều sinh Thánh, sinh Thần. Chiều đi ra là chiều xuôi, chiều đi về là chiều ngược. Kinh Dịch chung qui là dạy con người Chiều Ngược này, vì thế nói: Dịch, nghịch số dã.

Từ Vô Cực, Thái cực xuống tới âm Dương, sinh hóa vạn vật, đó là chiều thuận. Đó là chiều từ Thái cực ra đến 64 quẻ của Phục Hi. Đạo gia gọi thế là Giáng Bản Lưu Mạt.

Từ vạn vật, trở ngược về Bản Thể, hay nói cách khác, từ 64 quẻ trở về Tứ Tượng, Âm Dương, Thái cực, gọi là chiều nghịch. Đạo gia gọi thế là từ ngọn trở về gốc (Tự mạt phản bản). Như vậy, chiều thuận sẽ sinh nhân, sinh vật, chiều nghịch sẽ sinh Thánh, sinh Thần.

Hay nói cho đúng hơn, chiều Thuận là đi từ Thái Cực, đến âm Dương, Tứữ Tượng đến 32 quẻ âm phía trái, tức là từ Cấu, đến Khôn. Còn chiều Nghịch là chiều đi từ quẻ Phục, đến Kiền rồi trở về Thái Cực.

Chính vì thế mà nơi quẻ Phục có câu: «Phục kỳ kiến Thiên Địa chi tâm hồ?» (Con người biết đàng trở về là khi thấy được trong lòng mình có Thiên Địa chi tâm.)

Con người thường đi theo chiều Thuận từ bé đến khoảng 35 tuổi. Rồi từ 36 đến già sẽ đi theo chiều nghịch, nếu có duyên may, hiểu đạo.

Con đường trở về Nho gia gọi là Phản Cung, hay Phản Thân, tức là quay lưng lại với thế giới vật chất, và hướng về thế giới tinh thần, về Thái Cực, Vô Cực.

Âu Châu gọi «hướng ngoại trục vật» là Extroversion: Gọi «hướng nội hồi Thiên» là Introversion. Gọi «phản quan» hay «nội quan» là Introspection.

Phật giáo gọi Chiều Nghịch là «Nội quan», hay «Nội quan quán chiếu.»

Nhìn sang phía Trời Âu, ta thấy nhiều triết gia cũng đã đề cập đến 2 chiều Thuận Nghịch của cuộc tiến hóa.

Hegel mô tả đại khái như sau: Tinh Thần thoạt kỳ thủy xuất phát để phá tán vào vạn vật, rồi qua nhiều thời kỳ văn minh, nhiều chặng đường lịch sử vất vả, lại phục hồi được chân thể, về được với Thượng đế.

Các triết gia Alexandrin và Thomist cũng chủ trương một vòng tuần hoàn từ Thượng Đế xuống, rồi dần dần quay lại.

Denis Areopagites một triết gia và một nhà huyền học Âu Châu thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên cũng chủ trương vũ trụ vận chuyển theo 2 chiều: chiều sinh hóa từ Thượng đế phát ra, và chiều phản bản qui nguyên, trở về với Thượng Đế.[1]

Gần đây, Claude Tresmontant cũng viết: «Có một vấn đề siêu hình thường ám ảnh tư tưởng Âu Châu: Đó là sơ đồ một vòng tuần hoàn từ Nhất sa đọa xuống Vạn, rồi từ Vạn lại phản hoàn về Nhất.»

Hai chiều Thuận, Nghịch của vũ trụ cũng dần dà được các khoa học gia xác định.

Chiều Thuận tức là chiều Dương tiêu, âm trưởng đã được Carnot Clausius chứng minh. Quan niệm này được gọi là Nguyên Lý thứ 2 của Nhiệt Động Học, hay nguyên lý Carnot-Clausius. Nguyên lý này đại khái như sau:

a.  Năng lực trong vũ trụ có một số lượng nhất định.

b.  Năng lực có thể phân tách thành hoạt lực, và tiềm lực.

c. Khi tác dụng hoạt lực sẽ tiêu hao, suy giảm dần và không thể phục hồi nguyên trạng.

d. Rốt cuộc, hoạt lực sẽ tiêu hao dần và có một lúc sẽ triệt tiêu.

e.  Khi ấy, tiềm lực sẽ tăng lên đến mức tối đa (Maximal Entropy), nhưng vô dụng, và thế giới sẽ tận số trong im lìm, lạnh lẽo.

Mới đầu các khoa học gia tưởng thế giới chỉ chuyển động theo một chiều nới trên. Dần dà, các nhà sinh lý học (biologist) và các nhà sáng tạo các máy móc tự động (Cybernetician) đã nhận thấy rằng Nguyên Lý Carnot-Clausius chỉ áp dụng cho vật chất vô tri, chứ không áp dụng cho sinh vật, nhất là cho con người.

Trong con người rõ ràng có 2 chiều biến chuyển:

– Tiêu (Catabolism) Chiều thuận.

– Tức (Anabolism) Chiều nghịch.  

«Đi theo chiều thuận, trong thì bị thất tình, lục dục làm mê muội, ngoài thì bị trăm điều, nghìn việc quấy đảo tâm thần, lấy giả làm chân, lấy tà làm chính, lấy khổ làm vui, cứ bị lôi cuốn theo dục vọng, cho đến khi tiêu hao hết tinh thần.

«Người đại trí, đại tuệ đi theo chiều nghịch sẽ thoát vòng kiềm tỏa của các định luật tạo hóa, sẽ không còn bị âm dương nung nấu, không còn bị vạn vật lôi cuốn, dùng đời để tu đạo, lấy nhân đạo để chu toàn Thiên Đạo.

«Nghịch đây là trở về với Tuyệt đối Thể y như một kẻ bỏ nhà ra đi thật xa xôi, nay trở lại nhà. Tuy gọi là "Nghịch Hành", nhưng thực là đi theo đúng lẽ Trời, đó là "cái đại thuận" trong cái nghịch. Nghịch đây bất quá là đi ngược với đường lối của thế nhân thông thường.» [2]

Dịch Kinh trọng chiều nghịch và dạy người quân tử đi theo chiều nghịch, vì thế gọi Dịch là Nghịch Số.

Lão tử trọng chiều nghịch, vì thế mới nói Phản giả đạo chi động. (Đạo Đức Kinh, chương XL)

Các đạo gia cũng hết sức trọng chiều nghịch.

Các ngài chủ trương cần phải băng qua hào quải (Hoàn cảnh) trở về Thái Cực, băng qua hiện tượng trở về Tuyệt đối. Các ngài chủ trương muôn loài rồi ra cũng trở về với Tuyệt đối.

Các Ngài chủ trương muôn loài rồi ra cũng trở về với Thái Cực.[3]

Ngộ Chân Trực Chỉ có thơ:

Vạn vật vân vân các phản côn,

Phản côn, phục mệnh tức trường tồn.

Tri thường, phản bản, nhân nan hội,

Vọng tác chiêu hung vãng vãng văn.

Dịch:

Vạn vật rồi ra cũng phản côn,

Phản côn, phục mệnh sẽ trường tồn.

Tri thường, phản bản người đâu rõ,

Nên mới chiêu hung, sống mỏi mòn. [4]

 Lưu Nhất Minh có thơ:

Huyền quan nhất khiếu thiểu nhân tri,

Hoảng hốt yểu minh hàm lưỡng nghi.

Thuận khứ qui lưu phiền não lộ,

Nghịch lai tiện thị thánh hiền ki.

Dịch:

Huyền quan một khiếu, ít người tri,

Phảng phất mơ mòng đủ lưỡng nghi.

Đưa đẩy xuôi dòng vương khổ não,

Ngược chiều, hiền thánh tạo căn ki. [5]

Trên đây đã:

1. Minh xác hai chiều thuận nghịch, cùng ý nghĩa và mục địch của 2 chiều thuận nghịch.

2. Đề cao Chiều Nghịch và nhận chân Chiều Nghịch là chiều sinh tiên, sinh thánh, sinh thần.

Tuy nhiên con người sinh ra đời không phải lúc nào cũng theo được chiều nghịch, mà cũng có lúc phải theo chiều thuận.

Theo thiển ý tôi, một cuộc sống lý tưởng nhất của con người sẽ gồm cả 2 chiều thuận nghịch.

Lúc tuổi trẻ (1-35), theo chiều Thuận, chiều Hướng Ngoại, từ tinh thần tiến ra vật chất, ra ngoại cảnh, ra xã hội để mưu sinh, cải tạo hoàn cảnh, góp phần xây dựng giang sơn, đất nước. Nửa đời sau (36-80, 90), khi đã công thành, danh toại, sẽ đi chiều nghịch, từ vật chất ngoại cảnh, tiến sâu về phía tâm linh, để thần thánh hóa bản thân, phối hợp với Thái Cực.

Sách Đạo Nguyên Tinh Vi Ca cho rằng: Trước xuống, sau lên hợp tự nhiên.[6]

Như vậy, là biết hồi hướng phải thời, đúng lúc, theo đúng lẽ tuần hoàn, vãng lai, phản phúc của Dịch Kinh, và của trời đất.

Lúc trở vào nội tâm, lúc đi theo Chiều Nghịch, thì mọi sự đều nghịch đảo hết:

Cái gì xưa kia cho là quan trọng, nay trở thành tầm thường; cái gì xưa cho là tầm thường nay trở nên quan trọng.

Lúc ấy, Con người thực tế (le moi empirique; The empirical self) nhường bước cho con người lý tưởng (le moi Idéal; The ideal self).

Thượng đế ngoại tại (God without), sẽ trở thành Thượng đế nội tại (God within).

Thượng đế xưa kia xa cách, nay trở thành thân mật, gần kề.

Người ngoài trông vào, tưởng ta bỏ thực, cầu hư.

Ngược lại, ta biết chắc mình đã bỏ hư, cầu thực.

Đi theo chiều thuận, hướng ngoại, hoạt động bên ngoài là đi theo đời, "đi đời"

Đi theo chiều nghịch, hướng nội, sống một đời sống tinh thần súc tích bên trong, là đi theo đạo, "đi đạo.»

 

II. ĐẠO HUYỀN ĐỒNG & THUYẾT THIÊN ĐỊA VẠN VẬT ĐỒNG NHẤT THỂ

Đạo Huyền đồng là sống một đời đạo giáo kết hợp với Trời ngay từ khi còn ở gian trần này.

Al-Ghazali phê bình: «Khi nhà huyền học sống phối kết với Một, thì đã đi tới giai đoạn tiến hóa chót của con người. Con người không thể nào đi xa hơn thế được, vì đã đi đến Một là không còn Vạn, không còn gì bác tạp nữa.» [7]

Jalalu'd Din có thơ:

Hồn ta, hồn Chúa tuy hai,

Như nưởc và rượu, hòa hài với nhau.

Chúa, Ta ý hiệp, tâm đầu,

Nước kia, rượu nọ, ai hầu phân ra?

Ngài nay đã trở thành ta,

Ta nay đã thoát cõi bờ nhỏ nhoi!

Ngài nay đã chiếm ta rồi,

Còn ta cũng đã thành Ngài còn đâu? [8]

Đạo Huyền Đồng chủ trương Thượng đế là Bản Thể con người, là cốt lõi con người, và luôn luôn tiềm ẩn trong lòng con người (God is immanent in man). Plotinus nói: "Thượng đế không ở ngoài con người, nhưng ở ngay trong lòng vạn hữu. Chỉ tại ta ngu dốt không biết điều đó mà thôi.» [9]

Eckhart cũng nói: «Thượng đế gần tôi hơn chính tôi, Ngài cũng gần gỗ đá như vậy, nhưng chúng không biết điều đó.» [10]

Mục tiêu của Đạo huyền đồng: Trở về với Nhất thể.

Một người theo đạo huyền đồng chân chính phải biết rằng muôn vật sinh xuất ra từ Một, và có hiểu rõ lẽ sinh hóa từ Một mới là người theo đạo huyền đồng. (Mysticism).

Eckhart cho rằng: Cái mà con người nhìn thấy thù tạp, phân hóa bên ngoài, thật ra là Một mà thôi. Ở đây, một ngọn cỏ, một tấm gỗ, một phiến đá thật ra cũng là một.[11]

Tennyson viết:

Little flower – but if I could understand

What you are, root and all, and all in all.

I shoud know what God and man is.

Dịch:

Bông hoa bé nhỏ con con,

Nếu tôi hiểu được nguồn cơn, gót đầu.

Nếu tôi hiểu nó cho sâu,

Trời, Người bao chuyện nhiệm màu, cũng thông.

Phật Giáo cũng chủ trương Vạn loài đồng thể. Trong quyển Zen and Japanese Culture, nơi tr. 352, Daisetz T. Suzuki trích lời thư Tăng Triệu như sau:

Heaven and earth and I are of the same root,

The ten thousand things and I are of one substance.

Đó chính là Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể.

Biết được, theo được đạo huyền đồng là cái duyên mà trời đất ban cho những người có căn cơ, gốc gác, cho những người biết lập quyết tâm đi tìm Đạo, tìm Trời. Người xưa nói: «Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai.» (Ai mà có lòng thành tín, thì vàng đá sẽ mở lòng ra.)

Không biết rằng mình phát xuất ra từ Một, không biết rằng muôn loài là một, là chính mình, thì không bao giờ vào được đạo Huyền Đồng.

Lữ Động Tân viết:

Giá chẳng đáng đồng tiền.

Nếu ai mà hỏi giá,

Muôn vạn lạng hoàng kim.

Đạo tặc chẳng cướp được,

Hỏa thiêu cũng y nhiên.

Ở đời không kẻ biết,

Chí thân cũng không truyền.

Ta từ Vân Động đến,

Tới nay quá thiên niên.

Hận là không kẻ biết,

Trong mình vẫn giữ nguyên.

Nó chẳng đứt, chẳng liền,

Tung ra trùm trời đất,

Thu nhỏ lọt đầu kim.

Nếu ai mà biết được,

Tu đạo, sẽ thành tiên.

Bạn hãy kiếm điểm lại,

Có chăng tại thân biên!

Bài này là một bài kệ của Lữ Động Tân.[12]

Thực ra, Trời là cốt lõi muôn loài, và là chiều sâu con người, nhưng con người đâu có biết có hay. Họ chạy đi tìm những đạo mới lạ, chỉ duy là đã có sẵn đạo cao siêu nhất ở ngay trong mình, thì lại bỏ qua luôn, không thèm để ý tới. Thế chính là Bụt chùa nhà không thiêng. Thế là có của báu trong nhà mà vẫn phải ngửa tay đi ăn xin người.

Một hôm, tôi sang Paris, trèo lên tháp Eiffel ngắm cảnh. Tôi thấy trăng sao, trời mây ở Paris, là trăng sao, tôi vốn có từ Việt Nam. Tôi nhớ lại đồ ăn, thức uống ở Paris, tôi cũng thấy có ê hề ở Việt Nam. Nghĩa là cái gì cần cho con người như đồ ăn, thức uống, như không khí, thì Trời đã cho tôi có đủ ở Việt Nam. Như vậy, nếu có cái Đạo cần cho con người, thì tôi phải mang nó sẵn trong tôi, chứ nó không thể là cái đạo nhập cảng. Phật nói Ngài là ngón tay chỉ trăng, chứ Ngài không phải là trăng. Đạo Nho nói: Đạo quân tử, phát xuất tự thâm tâm (Cố quân tử chi đạo, bổn chi ư Thân. -- Trung Dung chương 29). Chính vì vậy mà tôi đã dành nửa đời người để đi tìm cho ra cái đạo tự nhiên, vĩnh cửu mà trời đất đã ban cho tôi từ khi ra đời. Khi còn trẻ, tôi đã đi theo đạo này, đạo nọ, nhưng những gì họ rao giảng, mà không hợp tình, hợp lý, không hợp với tự nhiên, với Thiên Lý, với những định luật vĩnh cửu của trời đất là tự nhiên nó trôi đi, như nước đổ đầu vịt.

Thánh hiền các đạo giáo đều dạy lẽ Qui Nguyên Phản Bản. Lão tử viết:

Muôn loài sinh hóa đa đoan,

Rồi ra cũng phải lai hoàn bản nguyên.

Hoàn bản nguyên an nhiên phục mệnh,

Phục mệnh rồi trường vĩnh vô cùng.

(Xem bài Qui Căn, chương XVI, Đạo đức Kinh)

Các đạo giáo Á Đông đều dạy «qui căn phản bản», hay «qui nguyên, phục thủy.»

Bà La Môn dạy ta:

Tiến từ Hư Vọng, tới Chân Thực.

Từ tối tăm đến Ánh sáng.

Từ Tử Vong đến Bất tử. (Brih. 1.3.28).

Đạo Phật dạy 4 chữ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh: Tiến tới Thường Hằng, Hạnh Phúc, Đại Ngã (Phật tính. Chân Tâm), Thanh Tịnh.

Đạo Nho dạy: Khử nhân dục (Vọng Tâm), Tồn Thiên Lý (Chân Tâm) và hễ Nhân Dục thắng, thì Thiên Lý vong, Và phải sống sao cho lòng được Quang, Minh, Chính Đại.

Như vây, giác ngộ là tìm ra được Chân Tâm, Chân Ngã khuất lấp sau bức màn vô minh và hiện tượng.

Tóm lại, Thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể sẽ trở thành một học thuyết đạo giáo hết sức cao siêu, nếu ta thay chữ Bản Thể bằng những danh từ như Thượng đế, Allah, Chân Như, Đạo v.v...

Tuy nhiên, nó hết sức khác với tôn chỉ của các đạo giáo công truyền, vì nó chủ trương:

* Con người có Thiên Tính.

* Thượng Đế ngự trong lòng sâu vạn hữu.

* Mọi người đều có một giá trị siêu việt, đều có sẵn nơi mình những khả năng vô biên, vô tận, đều có thể tiến hóa vô biên tận.

* Mọi người phải tương ái, tương thân, vì đều có cùng một Bản Thể.

* Mọi người phải đem tình yêu ban rải tới chúng sinh, vì chúng sinh có đồng một bản thể như mình.

* Phải đi vào Tâm mà tìm Đạo, tìm Trời.

* Làm chính trị, hay lãnh đạo dân là phải lo cho dân ấm no, sung sướng,

* Lãnh đạo nhân quần là phải hướng dẫn nhân quần tới Chân, Thiện, Mỹ.

* Phải biết đoàn kết để giải quyết mọi nỗi dở dang, chếch mác còn có trên đời này.

* Mục đích của đời sống là sống cao khiết, kết hợp nhất như với Thượng đế ngay từ khi còn ở gian trần này.

* Khi còn ngây thơ, thì trông vào tha lực, khi đã trưởng thành, đã giác ngộ, thì trông vào tự lực.

* Lương tâm là Thiên Thư duy nhất, không nhiễm mầu thời gian và không gian: Không ai có thể manh tâm sửa đổi được.

Nếu quả thật con người sinh ra ở cõi đời này là cốt để thực hiện cái Bản Thể cao đại của mình, thực hiện một cuộc sống cá nhân và xã hội lý tưởng, thì chúng ta mới tìm ra được một lẽ sống đích thực cho cá nhân và cho nhân loại. Nếu quả thật chúng ta sống ở đời cốt là để thực hiện một cuộc sống lý tưởng cho mình và cho người, ta sẽ tìm ra ngay những thiếu sót mà mỗi người chúng ta, mỗi quốc gia, xã hội đang còn mắc phải.

Chúng ta còn đói khổ? còn bệnh tật? còn lầm than? chúng ta còn ngu si, dốt nát? chúng ta còn đầy sân hận? chúng ta còn bị dục vọng dày vò? Hoặc xã hội chúng ta còn đang lạc hậu, đang bị bóc lột, đang bị cùm xiềng?

Khi đã tìm ra căn bệnh rồi, tìm ra thuốc chữa không còn phải là khó. Cái khó là chính vì chúng ta không chịu suy tư, không chịu vươn vượt, không chịu đoàn kết để mà xây dựng tương lai. Nếu chúng ta không cùng nhau ra tay tìm ra nguyên nhân mọi chếch mác dở dang, mọi khổ đau của nhân quần, nếu chúng ta không chịu sứýa sai, sửa lỗi, thì không bao giờ chúng ta có một cuộc sống tiến bộ, đáng sống.

Tin vào sức mạnh mình, tin vào những khả năng vô biên tận của con người, tin vào sức mạnh vô biên của sự đoàn kết, của sự tương kính, tương thân, con người sẽ tạo cho mình một đời sống cực lạc, hạnh phúc cho mình và cho mọi người. Đó là định mệnh con người trong tương lai, mai hậu.

Và tôi liên tưởng đến bài thơ Plein Ciel của Victor Hugo:

Thuyền Nhân loại hướng về đâu tá?

Thuyền quang hoa băng ngả thần tiên.

Tiến về mai hậu siêu nhiên,

Tiến về đức hạnh nguyên tuyền tinh hoa.

Ánh khoa học Trời xa lóng lánh,

Thuyền quang hoa băng cảnh thần tiên,

Tiến về đẹp đẽ tinh tuyền,

Tiến về Thượng giới, về miền muôn sao.


CHÚ THÍCH

[1] Xem Dịch Học Nhập môn của Tác giả, các tr. 116-138.

[2] Xem Lưu Nhất Minh, Tượng ngôn phá nghi, q. thượng tr. 1 b.

[3] Nhất giả Vô chi xưng, vạn vật chi sở dĩ thành chung, cố vân Qui Nhất. Ngũ hành tương thôi phản qui nhất. -- Huỳnh Đình Ngoại Cảnh, tr. 18.

[4] Ngộ Chân Trực Chỉ, quyển 3, tr. 12.

[5] Lưu Nhất Minh, Tượng Ngôn Phá Nghi, q. hạ tr. 7a.

[6] Hậu thăng, tiền giáng hợp thiên nhiên.

[7] Al-Ghazali comments: "When the mystic enters into the pure and absolute Oneness of the One and into the Kingdom of the One and Alone, mortals reach the end of their ascent... No higher ascent for the soul is possible, for there is no height beyond the highest and no multiplicity in the face of the Unity..."  — Evelyn Underhill, Mysticism, A meridian Book, p. 174–175.

[8] With Thy Sweet Soul, this soul of mine,

Had mixed as Water doth with Wine,

Who can the Wine and Water part,

Or me and Thee when we combine?

Thou art become my greater Self,

Small bounds no more can me confine.

Thou hast my being taken on,

And shall not I now take on thine?...

Hal Bridges, Mysticism, A meridian Book, p. 426.

[9] God, says Plotinus, is not external to anyone, but is present with all things, though they are ignorant that He is so. Mysticism, Everlyn Underhill. p. 99.

[10] God, says Echkart, is nearer to me than I am to myself: He is just as near to wood and stone, but they do not khow it. — Mysticism, p. 101.

[11] All that a man has here externally in multiplicity is intricically one. Here all blades of grass, wood and stone, all things are one.—Hal Bridges, American Mysticism, Harper and Row, 1979, p. 3.

[12] Một hôm, vào khoảng năm 1976, tôi và nhà tôi xuống thăm chùa Đạo Lão là Chùa Khánh Vân, ở đường Lò Siêu, Chợ Lớn, tôi thấy trụ trì đem dán cho thiên hạ đọc. Tôi ghi chép lại, và đem về dịch ra tiếng Việt, và cũng đem biếu vị trụ trì một bản. Bài này, sang Mỹ rồi, nhà tôi mới đem ghi chép lại. Có thể là thiếu đi ít câu, nhưng đại ý chỉ có vậy.


» Mục lục | Phi lộ | chương: 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12  13  14  15  16  17  18  19